Có ‘‘Tấm Bản Đồ’’ chính xác trong tay ,chỉ còn “LÊN ĐƯỜNG” với cả Thân và Tâm với sáu căn thanh tịnh hổ dụng đồng loạt . “LÊN ĐƯỜNG” với cái TÂM thẳng tận đầu nguồn : Tâm thấu suốt Tâm, trong suốt rỗng rang không có một vật ; cái Tâm phi Tâm phi Phật phi vật phi phàm, vô ngã chủ vô năng sở vô sở trụ… tương ưng với cái RỖNG KHÔNG BÁT NHÃ, cái RỖNG THÊNH KHÔNG THÁNH của Tổ Bồ đề Đạt Ma, cái TUYỆT HỌC VÔ VI của Thiền Sư Huyền Giác, CÁNH CỬA RÕ CA DIẾP ở tận đầu nguồn Tâm, hay cái TÂM VÔ : “Vô TÂM nơi Sự, vô Sự nơi TÂM” của Thiền Sư Đức Sơn…
Trên đường đi tìm Đạo, luôn luôn nhìn “Bản Đồ” mà đi thẳng nhắm hướng “Mục Tiêu Rốt Ráo” mà đi, không quanh co hoặc ghé vào Bến Bãi Lục Trần vì rất dễ bị cám dỗ , hoặc lạc đường lạc hướng quên mất đường đi. Khi đó uổng phí thời gian, nhiều khi uổng phí cả cuộc đời hay nhiều đời nhiều kiếp lạc vào Mê Cung của Nghiệp Chướng Vô Minh không biết đường trở về. Nếu gặp ngã ba đường khó xử hoặc trở ngại trên đường đi, gặp ách tắc dọc đường thì lập tức soi lại Bản Đồ tìm phương hướng chính xác rồi mới tiếp tục đi, như thế mới không lạc và có niềm tin vững chắc là sẽ đến nơi. Như vậy mới thấy rằng Tấm Bản Đồ Lên Đường là rất cần thiết, không thể thiếu trong suốt cuộc hành trình đi tìm Đạo. Nó là Đại Thần Chú, Vô Thượng Chú, Vô Đẳng Đẳng Chú trừ hết mọi chướng ngại trên đường đi. Phật, Tổ, Thiền Sư nhờ nó mà đạt Chánh Đẳng Chánh Giác. Nó linh ứng vi diệu, Đức Phật gởi gắm nhiều Mật Nghĩa thâm sâu, là Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” còn gọi là Tấm Bản Đồ “Sắc Không” hay “Sắc tức thị Không”, Tấm Bản Đồ “Không” hay “Chân Không” hay Tấm Bản Đồ “Mộng” vì nó đã được trắc nghiệm hay “Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao, và cái Mục Tiêu Rốt Ráo của Tấm Bản Đồ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
Còn Tấm Bản Đồ ‘‘Như Lai Địa’’ với cái cửa ‘‘Vô Vi’’ trong Chứng Đạo Ca của Thiền Sư Huyền Giác, Tấm Bản Đồ “Rỗng Thênh Không Thánh” với cái cửa “Trực Chỉ Nhân Tâm” hay‘‘Sáu cửa vào động Thiếu Thất’’ của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Tấm Bản Đồ “Bổn Lai Vô Nhất Vật” với cái cửa ‘‘Vô Niệm’’ của Lục Tổ Huệ Năng, Tấm Bản Đồ ‘‘Vô’’ với cái cửa “Vô Môn Quan” của Thiền Sư Huệ Khai…v…v… tuy cơ duyên có khác, nhưng thực ra thì cũng đồng điệu như một, đều lấy Tâm làm Tông Chỉ và cửa Không làm cửa Pháp, chỉ “trực tiếp” vào Cửa, chỉ “tận gốc” vào đầu nguồn Tâm gốc Tánh để đạt Đạo: “Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật”.
Chẳng hạn như, nếu Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” chỉ trực tiếp “Sắc tức thị Không” lấy Tâm (tức Sắc) làm Tông để đạt tới Ma Ha Bát Nhã (tức Không) như ngay trong cái tựa Kinh (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) thì đã ẩn chứa lời khai thị trực tiếp của Đức Phật: lấy Tâm làm con đường hay là Tông Chỉ để đi suốt đường Tâm: đó là cái ( Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa “Tâm”) . Nghĩa là từ Tâm Ngọn đi suốt đường Tâm cho đến Tâm Gốc tận bờ bên kia, ở đây Đức Phật "chỉ thẳng": không nói đến Tâm Ngọn mà chỉ ngay cái Gốc tức là Tâm “Ba La Mật Đa” (cũng là cái Cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác), huốt tận đầu nguồn là Ba La Mật Đa, tới đây thì Tâm biến dạng thành Phi Tâm, tức là TÁNH, tức là Ma Ha Bát Nhã. Cũng có thể gộp lại cái (Ma Ha Bát Nhã) và cái (Ba La Mật Đa) và khi đó là cái Tâm “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”, là cái Tâm rốt ráo cùng tột là Tâm phi Tâm, tức là Tánh. Vì Tâm này là Tâm "Phi", tức không còn là Tâm, là cái rốt ráo tận cùng, tức là cái: "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa". Còn là Tâm thì còn là Sắc, đạt tới Tánh thì Phi Tâm Phi Sắc, tức là Không, là “Sắc tức thị Không”.
Tổ thứ tư Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta) khi truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ thứ năm là Đề Đa Ca (Dhirtaka) có nói bài kệ:
“Tâm tự bổn lai Tâm (Tâm tự xưa nay Tâm,
Bổn Tâm phi hữu Pháp Bổn Tâm chẳng có Pháp.
Hữu Pháp hữu Bổn Tâm Có Pháp có Bổn Tâm,
Phi Tâm phi Bổn Pháp”. Chẳng Tâm chẳng Bổn Pháp).
Cái Tâm xưa nay vẫn là vậy (Tâm tự bổn lai Tâm). Bổn Tâm là cái Tâm “Ba La Mật Đa” huốt tận đầu nguồn tức là Tánh và ở trên Tánh thì không có một Pháp để thấy (Bổn Tâm phi hữu Pháp), đây là mặt Thể của Tánh. Nhưng nếu thấy có Pháp tức là có cái Bổn Tâm (tức là Tánh hay Tự Tánh) vì Bổn Tâm hay Tánh hay Tự Tánh tuy “Rỗng Thênh Không Thánh” nhưng lại “hay sanh muôn Pháp” là cái Chứng Ngộ của Lục Tổ Huệ Năng (Hữu Pháp hữu Bổn Tâm), đây là mặt Dụng của Tánh. Cuối cùng cái Bổn Tâm này hay Tánh hay Tự Tánh là Tâm mà Phi Tâm và ở nơi cái Tâm Phi Tâm không có một Pháp, cả đến cái Pháp Gốc (Bổn Pháp) để sinh ra Pháp cũng không có, bởi vì có Tâm mới có Pháp còn cái Tâm Phi Tâm này hoàn toàn không có một Pháp để thấy dù là Pháp Gốc. Tâm này là Tâm (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa). Và một khi Ngộ Nhập thì : “Phi Tâm phi Bổn Pháp” tức không còn Tâm và một Pháp cũng không có: “Tâm Pháp song vong Tánh tức Chân” tức là cái “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Tới đây là chỗ rốt ráo tận cùng: "Phi Sắc Phi Tâm Phi hạnh Nghiệp", đạt tới "Không Tâm" và "Không Tâm" là Đạo, là cái Một tột cùng, là Chơn Nhất, là "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa".
Nếu giải thích theo lời thông thường: (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) là Kinh (Trung Tâm) hay Kinh (Cốt Lõi) nói về cái (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa) thì e rằng thiếu “cái áo nghĩa hay mật nghĩa” thâm huyền mà Đức Phật gởi gắm trong Bài Kinh? Lời giải nầy tuy có khác với thông thường, nhưng Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” rõ ràng là chẳng khác với Tấm Bản Đồ “Trực Chỉ Nhân Tâm kiến Tánh thành Phật” của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
“Bát Nhã thanh tịnh hải
Lý mật nghĩa u thâm
Ba La Đáo Bỉ Ngạn
Hướng Đạo kỳ do Tâm”.
Lật ngược bài kệ này lại, thì rõ ràng Tổ Đạt Ma cũng lấy Tâm làm Tông Chỉ, làm con đường để đi : “Hướng Đạo kỳ do Tâm”, và đi huốt đường Tâm đến tận gốc là “Ba La Đáo Bỉ Ngạn” (tới bờ bên kia) ngộ nhập cái “Bát Nhã thanh tịnh hải”, tức thì thấy TÁNH thành PHẬT, và Tâm là Sắc, Tánh là Không: “Sắc tức thị Không”.
Tấm Bản Đồ “Chứng Đạo Ca” với Cái Cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác thì cũng chỉ ngay cái Gốc: “Sắc tức thị Không”, là “Chiếc Cầu nối” giữa Sắc và Không, giữa Tâm và Tánh, giữa Mê và Ngộ, giữa Thế Gian và Bát Nhã Chân Như hay Như Lai Niết Bàn…là cái Bí Quyết mà Thiền Sư Huyền Giác đã khai thị, hay cái kinh nghiệm Chứng Ngộ của Ngài. Trước đây Ngài phạm lỗi lầm là học nơi Cái Ngọn và học vô số chữ nghĩa văn tự suông, uổng phí cả một đời người, đáng bị Phật quở trách:
“Ngô tảo niên lai tích học vấn, (Ta sớm bao năm chuyên học vấn,
Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận. Từng viết sớ sao tìm kinh luận,
Phân biệt danh tướng bất tri hưu, Phân biệt danh tướng mãi không thôi,
Nhập hải toán sa đồ tự khốn. Vào biển đếm cát tự chuốc hận,
Khước bị Như Lai khổ ha trách, Quả đáng bị Như Lai quở trách,
Sổ tha trân bảo hữu hà ích. Châu báu của người có gì ích?
Tòng lai tắng đắng giác hư hành, Lâu nay đắng đót rõ công suông,
Ða niên uổng tác phong trần khách”. Uổng bấy làm thân phong trần khách!)
Thiền Sư Nguyên Thiều (1648-1728), tông Lâm Tế đời thứ 33,trước khi tịch có bài kệ chỉ cái Vô Vi với Viên Ngọc Ma Ni . ‘‘Viên Ngọc’’ là Thể, là Tánh, là Bát Nhã hay là cái Vô Vi ; còn cái ‘‘Ánh Sáng’’của Viên Ngọc là Dụng , là Tâm, là cái Rõ hay cái cửa Vô Vi:
“Tịch tịch Kính vô ảnh (Lặng lặng Gương không ảnh
Minh minh Châu bất dung Sáng sáng Ngọc không hình
Đường đường Vật phi vật Rõ ràng vật không vật
Liêu liêu Không bất không”. Rỗng rang không chẳng không).
Tấm Bản Đồ “Niêm Hoa Vi Tiếu” hay “Bổn lai Vô Nhất Vật”…thì cũng vậy. Nếu nhận ra được Cái Rõ hay cái Ánh Sáng Bát Nhã ngay trên Sắc kể cả ngay nơi Hư Không tức là đã tới Cái Cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác, ngay nơi đó nhảy thẳng vào Đất Như Lai thì: “Sắc tức thị Không” và cái Không này là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.Minh minh Châu bất dung Sáng sáng Ngọc không hình
Đường đường Vật phi vật Rõ ràng vật không vật
Liêu liêu Không bất không”. Rỗng rang không chẳng không).
Rốt ráo lại, tất cả những Tấm Bản Đồ của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư có thể gọi là Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” hay Tấm Bản Đồ “Sắc tức thị Không”, vì mục tiêu cuối cùng là đạt tới cái “Không” hay cái “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” thấy TÁNH thành PHẬT.
Trong giấc Mộng Ban Đêm, cả thế giới Hữu Vi gồm sơn hà đại địa và mỗi chúng sanh đều chỉ là cái Bóng của Thân Tâm đang nằm ngủ Mê trên giường biến chiếu ra. Thân và Tâm trong Chiêm Bao không có thật, chỉ là Bóng ảo, do đó hoàn toàn thụ động và tùy thuộc vào cơn Mộng: Do Tâm Mê điều khiển, do đó không có con đường Giải Thoát. Trong giấc Mộng Ban Ngày, có Thân Tâm với đủ Sáu Căn và Bát Thức nên hoàn toàn chủ động và với Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” trong tay, thì con đường Giác Ngộ đi tới Giải Thoát không phải là không thực hiện được một khi đã phát Tâm Bồ Đề. Phật, Tổ và Thiền Sư đã Chứng Ngộ trước và chỉ đường rõ ràng không thể nào lầm lẫn được:
“Tâm thị Căn, Pháp thị Trần, (Tâm là Căn, pháp là Trần,
Lưỡng chủng do như kính thượng ngân. Thảy đều ngấn bụi ám gương trong.
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện, Bao giờ ngấn hết gương trong lại,
Tâm Pháp song vong Tánh tức Chân”. Tâm Pháp cùng quên, Tánh rõ Chân)
(Thiền Sư Huyền Giác).
Sáu Căn là Tâm, Sáu Căn nói chung cũng là Thân. Do đó Thân cũng chính là Tâm, tuy Thân chỉ là Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) nhưng không phải là loại Tứ Đại vô tri giác. Bởi Tâm là vi diệu, đủ mọi hình trạng biến hóa từ Gốc cho tới Ngọn. Pháp Trần là Bụi Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) bám vào Sáu Căn làm cho Gương Tâm bị che mờ. Bao giờ “Ngấn Bụi” bên Sáu Căn không còn dính mắc thì Gương Tâm sáng lại, soi chiếu khắp 10 phương. Lúc đó Tâm và Pháp hay Căn và Trần đều Không, nghĩa là Sáu Căn không chấp dính Pháp Trần hay Bụi Trần và không khởi niệm đạt đến Tâm Không hay TâmVô Niệm niệm thì Phật Tánh hiện bày, đạt Đạo Giải Thoát. Điều này trong Tấm Bản Đồ Mộng đã chỉ rõ: Trong Mộng, Thân Tâm không có, Pháp Trần cũng không có, chỉ là Bóng Ảo, khi Thức Dậy thì cả Tâm và Pháp trong Mộng đều là Không do Cái Thân Thật trên giường biến chiếu ra, Cái Thân Thật này dụ cho Tánh hay Bát Nhã. Tấm Bản Đồ Bát Nhã cũng chỉ y như vậy: “Vô Sắc, Vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, Vô Sằc Thinh Hương Vị Xúc Pháp…” . Nghĩa là Tâm và Pháp đều không có, cho nên không chấp dính và khi đó thấy Tánh thành Phật.
Thân Tâm của chúng sinh giống như Chiếc Máy Truyền Hình có thể xem được 7 Đài tương ứng với 7 thế giới khác nhau. Sáu Đài từ 1 tới 6 là thế giới trong Mê có tần số sóng hay Nghiệp Thức khác nhau, bao gồm thế giới của Địa Ngục, Ngạ quỷ , Súc sanh, A Tu La, Nhân và Thiên. Sáu thế giới này đều có đầy đủ hình ảnh , sắc tướng, âm thanh và hoạt động riêng biệt: ( Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác). Cả sáu thế giới trong Mê đều có Tướng vật chất và Tướng không gian khác nhau vì khác tần số sóng hay khác Nghiệp, nên không thể liên lạc hoặc nhìn thấy được nhau, trừ một vài thế giới có tính năng đặc biệt như thần thông, nhập định…Một Đài số 7 là thế giới trong Ngộ có tần số sóng là “ Không”; không có Nghiệp; Không có một vật để thấy cho nên không có hình tượng và đứng yên bất động: (Vô, Vô Tướng, Vô Tác); là thế giới của Niết Bàn hay Bát Nhã Chân Như. Đối với Thân Tâm của chúng sinh Người, thế giới loài Người hiện ra trên Màn Ảnh Tâm Thức gồm tất cả nhà cửa, sơn hà, đại địa, vật chất sum la vạn tượng của thế giới người. Thân Tâm người tức Chánh Báo, thế giới loài Người tức Y Báo có cùng một tần số sóng hay cùng Nghiệp nên cùng hiện hữu, cùng thấy, nghe, hiểu, biết, xúc chạm với nhau, ngay cả có cùng một thân, mượn nhau làm thân vì cùng có 4 nguyên tố ( Đất, Nước, Gió, Lửa) giống y nhau chỉ khác nhau là ở trên Tướng: “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Thân của tất cả chúng sinh và thân của cả sơn hà đại địa, cả vũ trụ là Một là (Đất, Nước, Gió, Lửa) . Nhưng (Đất, Nước, Gió, Lửa) cũng là Một cùng một gốc là do một “Dị Điểm” trong vụ nổ Big Bang, là một niệm Vô Minh bất giác nổi lên giữa biển Chân Không Bát Nhã.
“Vô Minh thật Tánh tức Phật Tánh
Ảo hóa không thân tức Pháp Thân”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
Cái Tánh thật của Vô Minh sinh ra Big Bang cũng là Phật Tánh tức là Không. Cái Ảo Hóa là chúng sinh và vạn vật vũ trụ này thật sự không có Thân tức là Pháp Thân Phật, tức là Không. Tất cả tại vì Mê vì nhìn bằng con Mắt Hữu, con mắt của Nghiệp Thức chúng sinh nên thấy là có Thân. Ở trong màn ảnh Chiếc Máy Truyền Hình, thấy có Thân có người, có nhà cửa cầu đường núi sông, có âm thanh sắc tướng và mọi hoạt động. Nhưng tất cả chỉ là Bóng Ảo không thật, khi tắt máy hoặc ngưng tần số sóng vô tuyến thì tất cả trở về không. Ở trong giấc chiêm bao, chúng sinh thấy có Thân, thấy có vũ trụ vạn vật đầy ắp trong Hư Không, nhưng khi thức dậy tất cả đều không chỉ là Ảo Hóa. Nếu không chấp dính với Sắc Trần, biết Thân Tâm này là giả là chiêm bao, đạt đến Thân không, Tâm không thì xem như được giải thoát :
“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung (Xoay mình một ném vượt ra lồng
Vạn sự đô lô nhập nhãn Không Muôn sự đều không ,nhập mắt không
Tam giới mang mang Tâm liễu liễu Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”. Trăng Tây vừa lặn, xuất vầng Đông”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Khi Thân Tứ Đại thoát ra khỏi cái lồng Sắc Trần của thế gian, giống như con chim hồng được thả tự do, bay bổng vào Hư Không, cả Thân Tâm hòa nhập vào Không thì liền nhìn sự vật với con Mắt Không (con Mắt Bát Nhã) thấy mọi vật là Không, mặc tình du hí tam muội. Mộng Ban Đêm thấy Trăng , Trăng lặn về Tây rồi thì Mặt Trời của sự Giác Ngộ mọc lên ở phương Đông, nhìn thấy đúng sự thật tức Chân Lý.
Bồ Đề Đạt Ma cũng từng khai thị :
“Thân tận Vô Minh tận, (Không có Thân thì Vô Minh không đến được,
Thọ báo khước lai kỳ. Do đó, không có thọ Nghiệp
Trí thân như huyễn hóa Ngươi hãy nhớ rằng Thân ngươi là huyễn mộng
Cấp cấp ngộ “Vô Vi”. Hãy mau mau ngộ cái “Vô Vi” này).
Tấm Bản Đồ Bát Nhã hay Tấm Bản Đồ Mộng đã chỉ rõ ràng lời khai thị của Tổ Đạt Ma: “Vô Vô Minh, diệc Vô Vô Minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.” trong Mộng cũng vậy: không có Vô Minh mà cũng không có Vô Minh tận, không có lão tử mà cũng không có lão tử tận…vì trong Mộng nếu thấy có Vô Minh và có Thân thì chỉ là cái Bóng giả tạo không có thật, khi Thức Dậy thì cái Vô Minh và cái Thân rõ ràng là không có, mà chỉ có cái Thân Thật đang nằm trên giường, dụ cho Pháp Thân, dụ cho Bát Nhã hay cái Vô Vi mà Tổ Đạt Ma đã khai thị: “Cấp cấp ngộ Vô Vi”.
Do đó dựa vào Tấm Bản Đồ “Bát Nhã” hay Tấm Bản Đồ “Sắc tức thị Không” hay Tấm Bản Đồ “Mộng” này thì sự thật là Thế Giới hay cái Vũ Trụ này không có, và cái nguồn gốc sinh ra cái Vũ Trụ này là cái “Dị Điểm” Big Bang cũng không có, mà chỉ là “huyễn mộng”, vì tất cả chúng sanh đang “mở mắt chiêm bao” nên thấy có, là cái thấy của con mắt Nghiệp Mộng của chúng sanh Người. Đối với chúng sanh các cõi khác nhau như cõi A Tu La hay Ngạ Quỹ, rất có thể họ cũng “mở mắt chiêm bao” và cũng thấy có cái Big Bang sinh ra Vũ Trụ và Thế Giới của họ. Thật ra tất cả đều là Mê, đều là chiêm bao, và chính những cái Big Bang như thế là cái trò Ảo Thuật do Nghiệp Lực hay Tâm Mê tạo ra bằng cách huyễn hóa. Do đó gỡ bỏ cặp kính Nghiệp hay cái Tâm Mê thì mới thấy được cái Chân. Big Bang đã không có, do đó nguyên tử Hydrogen vật chất cũng không có thì Tứ Đại : Đất, Nước, Gió, Lửa không có. Đất Nước, Gió, Lửa đã không có thì làm gì có cái Thân Tâm chúng sinh (tức Chánh Báo) và thế giới vũ trụ vật chất của loài Người chúng sinh này hiện hữu (tức Y Báo)…Do đó, Thân Tâm và Pháp Giới đều là Không :
“Tâm Pháp song vong, Tánh tức Chân”.
(Tâm và Pháp đều không, Tánh hiện bày).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Trường hợp của Thiền Sư Huyền Giác, Ngài ngộ nhập thẳng vào Tánh từ cái cửa Vô Vi :“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn”. Nghĩa là từ cái “Tuyệt Cùng” của mọi sự vật Căn và Trần, là “Cánh Cửa” Rõ thâm nhập vào “Cái Rõ” tức “Mặt Trăng Thứ Hai” mà không dừng lại hay kẹt lại nơi Cái Rõ hay “Mặt Trăng Thứ Hai” mà nhảy thẳng vào cái “Rỗng Thênh Không Thánh” hay cái “Không”: “Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”. Nhiều trường hợp người Ngộ Đạo tưởng rằng mình đã Ngộ Triệt, nhưng thật ra chỉ ở Mặt Trăng Thứ Hai , chỉ có vị Thầy đã Ngộ Triệt mới biết được và có thể giúp và khai thị cho vị này đi đến Triệt Ngộ. Đạt đến “Mặt Trăng Thứ Hai” thì cũng đã đạt đến Vô Sanh, nhưng vẫn chưa viên mãn, vẫn còn cảm thấy thiếu hoặc chướng ngại một điều gì rất vi tế, tự mình khám phá ra điều này thì rất khó, và nếu khám phá ra được mà không có vị Thầy Ngộ Triệt giúp đỡ thì cũng rất khó mà tự mình tháo gỡ cái vi tế chướng ngại này. Vì lẽ đó mà Thiền Sư Am Chủ Diệu Phổ chỉ rõ:
“Tâm Pháp song vong du cách Vọng, (Tâm, Pháp đều quên còn cách Vọng
Sắc Trần bất nhị thượng dư Trần. Sắc, Trần như một vẫn thừa Trần
Bách điểu bất lai Xuân hựu quá, Trăm chim chẳng đến, Xuân cứ đến
Bất tri thùy thị trụ Am Nhân”. Nào biết ai là người Trụ Am?).
Sắc Trần bất nhị thượng dư Trần. Sắc, Trần như một vẫn thừa Trần
Bách điểu bất lai Xuân hựu quá, Trăm chim chẳng đến, Xuân cứ đến
Bất tri thùy thị trụ Am Nhân”. Nào biết ai là người Trụ Am?).
Còn nhớ Tâm, còn nhớ Pháp thì còn chướng ngại nhiều. Nhưng khi đạt đến chỗ Tâm Pháp đều quên nhưng vẫn còn cách một cái Vọng vi tế (tức là cái Bóng của Tâm và Pháp chưa dứt hẳn). Sắc Trần đã thấy không hai mà vẫn thừa Trần (tức cái Vọng Trần chưa dứt hẳn). Cho nên Ngộ mà chưa Triệt vì còn kẹt nơi cái Bóng của Sắc Trần, còn Tập Nghiệp dư. Vì Ngộ chưa Triệt nên không thấy mùa Xuân, vì Xuân đến mà chưa thấy trăm chim. Chính đây mới là lúc để Tu Đạo, vì thấy được Đạo mới Tu Đạo. Còn chưa thấy Đạo mà Tu Đạo thì chưa biết được đường Tu của mình đúng hay là sai, nhưng sai mà hành trì suốt đời thì thật là uổng phí cả một đời người và có thể cả nhiều đời sau. Trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng, tuy đã Ngộ cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật”, nhưng mới ở chỉ “Mặt Trăng Thứ Hai”:
“Bồ Đề bổn vô thọ
Minh kính diệt phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ Trần ai”.
Cho đến khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim Cang tới câu: “Ứng vô số sở trụ như sanh kỳ Tâm” thì mới hốt nhiên Đại Ngộ và khi đó Ngài tự thốt lên: “Không ngờ TỰ TÁNH hay sanh muôn Pháp…”. Trước đó Lục Tổ Ngộ cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật” chỉ là cái Rõ hay cái Vô Vi. Về Lý thì xem như đã ngộ TÁNH là cái “Rỗng Thênh” không có một vật…lẽ ra là đã Ngộ Triệt?! Nhưng vì cái Rõ quá gần với TÁNH và hướng về TÁNH cho nên có thể nhận ra Bầu Trời Trong không có Vật của TÁNH. Có thể nói đứng trong cái Rõ mà Lục Tổ nhận ra được phần Thể của TÁNH, còn phần Dụng thì chưa thông. Đến khi nghe câu “Ứng vô số sở trụ như sanh kỳ Tâm” mới ngộ ra TÁNH thật sự. Vượt qua cái Rõ, nhập vào TÁNH, đứng trong TÁNH nhìn trở ra mới thấy được cái Dụng của TÁNH: “Không ngờ TỰ TÁNH hay sanh muôn Pháp”. Chấp Dụng bỏ Thể thì không đạt Chân Lý, chấp Thể bỏ Dụng thì cái Chân Lý chưa hoàn hảo. Vào TÁNH thì phải thầu rõ luôn cái Dụng của TÁNH tức là TÂM giống như cái THÂN phải có đủ hai cánh tay Mặt và Trái tức Chân Không và Diệu Hữu. Như vậy thấy Chân Không Rỗng Thênh không một vật cũng chưa đủ, phải thấy luôn cả cái Diệu Hữu sinh ra Pháp Thế Gian, đi vào đời độ chúng với gót chân dính đất của Thế Gian mà không ô nhiễm. Có thể phân tích cái Sở Ngộ của Lục Tổ qua ba lớp cửa . 1-Sơ Quan : khi đi bán củi nghe Ông Viên Ngoại đọc Kinh Kim Cang, Ngài có Sở Ngộ đầu tiên. 2-Trùng Quan : khi đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giã gạo ở chùa trong 8 tháng, Ngài nhận ra cái cửa Rõ hay cửa Vô Vi. 3-Lao Quan : khi Ngũ Tổ giảng lại Kinh Kim Cang vào lúc canh ba với chỉ một mình Lục Tổ , Ngài thâm nhập vào cửa Không là Triệt Ngộ. Thiền Sư Sư Bị (Tông Nhất) khi thấy vị Sư Huynh là Tuyết Phong chưa Ngộ Triệt nên đã nhiều lần nhắc nhở khéo: “Hòa Thượng gót chân chưa dính đất”. Một khi đã Triệt Ngộ thì dù có đi vào đời gặp nhiều giông tố hay phiền não của Thế Gian để độ đời thì vẫn an nhiên tự tại, hay có giả làm người khùng điên như Tế Điên Hòa Thượng thì Tánh Phật vẫn không bị ô nhiễm:
“Minh minh thường tự tại (Rõ ràng thường tự tại.
Diệc niết mục tác quái Cũng dụi mắt làm quái
Kiến quái bất kiến quái Thấy quái, chẳng thấy quái
Kỳ quái tất tự hoại”. Kỳ quái ắt tự hoại).
Đài số 5 ứng với tần số sóng của Người hay Nghiệp Thức loài Người, màn ảnh truyền hình hiện ra loài Người Ảo và thế giới loài Người Ảo, chỉ là cái Bóng trên màn ảnh, là Mê. Khi Giác Ngộ hay tắt điện hoặc tắt sóng thì Sắc Tướng trên màn ảnh truyền hình hay màn ảnh của Tâm Thức mất trở về Không: “Sắc tức thị Không”. Chính cả cái Tâm Thức này cùng mất trở về Không, kiến Tánh thành Phật. Từ cái Quang Minh tịch chiếu, bất giác một niệm Vô Minh nổi lên trùng trùng duyên khởi ra thế giới và chúng sinh trong 6 nẻo luân hồi chìm đắm vào bóng Mê với thân ảo, thế giới ảo, không có cách nào thoát ra được. Vì càng Tác, càng động thì niệm niệm lại sinh ra, thế giới Mộng lại càng sinh, chúng sinh trong Mộng lại càng điên đảo. Giống như Mặt Biển càng động là sóng càng nổi lên. Do đó phải buông niệm, vô tác tức trở về “ Vô Niệm”, như “cánh cửa Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng, giống như ngừng tác động thì Mặt Biển từ từ yên lặng trở lại. Lục căn thì điên đảo, vì nó cùng tần số với Nghiệp Thức chúng sanh, Lục căn vừa khởi niệm, dù cho niệm đầu hay niệm cuối vẫn là điên đảo thì Vô Minh liền tới, hiện ra thế giới Mê:
“Quang Minh tịch chiếu biến hà sa (Quang minh lặng chiếu khắp hà sa,
Phàm Thánh hàm linh cộng ngã gia, Phàm Thánh hàm linh vốn chung nhà.
Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện, Một niệm chẳng sinh, toàn thể hiện,
Lục căn tài động bị vân già”. Lục căn vừa động bị che lòa).
(Trương Chuyết).
Như vậy “ Vô Niệm” thì tất cả trở về nguyên thủy, trở về cái Gốc của Bản Tánh Chân Như, trở về Không, trở về cái “Rỗng Thênh Không Thánh”, tức là ngộ nhập cái: ‘ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Lúc đó thì Thân không, Tâm không, Pháp cũng không: Tâm Pháp đều không thấy Tánh thành Phật. Đạt được TÂM KHÔNG nầy xem như đã TU đến tận Gốc rồi không cần phải TU cái Ngọn. TU mà xem như Không TU. Không TU theo pháp thế gian nhưng lại TU theo Phật CỔ ĐÀM, chư TỔ và Thiền Sư. Không TU theo hình tướng cầu xin cúng lạy Phật tướng bên ngoài dù cho Phật tướng ấy bằng vàng ròng, ngọc thạch, châu báu hay kim cương…Nhưng TU Phật nơi “ TỰ TÂM” vì “TỨC TÂM TỨC PHẬT” và “KHÔNG TÂM là ĐẠO”.
Thật ra nên bỏ luôn chữ TU, vì chữ TU chỉ là tự sửa mình của người thế gian; một nghĩa khác: TU là hành trì một Pháp môn nào đó của một Tôn Giáo.Thời Đức Phật không có hành trì cúng tế lễ bái như các Tôn Giáo . Đức Phật chỉ đi tìm Chân Lý Giải Thoát bằng cách đi du phương tìm học Đạo Lý và cuối cùng Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ Đề suốt 49 ngày để tư duy, quán chiếu và tìm ra Chân Lý Giải Thoát bằng Thực Chứng. Khi thành Đạo rồi, Ngài cũng không có lập Tôn Giáo và tự xưng mình là Giáo Chủ, mà chỉ là Ông Thầy chỉ đường (Thiên Nhân Sư), không có dạy cúng bái tế lễ như các Tôn Giáo thời bấy giờ, mà chỉ đi thuyết Pháp độ chúng sinh, cứu chúng sanh ra khỏi đường Mê và giải thoát sinh tử. Các vị Tổ và vô số Thiền Sư ngộ Đạo cũng thế, không có hành trì hay TU ĐẠO. So với các Tôn Giáo thì xem như Đức Phật và Thiền Sư không TU không TÁC. Đạo Lý của Đức Phật chỉ có một vị duy nhất là GIẢI THOÁT, lấy TRÍ TUỆ và TỪ BI làm gốc, không mê tín dị đoan.
“Kiến Đạo phương tu Đạo (Thấy Đạo mới Tu Đạo
Bất kiến phục hà tu Chẳng thấy lấy gì Tu
Đạo tánh như Hư Không Tánh Đạo như Hư Không
Hư không hà sở tu Hư không Tu chỗ nào
Biến quán tu Đạo giả Khắp nơi người Tu Đạo
Bác hỏa mích phù âu Vạch lửa tìm bọt nổi
Đản khán lộng khối lỗi Chỉ xem người gỗ máy
Tuyến đoạn nhất thời hưu” Đứt dây một lúc dừng).
(Bài kệ không TU không TÁC của Thiền Sư Bổn Tịnh).
Thiền Sư Bổn Tịnh từng chỉ Đạo cho một vị Tăng ở triều đình là Pháp Không về cái ‘‘không Tu, không Tác’’: ‘‘Đạo vốn không Tu ,Đại Đức cưỡng Tu ; Đạo vốn không Tác, Đại Đức cưỡng Tác ; Đạo vốn không Sự, Đại Đức cưỡng sanh đa Sự ; Đạo vốn không Biết ở trong ấy cưỡng Biết ,thấy hiểu như thế cùng Đạo trái nhau…, tự Đại Đức không hội, xin suy gẫm lại ’’.
Thiền Sư Bảo Giám, môn phái Thiền Vô Ngôn Thông đời thứ 9, kế thừa Thiền Sư Đa Vân. Làm Quan đến chức Cung Hậu Xá Nhân đời Vua Lý Anh Tông. Năm 30 tuổi Sư từ Quan đến Chùa Bảo Phú xuất gia. Sư thường dạy chúng: “Muốn tiến đến Tông Thừa của Phật thì phải siêng năng, nhưng thành Phật Chánh Giác phải nhờ Trí Tuệ. Ví như nhắm bắn cái đích ngoài trăm bước, mũi tên đến được là nhờ sức mạnh, nhưng trúng được đích không phải do sức”. Khi sắp tịch, Sư nói kệ:
“Đắc thành Chánh Giác hãn bằng Tu, (Được thành Chánh Giác “ít nhờ Tu”,
Chỉ vị lao lung, Trí Tuệ ưu. Ấy chỉ nhọc nhằn, “Trí Tuệ ưu”.
Nhận đắc Ma Ni huyền diệu lý, Nhận được Ma Ni lý huyền diệu,
Chỉ như Thiên Thượng hiển Kim Ô. Ví thể trên không hiện vầng hồng.
Trí giả du như Nguyệt chiếu Thiên, Trí giả khác nào Trăng rọi Không,
Quang hàm trần sát chiếu vô biên. Chiếu soi khắp cõi sáng không ngần.
Nhược nhân yếu thức tu phân biệt, Nếu người cần biết, nên phân biệt,
Lãnh thượng phù sơ tỏa mộ yên. Khói mù man mác phủ non chiều).
Thế gian thường chấp vào Hình Tướng bên ngoài mà cho là Tu, trong Kinh Kim Cang, Phật nói :
“Nhược dĩ Sắc kiến Ngã (Nếu do Sắc thấy Ta
Dĩ âm thanh cầu Ngã Do âm thanh cầu Ta
Thị nhân hành Tà Đạo Người ấy hành Đạo Tà
Bất năng kiến Như Lai”. Không thể thấy Như Lai).
Tuy nhiên trong Kinh, Phật có khuyên chúng sinh xây dựng Già Lam, đúc tạc Hình Tượng, đốt Hương, rắc Hoa, chong Đèn sáng mãi…đủ thứ Công Đức mới thành Phật Đạo. Theo Tổ Bồ Đề Đạt Ma: Vì chúng sinh căn cơ cùn lụt nên Phật phương tiện, mượn Pháp Hữu Vi làm thí dụ cho Pháp Vô Vi, nhưng chúng sanh lại “hiểu lầm”, làm trái ý Phật.
- Xây dựng Già Lam : Là lấy Thân làm ngôi Chùa, nơi thanh tịnh địa, xa lìa Tam Độc, tịnh Sáu Căn, Thân Tâm vắng lặng như Hư Không.
- Đúc tạc Hình Tượng : Tức là phỏng theo Chân Dung diệu tướng của Như Lai, không phải đúc vàng, tạc ngọc làm Tượng Phật. Người cầu Đạo phải biết lấy Thân làm Lò Đúc, lấy Pháp làm Lửa, lấy Trí Tuệ làm Tay Thợ Khéo, lấy Ba Giới Tụ Tịnh - Sáu Ba La Mật làm Khuôn Đúc, nấu chảy và rèn đúc chất Chân Như Phật Tánh ở trong Thân thành hình tượng của Chân Dung, là Pháp Thân thường trụ vi diệu.
- Việc đốt Hương : Không phải là dùng lửa đốt gỗ trầm hương xông khói mù mịt của Thế Gian, mà là Hương của Pháp Vô Vi (Hương Chánh Pháp) xông lên làm cho Nghiệp dữ Vô Minh tiêu mất. Đó chính là: Hương Giới, Hương Định, Hương Huệ, Hương Giải Thoát và Hương Giải Thoát Tri Kiến. Khi còn tại thế, Phật khuyên các Đệ Tử lấy lửa Trí Tuệ đốt thứ Hương Báu vô giá này để cúng dường Chư Phật mười Phương.
- Việc rắc Hoa : Là hoằng dương Chánh Pháp, rải rắc gieo trồng khắp nơi : “Thí Pháp độ sanh”. Hoa Công Đức này làm lợi ích cho vô số chúng sanh dứt trừ phiền não, phá được Vô Minh đi đến Giải Thoát. Hoa Công Đức mà Phật xưng tán, mùi hương tỏa khắp mười phương không bao giờ héo rụng, rốt ráo thường trụ. Còn việc chặt cây, bẻ nhánh để dâng Hoa cúng Phật của Thế Gian, xúc phạm đến tịnh giới của muôn tượng muôn vật trong Trời Đất, hủy phá tự nhiên, gây hại cho muôn loài để cầu Phước Báu thì không thể nào có mà còn tạo thêm Nghiệp xấu.
- Chong Đèn sáng mãi: Cái Ánh Sáng của viên ngọc Ma Ni hay cái Ánh Rõ Bát Nhã dụ cho ngọn Đèn Tâm, người tìm cầu Đạo Giải Thoát phải lấy Thân làm Đèn, Tâm làm Tim Đèn, Giới Hạnh làm Dầu đốt. Trí Tuệ sáng tỏ như ngọn Đèn Chánh Giác chiếu phá tất cả Bóng Đen của vô minh nghiệp chướng, chuyển Pháp Luân mồi sáng cho nhau, một ngọn Đèn mồi qua trăm ngàn ngọn Đèn, Đèn Đèn vô cùng vô tận, phát lên ánh Bát Nhã Chân Như vi diệu trùm khắp. Phật tên Nhiên Đăng cũng theo nghĩa đốt Đèn nầy. Còn Phật Thích Ca phóng Hào Quang giữa đôi mi chiếu suốt ba ngàn Thế Giới, đó là Ngọn Đèn Trí Tuệ Bát Nhã. Chúng sanh không hiểu lời nói phương tiện của Phật lại bày vẽ theo Hình Tướng đốt lên Đèn dầu, Đèn điện soi vào căn nhà trống nói làm theo lời Phật, mà Trí Tuệ vẫn mờ tối,Tam Độc vẫn còn nguyên.
Ngoài việc chấp vào Hình Tướng mà cho là Tu, Thế Gian còn chấp cả Kinh Phật và y theo lời Kinh mà không hiểu rõ ý Kinh, cho là Tu theo lời Phật dạy. Phật từng nói : “Đạt Ý quên Lời.” ; hoặc : “Biết Ta mà không hiểu Ta tức là hủy báng Ta.” ; hoặc : “Y Kinh mà hiểu nghĩa thì oan cho ba đời Chư Phật, nhưng sai đi một chữ lại đồng với Ma thuyết.”. Chính Phật cũng nói : “Ta nói các ngươi đừng vội tin, hãy thử lời nói của Ta như thử vàng, đập nó vào đá, phân tích nó, nấu chảy nó, nếu nhận xét thấy nó đúng, hợp lý, có lợi ích thì mới tin”.
Phật dạy : “Ta đã trải qua ba Đại A Tăng Kỳ Kiếp, chịu vô số khổ nhọc mới thành được Phật Đạo”. Thế Gian liền cho rằng chính Phật phải Tu lâu tới ba Đại A Tăng Kỳ vô số kiếp mới Ngộ Đạo thành Phật, chúng ta là phàm phu làm sao chỉ Tu có một kiếp mà thành Đạo được, cho nên cần phải cầu Phật độ về một Cõi nào đó rồi mới Tu tiếp vài A Tăng Kỳ nữa mới Ngộ Đạo như Phật. Điều này trong Phá Tướng Luận Tổ Bồ Đề Đạt Ma giải thích : “Lời Phật nói ra không hề hư dối. A Tăng Kỳ Kiếp tức là Tâm ba độc (Tham, Sân, Si). Từ trong Tâm ba độc ấy, có đủ thứ “niệm ác” nhiều như cát sông Hằng. Ở mỗi một niệm ấy là một kiếp, vậy là có hằng hà số kiếp đếm không xuể, nên nói ba Đại A Tăng Kỳ. Tánh Chân Như bị ba độc che khuất. Nếu chẳng vượt lên Tâm đại hằng hà sa độc ác ấy thì làm sao giải thoát. Nếu nay “chuyển được ba độc Tham Sân Si” làm “ba món Giải Thoát”, đó gọi là vượt qua ba Đại A Tăng Kỳ Kiếp. Chúng sanh ở thời đại cùng mạt này, căn trí ngu si, cùn lụt, không nhận được ý sâu kín của Như Lai trong câu nói "Ba Đại A Tăng Kỳ", nên nghĩ Như Lai phải qua vô số kiếp như cát bụi mới thành Phật, điều ấy hà chỉ khiến người tu ngờ hão mà lùi bước Bồ Đề sao?”. Trong khi đó, Pháp Đốn Ngộ của Thiền Sư chỉ cần một sát na, một cái nháy mắt là đã rũ xong Ba A Tăng Kỳ Kiếp.
“Chứng Thực Tướng , vô nhân pháp, (Chứng Thực Tướng, không nhân pháp,
Sát na diệt khước A Tỳ Nghiệp. Sát na rũ sạch A Tỳ Nghiệp
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh, Bằng đem lời vọng dối chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp”. Tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp).
Sát na diệt khước A Tỳ Nghiệp. Sát na rũ sạch A Tỳ Nghiệp
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh, Bằng đem lời vọng dối chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp”. Tội rút lưỡi nguyện mang cùng kiếp).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Thời Đức Phật có rất nhiều người Ngộ Đạo.Sau khi chứng Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật đi tìm lại những Vị Thầy và những Hành Giả cũ để giúp đỡ họ. Tuy nhiên những Vị Thầy này đã qua đời. Khi gặp lại năm anh em Kiều Trần Như, chỉ bài Pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế, cả năm người đều tỉnh thức và Chứng Đạo. Rồi sau này những Vị Đại Đệ Tử và các Sa Môn đi theo Ngài, rất nhiều người đã Chứng Đạo. Cho đến những người đã bị Ngoại Đạo và xã hội từ chối, bị miệt thị là “tiện dân” như kỹ nữ Liên Hoa Sắc từng ở trong một kỹ viện, Ưu Ba Ly là người chuyên gánh phân …đều Ngộ Đạo. Sau Đức Phật, ở Ấn Độ, trải qua 28 đời các Vị Tổ Sư, ngoài các Vị Tổ có rất nhiều người cũng Chứng Đạo mà không cần phải Tu đến ba Đại A Tăng Kỳ… Ngay thời của Ngài Huyền Giác hay Tổ Huệ Năng, được coi là Mạt Pháp cũng có rất nhiều người Ngộ Đạo trong một kiếp hiện sinh, khi họ gặp được Chánh Pháp và Chân Sư.
Thật ra Mạt Pháp, Tượng Pháp hay là Chánh Pháp không thành vấn đề, miễn là có người Ngộ Đạo ra đời thì Mạt Pháp là Chánh Pháp.Cũng như thời Đức Phật và trước Đức Phật không có một người Ngộ Đạo và có tới 96 mối Đạo thì quả là Mạt Pháp. Nhưng có Phật Thích Ca đầu tiên Ngộ Đạo ra đời thì ngay đó là Chánh Pháp. Thế Gian cho thời nay là Mạt Pháp, rất khó Tu Thiền và rất khó Ngộ Đạo ở Cõi Ta Bà, do đó phải cầu cứu nơi Phật để Phật đưa về một cõi khác dễ Tu hơn và không bị thoái chuyển…Tuy nhiên, Đức Phật khi Chứng Đạo đã khám phá ra một Chân Lý tuyệt vời : “Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh bình đẳng, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Như vậy chúng sanh đã có sẵn hạt giống Phật thì gieo trồng nơi nào mà không lên, vã lại cõi Ta Bà nầy, nơi Ông Cha đã từng gieo hạt Phật và hạt Phật đã nẩy mầm kết trái, tại sao Con Cháu phải bỏ đi Ruộng Đất của Cha Ông đã từng gieo hạt và thành công để đi một nơi nào đó thật xa, không biết , không thấy, chỉ nghe nói để gieo hạt giống Phật? Là Phật Con có dòng máu Phật, ít nhiều cũng phải có chút Trí Tuệ Phật thì phải có quyền nghi ngờ, tư duy và quyền chọn lựa! Có một điều là từ Phật, Tổ và Thiền Sư khi Chứng Đạo thì tự biết. Cũng như bất cứ một hành giả nào đi tìm Đạo, khi Chứng Đạo hay chưa Chứng, hoặc Thân Tâm mình đang ở mức độ nào đều biết rõ ràng, như một người đang ngủ mê khi thức dậy là tự biết mình đã thức không cần phải hỏi ai cả. Tức là ngay khi còn sống có đủ Thân Tâm hay Sáu Căn là đã biết mình Chứng Đạo hay là chưa và tự biết mình đã làm gì có đi vào ba đường ác hay không ? Thí dụ như suốt đời chỉ làm điều thiện, tránh điều ác… thì người đó đi từ chỗ sáng đi về sáng ; còn như trộm cướp giết người…thì người đó đi từ chỗ sáng tới chỗ tối, đúng theo luật Nhân Quả...
Như vậy có vẻ chắc chắn hơn là đợi đến lúc lâm chung, Thân Tâm hay Sáu Căn không còn hoạt động nữa rồi mới biết mình đi về đâu thì e rằng quá muộn, hay rất khó mà biết hay tin được. Bên trời Tây, có triết gia người Đức tên là Feuerbach Ludwig Andreas thế kỷ 19, Ông không tin vào Tôn Giáo, vì chỉ dựa vào Đức Tin hay Niềm Tin suông mà không có Thực Chứng hay Thực Nghiệm như Khoa Học. Ông phê phán gắt gao Đức Tin Tôn Giáo chẳng hạn như : Thực sự có Thượng Đế và Thiên Đàng hay không ? Ông cho rằng Con Người vì lười biếng suy nghĩ, không chịu tư duy nghiên cứu… đã dựng lên một “Bức Bình Phong” rồi “Siêu Cực Hóa” Bức Bình Phong ấy thành một Đấng Thượng Đế có toàn năng toàn lực và giàu có. Rồi sau đó bất cứ điều gì hay chuyện gì đều “giao khoán” hay “phó thác” cho Đấng Thượng Đế mà mình vừa tạo ra. Chẳng hạn những hiện tượng thiên nhiên như : mưa gió, sấm sét, bão lụt, hạn hán, động đất, sóng thần, ngay cả bệnh dịch hay chiến tranh đều phó thác cho là Vị Thượng Đế đó làm ra để hình phạt loài Người. Trong khi Con Người thì trở nên nghèo nàn đi, bất lực và yếu đuối trước một Thượng Đế giàu sang, đầy quyền lực. Khi đó, Feuerbach cho rằng Con Người nếu chịu khó tư duy suy nghĩ và có óc sáng tạo thì mọi việc sẽ ra ánh sáng. Thí dụ như Trời mưa là do Nước bốc hơi thành mây rồi ngưng tụ, rơi xuống. Sấm sét là do các đám mây mang điện tích dương của ion H+ và điện tích âm của ion O- do phân tử Nước (H2O) tách ra khi ở thể khí, hai loại mây mang điện tích âm và dương nầy khi gặp nhau cho ra tia điện nổ thành sấm sét hay Trời gầm. Bệnh dịch là do một loại virus gây truyền nhiễm lan rộng ra, phải nghiên cứu chế thuốc vaccine để ngăn trừ hơn là chỉ ngồi cầu Thượng Đế cứu rỗi. Có suy nghĩ, nghiên cứu, phân tích như thế thì Thượng Đế sẽ chết, không còn chỗ đứng trong vũ trụ này nữa. Do đó Thượng Đế chỉ là sự Thể Hiện của Bóng Tối ngu dốt hay sự ‘‘Lười Biếng Tri Thức’’ của Con Người. Còn Tri Thức Con Người hay Tri Thức Khoa Học là sự Thể Hiện của Ánh Sáng Chân Lý, hay Sự Thật, do đó suy ra không có Thượng Đế, mà chính Con Người là Thượng Đế ! Quan điểm táo bạo của Feuerbach giống Phật Pháp ở điểm chỉ tin vào Trí Tuệ và có Thực Chứng hay Thực Nghiệm như Khoa Học hơn là chỉ Tin để mà Tin hay chỉ là Đức Tin suông, mặc dù đó là Truyền Thống lâu đời hay Sách Vở, Kinh Thư cổ xưa để lại.
Trong Chứng Đạo Ca, Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác, một Thiền Sư đã ‘‘Chứng Đạo’’ chỉ rõ : Ngọn Đèn Tâm từ Phật Thích Ca trao cho Tổ Ca Diếp, rồi truyền qua 28 đời ở Tây Trúc, vào Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ, qua sáu đời truyền Y Bát cho tới Lục Tổ Huệ Năng, nếu nghe theo thì người sau sẽ Đắc Đạo nhiều vô số.
“Lục đại truyền y thiên hạ văn (Sáu đời truyền y thiên hạ nghe”.
Hậu nhân Đắc Đạo hà cùng số” . Người sau Đắc Đạo nhiều vô số).
Như vậy Hậu Thế nên nghe Thiền Sư Huyền Giác “Đã Chứng Đạo” , khai thị hay nghe người Thế Gian “Chưa Chứng Đạo” chỉ dạy ? Đạo Phật là Đạo của Trí Tuệ: “Duy Tuệ thị Nghiệp”. Do đó là Phật Con phải dùng Trí Tuệ để quán chiếu sâu sắc mọi sự việc không nên tin bừa bãi vào bất cứ việc gì mà lạc vào mê tín, làm trái ý Phật và vô tình làm cho chúng sanh thụ động đánh mất cái “Phật Tánh” hoặc làm chết đi cái “Phật Tánh” của chúng sanh mà Đức Như Lai đã khám phá ra: vì Mê nên cõng Phật đi lạy Phật, cởi Trâu đi tìm Trâu…
Thật ra Đức Phật muốn chúng sanh có sẵn Phật Tánh đều là “Phật Con” chứ không là “Con Phật”, bởi có câu: “Cha làm Thầy, Con đốt Sách”. Vì ỷ lại là “Con Phật” nên bê tha, không chịu học hành rèn luyện Trí Tuệ và Đức Hạnh, ham vui chơi với đời và bạn bè xấu, bị Lục Trần và Ngũ Dục trói buộc , Tánh Phật bị ô nhiễm bởi Vô Minh và Nghiệp Chướng dày đặc che khuất không còn sáng suốt, có chuyện phiền não sợ hãi lại đi cầu Phật. Còn “Phật Con” thì đã là Phật rồi, hạt giống Phật tức “Phật Tánh” đã nẩy “mầm” tuy còn non, nhưng Pháp Trần không thể ô nhiễm, Trí Tuệ vượt khỏi Vô Minh, giống như Sư Tử Con mặc dù Tuổi còn nhỏ, Thân còn non, nhưng tiếng “Hống” lại khỏe mạnh, sắc bén và đầy hùng lực muông thú nghe qua khiếp đảm, rớt hết Tâm Mê.
“Sư Tử nhi, chúng tùy hậu, (Sư Tử Con chúng theo Mẹ,
Tam tuế tiện năng đại hao hống. Tuổi mới lên ba đà hống khỏe
Nhược thị dã can trục Pháp Vương, Chó rừng dầu bén gót Pháp Vương,
Bách niên yêu quái hư khai khẩu”. Trăm năm yêu quái há mồm suông).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Nếu tất cả chúng sanh đều là Phật Con hay Sư Tử Con như thế thì mới thật xứng đáng là đã mang dòng máu Phật, tức hạt giống Phật Tánh, và Phật Tánh này ở ngay nơi Tự Tâm tận đầu nguồn, khi đó Tức Tâm Tức Phật. Cho nên không cần phải tìm Phật bên ngoài hay cầu Phật bên ngoài Tâm. “Phật Con” như thế mới là Bản Lĩnh của Phật Tánh, xứng đáng là Con Cháu của Phật, Tổ và Thiền Sư ngoại hạng:
“Ta thà cầu Tâm chẳng cầu Phật
Rõ ra ba cõi không một vật
Nếu muốn cầu Phật, thà cầu Tâm
Chỉ Tâm Tâm, Tâm ấy tức Phật”.(Bồ Đề Đạt Ma).
Bởi vậy, Kinh Phật phải qua tay Người đã Ngộ Đạo như các Tổ và Thiền Sư thì trở thành “Pháp Bảo” của Phật, nhưng qua tay người chưa Ngộ Đạo, hay lời truyền tụng hoặc truyền thống của Thế Gian thì nên xét lại. Phật Pháp có câu: “Tùng Văn Tư Tu, Nhập Tam-Ma-Địa”. Nghĩa là trước tiên hãy VĂN tức là nghe, đọc, tham cứu, truy cứu, truy tìm… rồi mới TƯ tức là tư duy, suy nghĩ, phân tích, so sánh cho thật kỹ… đạt đến “Chánh Tín” rồi mới TU; nhưng cũng không TU theo Pháp Thế Gian mà theo “Dấu Chân” của Phật Cồ Đàm, các Tổ và Thiền Sư. Như thế mới khỏi lạc vào Mê Tín hay Cuồng Tín, uổng phí cả một đời người hay một đời Tu. Một điều vô cùng lợi ích là đã có Phật, các Tổ và vô số Thiền Sư Ngộ Đạo để lại biết bao nhiêu Tàng Kinh, Luận Thuyết vô giá, chỉ đường rõ ràng. Nếu không may mắn gặp được một Vị Thầy Ngộ Đạo chỉ dẫn hay khai thị thì chia sẻ cùng Thiện Hữu Tri Thức, nhưng phải “ Độc hành độc bộ” như Đức Phật, Chư Tổ và Thiền Sư đã làm.
Dù cho gặp thời Mạt Pháp thật sự, Phật pháp bị suy đồi như Ngài Huyền Giác than trách trong thời đại của Ngài:
“Ta ! Mạt Pháp, ác thời thế (Than ôi! Mạt Pháp, thời thế ác
Chúng sinh phước bạc nan điều chế. Chúng sinh phước mỏng khó điều phục
Khứ thánh viễn hề, tà kiến thâm Xa cách Hiền Thánh, tà kiến sâu
Ma cường, Pháp nhược đa oán hại”. Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều ác tệ).
Khi đó Pháp Viên Đốn của Như Lai do Đức Phật truyền cho Tổ Ca Diếp đến Tổ Đạt Ma rồi Lục Tổ Huệ Năng…bị thế gian xuyên tạc, thù ghét, thậm chí còn bị hãm hại ( như Tổ Đạt Ma bị thuốc độc tới 6 lần).
“Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn (Nghe nói Như Lai phép đốn tu
Hận bất diệt trừ như ngõa toái”. Hận chẳng nghiền tan như ngói bể).
Cũng khi đó Pháp Đốn Ngộ “ Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng bị thế gian xuyên tạc gièm xiểm đến nỗi có người đến rình rập để hạ sát Ngài (Trương Hành Xương - Chí Triệt) và mấy trăm năm sau, người ta vẫn còn tìm nhục thân của Ngài để xúc phạm. Pháp Đốn Ngộ của Tổ lấy Vô Niệm làm Tông, Vô Tướng làm Thể, Vô Trụ làm Gốc. Vô Niệm là ngay nơi niệm lìa niệm, nghĩa là đối với cảnh trần, Tâm chẳng nhiễm, trong niệm lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh sanh Tâm. Vô Tướng là đối với tướng mà Tâm lìa tướng, lìa được tướng thì Pháp Thể thanh tịnh, đó là lấy Vô Tướng làm Thể. Vô Trụ là đối với tất cả pháp niệm niệm chẳng trụ , không bị trói buộc, đó là lấy Vô Trụ làm Gốc. Thật ra người thế gian lấy bụng phàm mà luận Thánh, không hiểu thấu được hai chữ “ Vô Niệm” của Lục Tổ. Tổ nói: “Vô niệm niệm tức chánh, hữu niệm niệm thành tà”. Vô Niệm hiểu đúng như Tổ nói cũng tức là Chánh Niệm . Đại Thừa Khởi Luận có câu: “Nếu được Vô Niệm gọi là chứng nhập Chân Như”. Kinh Viên Giác cũng có dạy: “Lắng lòng Vô Niệm là tùy thuận Viên Giác Tánh”. Khi thấy rõ Bản Tâm tức là giải thoát, là đạt được Bát Nhã Tam Muội tức Vô Niệm. “ Vô Niệm là thấy tất cả Pháp mà Tâm không nhiễm vương, dính níu” . Do đó, Vô Niệm không phải là dứt bặt hết tư tưởng, không nghĩ ngợi gì hết như một số người lầm tưởng mà Vô Niệm tức là Niệm Chân Như. Tổ nói : “Chân Như Tự Tánh khởi niệm thì 6 căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh. Nên Kinh nói :Phân biệt được các Pháp mà cái Tánh thanh tịnh Niết Bàn chẳng động ”. Tổ nói tiếp : “Vô là không hai tướng, không có cái Tâm trần lao. Niệm là niệm Chân Như Bản Tánh, Chân Như là Thể của niệm, niệm là Dụng của Chân Như. Tự Tánh Chân Như khởi niệm, chứ không phải mắt tai mũi lưỡi khởi niệm được. Chân Như có Tánh, cho nên khởi Niệm….Tự Tánh Chân Như khởi niệm, thì 6 căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không nhiễm vạn cảnh, Chân Tánh thường tự tại".
Điểm quan trọng là biết Tâm vốn là vọng là huyễn nên không chấp, chứ không phải chạy theo nó để chống hoặc để diệt. Vì vậy cần hiểu Vô Niệm là đối cảnh mà Tâm không nhiễm, không loạn, chứ không phải là lo diệt bằng cách không khởi suy nghĩ để đạt đến Tâm không- là ngoan không hay vô ký cũng thuộc về Tà niệm, khác với Tâm “Không” là Tâm không nhiễm vạn cảnh khi đối cảnh là Tâm Gốc là Phi Tâm hay Vô Tâm, tức là Tâm mà Phi Tâm hay Tâm mà Vô Tâm : Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi Tâm. Ở Pháp hội Linh Sơn, Đức Phật giơ Cành Hoa Sen lên, Tổ Ca Diếp nhận ngay “tức thì” cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen bởi cái Tâm Không, cái Tâm mà Vô Tâm hay cái Tâm Vô Niệm này. Lúc đó Sáu Căn bất động không khởi niệm, nhưng Tánh Chân Như khởi “ Vô Niệm” niệm ngộ nhập Bát Nhã . Đối với cái nhìn thông thường của phàm phu trên Cành Hoa Sen lúc Đức Phật khai thị là cái “nhìn ra” ngọn Tâm bằng cái thấy của nhãn thức trên cái hình tượng của Hoa Sen rồi khởi niệm phân biệt , phân tích hình dáng màu sắc đẹp xấu qua Sáu Căn để “nhìn ra” Cành Hoa Sen “thông qua cái Kính Nghiệp của Sáu Căn ”. Trong khi đó Tổ Ca Diếp cũng nhìn Cành Hoa Sen, về hình thức thì cũng giống như nhìn ra ngoại cảnh tức nhìn ra ngọn Tâm. Tuy Sáu Căn có thấy nghe hiểu biết, có phân biệt được các Pháp mà không nhiễm vạn cảnh, tức là Tâm không động (Vô Tâm) và Sáu Căn không khởi niệm (Vô Niệm).
Chính khi vừa nhìn thấy Cành Hoa Sen mà Sáu Căn không khởi niệm, cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen thâm nhập tràn vào Sáu Căn đang đồng loạt trống rỗng giống như nước tự tràn vào chỗ trũng rỗng không. Điều này cũng giống như Tổ Ca Diếp tuy hình thức là nhìn ra Cành Hoa Sen nhưng nội dung hay thực chất thì lại là “nhìn vào” Sáu Căn của Thân Tâm từ cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen, (tức là nhìn về Gốc Tâm chứ không phải nhìn ra ngọn Tâm thông qua cái thấu kính Nghiệp của Sáu Căn khởi động) và tức thì trong cái sát na ấy Ánh Bát Nhã này tràn ngập cả Thân Tâm làm cho Phật Tánh hiện bày. Thân Tâm với Sáu Căn có Phật Tánh tiềm ẩn giống như Chiếc Máy Truyền Hình nhận sóng vô tuyến phát ra từ Đài Phát Sóng. Đài Phát Sóng ở đây là Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen phát ra Tần Số Bát Nhã truyền vào Sáu Căn đang mở cửa trống rỗng không ngăn ngại, không chận bít vì không khởi niệm. Sáu Căn ở đây nhận sóng Bát Nhã từ Cành Hoa Sen tức là “nhìn vào” Thân Tâm, khác với Sáu Căn khởi niệm tức là “nhìn ra” ngoại trần. Tần Số Bát Nhã tức là Chân Như khởi niệm từ Cành Hoa Sen cùng tần số với Chân Như Phật Tánh của Thân Tâm không bị Sáu Căn ngăn ngại hoặc che mờ nên “bắt được sóng” với nhau tức là “dung thông” với nhau làm cho Chân Như Phật Tánh khởi niệm phát lộ hòa nhập với Ánh Rõ Bát Nhã đang trùm khắp Hư Không. Cái niệm Chân Như , hay cái “Vô Niệm” niệm khởi trước từ cái Ánh Rõ Bát Nhã nơi Cành Hoa Sen chiếu vào Sáu Căn của Thân Tâm mà Thân Tâm trong cái sát na này lại là Vô Thân và Vô Tâm tương ưng với cái “Vô Niệm” niệm làm phát lộ Phật Tánh. Trong cái sát na đó nhất niệm Chân Như Phật Tánh duyên khởi hòa nhập với Bầu Trời Rõ MA HA BÁT NHÃ làm MỘT. Chiếc Máy Truyền Hình bắt được sóng Bát Nhã nên hiện ra Tướng Bát Nhã.Thật ra đây không phải là “nhìn vào” Thân Tâm tức là phản quang tự kỷ còn phải tư duy quán chiếu mất nhiều thời gian, còn ở đây cái khai thị vô ngôn đột biến này của Đức Phật chỉ xảy ra trong một sát na và trong cái sát na đó Tổ Ca Diếp đã ngộ nhập Bát Nhã. Ở đây phải là cái “nhìn tắt” cái “nhìn trực tiếp”, cái nhìn bằng “trí nhãn” không phải bằng ‘‘thức nhãn’’ thông qua con mắt Nghiệp…tức là cái nhìn : ‘‘Trực chỉ Nhân Tâm kiến Tánh thành Phật’’. Bởi vì lúc đó Tâm của Ngài Ca Diếp chính là Cành Hoa Sen, là Một, là bình đẳng ; Thân của Ngài Ca Diếp cũng chính là Cành Hoa Sen, là Một, là Pháp Thân thanh tịnh. Ngài Ca Diếp nhìn Cành Hoa Sen nhận ngay được Tâm mình, nhận ngay được Thân mình và Tâm này là Tâm mà Phi Tâm tức Vô Tâm ; Thân này là Thân mà Phi Thân tức Vô Thân hay Pháp Thân, tức thì thấy Tánh, tức thì ngộ nhập Bát Nhã. Cành Hoa Sen chính là Bát Nhã, Thân Tâm Ngài Ca Diếp lúc đó là Vô Thân, là Vô Tâm, chính là Bát Nhã. Thiền Sư Huệ Hải chỉ rõ : “ Tất cả chỗ mà Vô Tâm, tức là Vô Niệm ”. Thiền Sư Hoàng Bá cũng khai thị : “Cúng dường mười phương Chư Phật không bằng cúng dường một Đạo Nhân Vô Tâm . Tại sao ? Người Vô Tâm là người Vô tất cả Tâm, chẳng phải tuyệt không. Cái bản thể Như Như, bên trong như gỗ đá chẳng lay chẳng động, bên ngoài như Hư Không, chẳng nghẽn chẳng ngại, không năng sở, không phương sở, không tướng mạo, không được không mất… Dụ cho Tâm này, tức cái Tâm của Vô Tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh và Chư Phật chẳng có khác biệt, hễ được Vô Tâm thì đến cứu cánh…Chứng ngộ được Tâm này có nhanh chậm, có kẻ nghe Pháp trong một niệm liền được Vô Tâm, có kẻ đến thập địa mới được Vô Tâm. Lâu hay mau cũng phải đến Vô Tâm mới xong. Lúc ấy mới biết vô tu, vô chứng, thật vô sở đắc…Tâm tự Vô Tâm. Cũng chẳng có kẻ Vô Tâm, nếu đem Tâm làm cho Vô Tâm thì Tâm lại trở thành có ”.
“Cư trần lạc Đạo thả tùy duyên (Ở đời vui Đạo, thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiền”. Đối cảnh Vô Tâm, chớ hỏi Thiền!)
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiền”. Đối cảnh Vô Tâm, chớ hỏi Thiền!)
(Vua Trần Nhân Tông - Tổ Sư Thiền Trúc Lâm - VN).
Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng nếu chiết tự ra thì ‘‘Vô’’là không khởi niệm nơi sáu căn, còn ‘‘Niệm’’ là Chân Như Tự Tánh khởi niệm. Cái Vô Niệm này có ý nghĩa thâm áo sâu sắc. Nếu hiểu Vô Niệm của Lục Tổ một cách thật đơn giản mà không làm mất đi cái áo nghĩa thâm huyền thì có thể xem chữ “Niệm” là một ý niệm, một khái niệm, một tri giác đã có, đang có hay sẽ có khi đã, đang hay sẽ tiếp xúc với trần lao. Những tri giác này thông qua Sáu Căn mới có,do căn và trần chạm nhau mới có, tức là thông qua cái Kính Nghiệp của chúng sanh là Vô Minh, tà kiến, điên đảo, chấp dính, phiến diện, thiếu sót …Vô Niệm là hãy bỏ luôn cái niệm Vô Minh của trần lao này đi, thì mới nhận được cái mới của Minh, của Tự Tánh, của Chân Như Bát Nhã. Thí dụ một ly nước chứa đầy nước suối cũ bị hư thì không thể nào chứa được nước suối mới tinh khiết; do đó phải đổ bỏ hết nước suối cũ đi thì mới nhận được nước suối mới, hoặc là phải có cái ly không, không có chứa một vật gì cả thì có thể chứa được vật khác. Một hòn Bọt phải quên đi cái Ngã của mình là Bọt Nước, không còn cả một niệm dù là vi tế về cái Thân Bọt của trần lao, dính với trần lao, nghĩa là phải mất luôn cả cái Thân Bọt của trần lao, ‘‘ly’’ với cái cảnh của trần lao thì mới trở về với “Nước” được và trở thành Biển Cả “Mất để còn, ly để nhập” là cái quan điểm sơ đẳng để hội Đạo. Nghĩa là phải “mất mình”, mất đi cái Ta, cái Ngã của Ta, do Vô Minh chấp thân chấp tướng nên thấy Ta là người, Ta là Phật, Ta là phàm, là thánh, là ngạ quỷ súc sanh, là cây cỏ, là sự vật , là đất nước gió lửa…mất rồi thì còn lại khoảng trống tức thì Chân Như Tự Tánh khởi niệm lắp đầy Sáu Căn, tức là trở về cái Vô Niệm thâm áo của Lục Tổ Huệ Năng, tương đồng với cái Vô Tâm : Tâm của Vô Tâm , Phi Tâm : Tâm của Phi Tâm, trở về với Chân Như Bát Nhã ngộ nhập với cái Không Rỗng Suốt của Tự Tánh, kiến Tánh thành Phật.
Còn chữ “Niệm” trong Chánh Niệm là cái năng lượng của Tâm thông qua 6 căn : đi đứng nằm ngồi nghe nhìn hoạt động suy nghĩ làm việc … Người học Đạo phải biết nuôi dưỡng cái năng lượng của Chánh Niệm và luôn luôn sống với cái năng lượng nầy khi 6 căn ứng xử với 6 trần giống như vị Tướng giữ thành có 6 cửa :
“Học đạo nhu như thủ cấm thành (Học đạo ví như giữ cấm thành
Trú phòng lục tặc dạ tinh tinh Ngày ngừa lục tặc, tối tinh tinh
Trung quân chúa tướng năng hành lệnh Trong quân chúa tướng hay hành lệnh
Bất động can qua trị thái bình”. Chẳng động gươm đao trị thái bình).
(Thiền Sư Diệu Phổ).
Một vị tướng giỏi lúc nào cũng tỉnh thức sáng suốt (dạ tinh tinh) tức là luôn giữ Chánh Niệm để canh chừng lục tặc (sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp) ở 6 cửa thành tức lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Trong quân vị chủ tướng thi hành lệnh nghiêm ngặt, tức giữ Chánh Niệm triệt để không suy chuyển, nên biết rõ ràng địch( vọng tưởng) đang xuất hiện ở cửa thành nào (tức căn nào : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay là ý…) có bao nhiêu địch quân (tham, sân , si, mạn, nghi, tật, đố…) và đề phòng vững chắc nên địch không dám hoành hành đánh phá, tự động lui quân biến mất mà không cần phải động binh. Như vậy có tỉnh thức sáng suốt, giữ vững Chánh Niệm, biết (Chăn Trâu) thì biết rõ vọng tưởng tự sinh ra rồi tự diệt đi vì chúng là vô thường, giả tạo, không có thật. Do đó không cần phải tác ý, không cần phải hành trì hay chạy theo rượt đuổi để tiêu diệt chúng, mà chỉ cần “tri vọng” tức “biết vọng” là đủ. Đây là một cách giữ Chánh Niệm trong sự tỉnh thức của Thiền Sư Diệu Phổ dạy cách Chăn Trâu một cách nghiêm túc. Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ, cũng dạy Chăn Trâu nhưng nhẹ nhàng hơn : thả lỏng 6 căn, không khởi niệm, không niệm Phật cũng chẳng cầu Thiền, Tâm vọng tự sinh thì tự diệt, miễn là sáu căn không chủ động chạy theo cảnh. Cách Chăn Trâu này dành cho những hành giả đã có Tâm bình an hay đã có kinh nghiệm sâu dầy : vượt hơn Chánh Niệm, không khởi Niệm, hướng về cái Vô Niệm của Tổ Huệ Năng, hay cái Vô Tâm của Thiền Sư Hoàng Bá :
“Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên, (Giữa nhà không nói, chỉ ngồi yên,
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên. Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên.
Tự thị quyện thời Tâm tự tức, Lúc mệt mỏi rồi Tâm tự tắt,
Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền”. Cần chi niệm Phật với cầu Thiền).
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Giữ Chánh Niệm trong mọi thời, mọi lúc, tức là giữ cho thân tâm an lạc, cũng là biết cách Chăn Trâu giữ cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh, biết cách giữ thành như một vị tướng giỏi giữ 6 căn không dính mắc với 6 trần để đạt tới bước cao hơn là : Chánh Định hay Vô Niệm , Vô Tâm …. Tuy nhiên cột niệm, buộc niệm chết cứng một chỗ mà không tiêu hóa được niệm thì lại có hại cho thân tâm, vì trong Tâm có Vật có hại cho sự phát triển trí tuệ và sự giải thoát. Trong nhà Thiền gặp lúc cái sát na đột biến dù là Chánh Niệm cũng phải bỏ, tức là phải biết “ Buông Niệm ” để đạt đến Vô Niệm hay Vô Tâm ngộ nhập Chân Như Bát Nhã. Bởi vì dù là Chánh Niệm, nhưng cũng từ 6 căn khởi niệm, mà 6 căn thì điên đảo, còn ở trong Nghiệp Thức. Chánh Niệm dù là niệm đầu, niệm giữa hay niệm cuối thì vẫn còn ở trong Nghiệp do 6 căn khởi niệm, không phải là Chân Như khởi niệm nên chưa đạt đến Chân Như. Khi Lục Tổ Huệ Năng khai thị cho Huệ Minh lúc rượt theo Tổ để giành lại y bát. Tổ nói : “Không nghĩ thiện (tức là buông Chánh Niệm), không nghĩ ác (tức bỏ cả Tà Niệm) cái gì là Bản Lai Diện Mục của Thượng Tọa Minh ? ”. Chính nhờ buông cả Chánh Niệm lẫn Tà Niệm, đạt tới Vô Niệm mà Huệ Minh đã Đại Ngộ nơi đây.
Như vậy, Chánh Niệm chỉ là bước khởi đầu còn cách Vô Niệm một khoảng cách rất xa, vì một bên là Sáu Căn khởi niệm còn một bên là Chân Như Phật Tánh khởi niệm. Nếu chỉ dừng lại ở Chánh Niệm, tuy Thân Tâm có an lạc, nhưng không thể đạt đến sự Chứng Ngộ tâm linh như Chư Phật và Thiền Sư. Vì thật ra cả ba cái Tâm: Tâm quá khứ, Tâm vị lai và Tâm hiện tại đều không có. Nếu thấy cái Tâm hiện tại còn là Tâm và muốn cho Tâm an lạc hạnh phúc thì đây chỉ là cái Tâm Mê của thế gian và sự hạnh phúc an lạc đó chỉ là tạm thời giống như liều thuốc ngủ hay thuốc an thần của các Nhà Tâm Lý Học, một khi hết thuốc hay Vô Minh và Chướng Nghiệp đến thì Tâm này không còn an lạc nữa! Phật Pháp không phải để chuyên trị cái bệnh “Bất An” (hay Stress) của Tâm Lý Học thế gian đem lại hạnh phúc cá nhân gia đình và xã hội, điều này đã có các nhà Tâm Lý và các Tôn Giáo làm rồi và đây chỉ là cái “Tiểu An”. Đức Phật từng nói : “Nước biển có vị mặn, Đạo Ta chỉ có một vị duy nhất là Giải Thoát”. Đây mới là cái Đại An mà Đức Phật trị liệu cho Chúng Sanh thoát khỏi cái Đại Bệnh “Sinh Tử Luân Hồi” mà người thế gian không làm được. Do đó hành trì Chánh Niệm chưa phải là cái Rốt Ráo để đạt Đạo Giải Thoát mà chỉ là Bước Đầu còn phải vượt xa hơn.
Bài kệ “Thủ Nê Ngưu” của Tuệ Trung Thượng Sĩ : Thầy dạy Đạo của Vua Trần Nhân Tông (Tổ Sư Thiền Trúc Lâm – Việt Nam) chỉ rõ điều này :
“Một mình giữ một con Trâu Đất
Xỏ mũi đem về chẳng ngớt chăn
Đem đến Tào Khê mà thả quách
Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”.
Nghĩa là dù giữ Chánh Niệm triệt để, biết cách chăn Con Trâu Đất (tức là Tâm và Thân Tứ Đại), nhưng tốt nhất là đem Con Trâu Đất ấy thả trên đất Tào Khê thì mới an toàn và xong chuyện, không còn phải lo lắng gì nữa, tức là sẽ được cái Đại An của sự Giải Thoát : “Đem đến Tào Khê mà thả quách”. Đất Tào Khê là nơi Lục Tổ Huệ Năng hành Đạo, và Đạo của Ngài lấy Bảo Đàn Kinh với Pháp Vô Niệm làm căn bản. Chủ ý của Ngài Tuệ Trung là phải vượt khỏi Chánh Niệm để đạt đến cái “Vô Niệm” của Tổ Huệ Năng thì đạt đến cái Rốt Ráo và an nhiên tự tại : “Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”. Do đó nếu chỉ biết hành trì Chánh Niệm và dừng lại nơi đây thì chỉ mới đi có bước đầu, tuy có thể giúp cho người thế gian được an Tâm tạm thời (đạt được cái Tiểu An), nhưng đối với Đạo Giải Thoát thì cần phải tiến xa hơn. Mặc khác, một khi cột niệm nơi Tâm để làm cho Tâm an hay để trừ vọng tưởng phiền não mà cho là thực tập Chánh Niệm thì vô tình “để Sự nơi Tâm để Tâm nơi Sự” là một chướng ngại cho Trí Tuệ và sự Giải Thoát. Do đó dù là Chánh Niệm cũng phải biết Buông Niệm hay tiêu hóa Niệm: ngay nơi Niệm mà lìa Niệm, không phải Sáu Căn khởi niệm và rồi cột Niệm nơi Sáu Căn, mà phải “vô” Niệm nơi Sáu Căn và “hữu” Niệm nơi Chân Như Phật Tánh (tức Chân Như Phật Tánh khởi Niệm) chính là VÔ NIỆM đồng nhất với VÔ TÂM, tức là cái TÂM mà PHI TÂM. Đây là cái Rốt Ráo vượt khỏi Chánh Niệm đạt tới cái Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng.
Pháp Vô Niệm của Tổ Huệ Năng tuy bị thế gian bài xích xưa nay, nhưng thực tế đem lại lợi ích cho vô số người ngộ Đạo, làm cho Thiền Tông Trung Hoa lần đầu tiên rẽ hướng đi khác với Thiền Tông Ấn Độ( tùy duyên bất biến) và rực sáng trên bầu trời Trung Hoa từ Hoa Nam rồi lan nhanh ra Hoa Bắc( làm cho pháp Tiệm Ngộ của Ngài Thần Tú bị lu mờ ). Chính Đại sư Thần Tú tự than và khuyên đệ tử :
- Ngài Huệ Năng được Vô sư Trí, thâm nhập Tối thượng thừa, ta thật không sánh bằng. Huống chi Thầy ta là Ngũ Tổ đã đích thân truyền y pháp cho Ngài, đâu phải vô cớ mà truyền. Ta bận không thể đi xa thân cận Ngài, ngồi đây mà luống thọ ân vua (Võ Tắc Thiên). Các ngươi đừng nên lưu luyến ở đây, hãy đến Tào Khê tham bái mà giải quyết (những nghi ngờ về Phật pháp).
Một ngày kia, Đại sư Thần Tú gọi môn đệ là Chí Thành, bảo:
- Ông thông minh nhiều trí, hãy vì tôi đến Tào Khê nghe pháp, nghe điều gì thì nhớ kỹ về thuật lại cho tôi.
Sau này, Thần Hội đệ tử xuất sắc của Tổ Huệ Năng ra Hoa Bắc, bị nhiều người gièm xiểm, hãm hại, tố cáo với nhà Vua. Nhưng pháp Tiệm Ngộ của Đại Sư Thần Tú bị lu mờ dần ở Hoa Bắc nhường chỗ cho pháp Đốn Ngộ của Lục Tổ Huệ Năng. Sau Tổ Huệ Năng có biết bao nhiêu Thiền Sư ngoại hạng ra đời thay thế Phật độ sinh.
Dù cho chúng sanh lăng xăng chạy theo Pháp trần, thích hình tượng bên ngoài, thích Chùa to, Phật lớn, Phật vàng, Phật ngọc….mà quên đi việc rèn Tâm luyện Trí như Thiền Sư Lạc Phố đã cảnh giác:
“Nhất phiến bạch vân hoành cốt khẩu , (Một áng mây trắng che cửa hang
Kỷ đa qui điểu tận mây sào”. Bầy chim bay về đều quên tổ).
Hình tượng cái chùa to tráng lệ và Ông Phật to bằng vàng, bằng ngọc ở trong chùa sẽ là áng mây trắng che mất cửa hang….( tức là hang Tâm của chính mình) nên bầy chim bay về đều quên tổ ( tức là quên đi tức Tâm mình là Phật) mà chỉ thấy cái tượng chùa to và cái tượng Ông Phật to bằng vàng, bằng ngọc ở trong chùa rồi cầu xin lạy lục Ông Phật trong chùa đó cho mình được nhiều phước và được về Tây Phương Cực Lạc. Khi đó Ngài Huyền Giác nói:
“Cầu Phật thi công tảo vãn thành” (Ra công cầu Phật mấy thuở thành?).
Dù cho thế thời điên đảo, chúng sanh mê muội, Phật pháp suy đồi, chùa chiền biến chất như trong thời đại Ngài Huyền Giác nhưng nếu giữ được “ Ngọn Đèn Tâm” mà Đức Phật đã trao truyền trực tiếp cho Tổ Ca Diếp đầu tiên, qua 28 đời ở Tây Thiên cho đến Tổ Bồ Đề Mạt Đa rồi vào Trung Quốc với 6 đời truyền y bát cho tới Lục Tổ Huệ Năng được thiên hạ nghe theo thì người sau vẫn đắc Đạo nhiều vô số:
“Lục đại truyền y thiên hạ văn,
Hậu nhân đắc đạo hà cùng số”.(ThS. Huyền Giác).
Rất may, ngọn đèn Tâm đó vẫn còn cháy sáng, Chư Tổ và Thiền Sư vẫn giữ nó trong tấm bản đồ “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” để chúng sanh tự mồi lửa Tâm mình với Tâm Phật hòa làm một sáng lên trí Bát Nhã và ngộ nhập Bát Nhã. Tấm bản đồ này cũng là Bài Kinh Vô Tự Vô Ngôn vô cùng vi diệu và nhiệm mầu là nguyên cả Bầu Trời Rõ Chân Không vô tận cũng là Ánh Bát Nhã tràn ngập Đạo Lý. Các Ngài với lòng từ bi vô hạn còn chỉ rõ cả cửa vào. Đức Phật thì chỉ cánh cửa RÕ: “ Niêm Hoa Vi Tiếu”; Tổ Long Thọ chỉ 3 cửa: “ Vô, Vô Tướng, Vô Tác”; Bồ Đề Đạt Ma chỉ tới 6 cửa: “Thiếu Thất Lục Môn”; Lục Tổ Huệ Năng chỉ cái “Cửa Vô Niệm”, Thiền Sư Sư Bị thì chỉ “Cánh cửa Ca Diếp”; Triệu Châu lại chỉ cửa “Không”. Huệ Khai thì chỉ cánh cửa “Vô”; Huyền Giác lại chỉ cửa “Vô Vi”….Dù bao nhiêu cửa cũng chỉ là Một Cửa, tất cả cửa đều không khác, qua được một cửa là đã vào “Căn Nhà Xưa”: Căn nhà: “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
Cái căn nhà : “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” bất khả tư nghì, vi diệu và rốt ráo này, Tổ và Thiền Sư thường khai thị ngắn gọn chỉ trong một chữ “NHƯ”, “VÔ” hay là “KHÔNG”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, một câu ngắn gọn: “Sắc tức thị Không” nói lên cái áo nghĩa thâm sâu, siêu huyền cực lý và cũng là cái Chân Lý Vũ Trụ tuyệt vời. Thật vậy chỉ một câu: “Sắc tức thị Không” của Đức Phật, người nào đã am hiểu rõ ràng tận gốc tận cùng, tuy nhiên đây chỉ là đạt trên Lý, Sự thì vẫn còn ngăn ngại, có thể đặt làm “công án” Thiền, quán chiếu cái KHÔNG cho đến lúc bất chợt ngộ nhập vào KHÔNG, hoặc nhìn vào Hư Không với cái ‘‘cánh cửa Rõ Vô Vi’’ và có cái ‘‘Tâm tương ưng’’ thuần đức thì “có thể” đạt Đạo vô sanh, an trú nơi cái Không hay Niết Bàn thường lạc ngã tịnh. Nghĩ đến điều này, quả thực Đức Phật phải có cái Trí Tuệ siêu việt (Trí Bát Nhã) và lòng từ bi vô hạn, muốn độ hết thảy chúng sanh thoát khỏi luân hồi , nên đã trao Tấm Bản Đồ Bát Nhã vi diệu này, chỉ rõ ràng, tuy về hình thức thì thấy dường như Đức Phật giấu giếm nhiều “Mật nghĩa u thâm”, nhưng đối với những ai chịu khó tư duy quán chiếu thật sâu sắc thì sẽ thấy rõ và thấu hiểu được cái Lý Như Như hay cái Lý Sắc Không vi diệu của vũ trụ. Như đã luận giải ở phần trên, nhờ những phát minh Khoa Học đã chứng minh nhiều lời nói của Đức Phật là chính xác, chẳng hạn như: trong ly nước có vi trùng, vật chất không có tự tánh mà là do duyên hợp… Còn nhiều điều bí mật như cái Lý: “Sắc Không” mà Khoa Học ngày nay chưa giải lý nổi. Thật ra vì các nhà Khoa Học cứ nghiên cứu cái Bóng Trăng cho nên không bao giờ nhìn thấy được Mặt Trăng thật hay Chân Lý. Bởi vì các Nhà Khoa Học chỉ nghiên cứu trên cái Tướng của Sự Vật mà không nghiên cứu trên cái Vô Tướng hay cái Vô Vi mà Thiền Sư Huyền Giác đã khai thị:
“Tuyệt học Vô Vi nhàn Đạo nhân”.
Đối với vũ trụ, các Nhà Bác Học Không Gian đã khám phá ra nguyên thủy của vũ trụ là một Dị Điểm Big Bang (singular point) vô cùng nhỏ với đường kính D = 10-33 centimet , nổ ra cách đây 15 tỷ năm ở thời điểm Planck (T = 10-43 giây), và họ cho đây là cái tột cùng nguồn gốc vũ trụ! Nói theo Phật Pháp thì đây là chỉ mới khám phá ra cái Dụng và còn ở trên Sự Tướng, tức là chỉ quan sát trên cái Bóng Trăng mà chưa nhận ra cái phần Thể, tức là cái Vô Tướng trên Sự Vật hay là Mặt Trăng thật. Nói theo Thiền Sư Cảnh Sầm thì chưa nhảy qua khỏi “đầu sào trăm trượng” mà cũng chưa đi hết “trăm trượng đầu sào”. Còn nói theo Ngài Huyền Giác là chưa đạt tới cái “Vô Vi” mà cũng chưa đến được “cửa Vô Vi” cho nên chưa thấy được Chân Lý tối thượng. Phải đi hết “trăm trượng đầu sào” và phải huốt khỏi “đầu sào trăm trượng”, huốt khỏi sự vật, ở đây là phải huốt khỏi cái máy động, cái hình tướng, cái sự vật của Dị Điểm Big Bang, tức là cái “Tuyệt Cùng” ngay trên Dị Điểm Big Bang: là cái “cửa Vô Vi”, “đột phá” ngay “cửa Vô Vi” để nhập vào “Vô Vi”, chính là cái “Không”, cái Hư Không - Rỗng Rang - Emptiness ở thời điểm T0 = 0 giây. Cái “Không” này là nguồn gốc, là Mẹ Đẻ ra vũ trụ với hàng trăm tỷ Thiên Hà: “Không tức thị Sắc”. Cái “Không” này cũng gọi là Tánh hay Bát Nhã, còn cái Dị Điểm Big Bang là một điểm của Tâm hay một niệm Vô Minh ảo hóa duyên khởi trùng trùng sinh ra vũ trụ!
Còn đối với vật chất, sơn hà, đại địa trong vũ trụ, nếu chia chẻ phân tích vật chất này để xem cái “Cốt Tủy” bên trong, cái Tướng Thật hay cái Tự Tánh của nó là gì? Nếu chia cắt như vậy cho đến cái cực nhỏ thì ta được một Phân Tử vật chất (molecule). Rồi bên trong Phân Tử tiếp tục chia chẻ phân tích thì thấy Phân Tử gồm nhiều nguyên tử (atoms) kết hợp lại. Thí dụ như Phân Tử Đường saccharic (sugar) với công thức hóa học là C12H22O11 gồm 12 nguyên tử Carbon (C) kết hợp với 22 nguyên tử Hydrogen (H) và 11 nguyên tử Oxygen (O). Tiếp tục chia chẻ phân tích bên trong mỗi nguyên tử thì thấy hàng trăm hạt vi tế bên trong nhân nguyên tử như protons, neutrons, neutrinos…và các hạt electrons quay chung quanh nhân. Tiếp tục chia chẻ phân tích bên trong những hạt này thì thấy các hạt quarks, thí dụ một hạt electron gồm 3 hạt quarks (2downs+1up) kết hợp lại. Cuối cùng phân tích bên trong mỗi hạt quark thì thấy sóng gamma (γ) photon vi tế năng lượng cao. Sóng gamma photon là năng lượng, là đầu mối tạo ra vật chất có khối lượng với công thức biến đổi năng lượng thành khối lượng tạo ra vật chất của Nhà Bác Học Einstein là : E = MC2, trong đó E (energy) là năng lượng, M (mass) là khối lượng vật chất và C (velocity) là vận tốc sóng - hạt photon ánh sáng. Sóng gamma photon này ở thể “Động” thì là năng lượng và có cái Tướng “Sóng”, nhưng lúc nghỉ hay ở trạng thái “Tĩnh” thì khối lượng nghỉ là M = 0 và khi đó năng lượng nghỉ cũng mất : E0 = 0.
E0 = MC2 = (0)(300.000)2 = 0.
Như vậy ở trạng thái “Động” thì là Sóng có năng lượng và năng lượng này biến thành khối lượng vật chất tức là Sắc; ở trạng thái “Tĩnh” thì cái Tướng “Sóng” mất, khối lượng và năng lượng cũng mất, tức là cái SẮC mất và trở về KHÔNG. Như vậy Vật Chất chỉ “hiện hữu” khi ở trạng thái “Động”, còn ở trạng thái “Tĩnh” thì “biến mất” nhập vào Không. Do đó Vật Chất “không có thật” và cũng không có Tự Tánh, tức là Tánh Không. Vật chất chỉ là ảo hóa hay là cái Bóng của cái KHÔNG : giống như Biển động thì Nước nổi lên thành Sóng; Biển yên lặng thì Sóng mất trở thành Nước. Rốt ráo lại giống như Biển Nước, khi ở trạng thái Động (TÁC) do Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động, thì từ cái KHÔNG với cái năng lượng “Động” hiện ra cái Tướng Sóng vi tế, rồi năng lượng Sóng này chuyển thành vật chất có khối lượng, là cái SẮC. Khi ở trạng thái “Tĩnh” (VÔ TÁC) thì Sóng vi tế mất thì vật chất mất, vật chất là SẮC, tức là SẮC trở về KHÔNG: “Sắc tức thị Không”. Sóng này tùy duyên mà biến hoá ra vô số thể trạng khác nhau tùy theo biên độ (amplitude), độ dài sóng (wave-length) tần số (frequency), chu kỳ (period), hằng số pha ( phase constant)…là cái Diệu Hữu. Thí dụ một phương trình Sóng thật đơn giản: y = ymsin(ωt+ф). (ym= biên độ, ω (omega) = tần số, t = thời gian, ф (phi) = pha sóng) có dạng Sóng hình Sin và chu kỳ Sóng là T=2π/ω. Mỗi chu kỳ T là một niệm; có vô lượng hình tướng Sóng, truyền đi với vô lượng chu kỳ hay là vô lượng niệm mà tạo tác ra cái Sắc. Ngoài việc chuyển từ năng lượng thành khối lượng vật chất, Sóng còn có thể hiện ra những tướng khác như : âm thanh, màu sắc, hình ảnh, động năng, cơ năng, nhiệt năng, hóa năng, điện năng, quang năng, nguyên tử năng…cho tới cái thấy nghe hiểu biết…cả đến cái Thân Tâm Người và Thân Tâm Vũ Trụ ! Cái tướng Sóng sau một chu kỳ T hay một niệm, là một “Vi Sóng” tương ưng với một “Vi Sắc”. Niệm niệm trùng trùng duyên khởi với vô lượng “Vi Sóng” tương ưng với vô lượng “Vi Sắc”, sinh ra Càn Khôn Vũ Trụ và sum la vạn tượng đầy ắp trong Hư Không. Tận đầu nguồn Sóng là Phi Sóng, là cái cửa Vô Vi, tương ưng với tận đầu nguồn Sắc là Phi Sắc cũng tương ưng với tận đầu nguồn Tâm là Phi Tâm. Vì Sóng là cái Tướng vi tế của Tâm… là một. Sóng nổi lên là Tâm động, Sóng mất là Tâm tĩnh lặng bắt đầu chiếu soi là chiếc Gương Tâm, giống như Sóng mất trở về Nước và Mặt Nước lặng yên như Gương bắt đầu chiếu soi. Ba ngàn thế giới hiện Bóng trong chiếc Gương này. Như vậy Càn Khôn Vũ Trụ chỉ là cái Bóng của chiếc Gương Tâm và Gương Tâm là Ánh Rõ hay Ánh Sáng của Tánh, của Bát Nhã hay Viên Ngọc Ma Ni. Rốt ráo, Tâm động nổi Sóng thành Sắc với ba ngàn thế giới, Tâm tĩnh Sóng mất, Sắc trở về Không…Đối với người ngộ đạo với cái Tâm Vô, đạt đến Vô Vi, thấy Sắc tức Không, đâu đâu cũng là Bát Nhã, Niết Bàn hay Pháp Thân thanh tịnh bình đẳng hòa chung với Hoa Tạng Pháp Giới làm một…
Nói cho cùng thì Vật Chất từ hạt Nguyên Tử cho đến Vũ Trụ bao la đều do Tâm làm ra và Tâm là một nhà ảo thuật đại tài hiển ra cái Sắc, biến hóa một cách vi diệu (Diệu Hữu) từ Gốc Tâm cho đến Ngọn Tâm đủ thứ hình thù, màu sắc, âm thanh, sơn hà, đại địa, cây cỏ và muôn loài chúng sanh…cho nên Kinh nói: “nhất thiết duy Tâm tạo”. Tâm cũng là Sắc là cái Dụng của Tánh, của Bát Nhã hay cái KHÔNG. Nhưng tột cùng thì Tâm và Sắc cũng chẳng có, chỉ là cái Bóng của Tánh hay của cái KHÔNG. Người thế gian không ngờ rằng cái Sắc tức Vật Chất: từ hạt Nguyên Tử cho tới Vũ Trụ “không thật có” mà chỉ là cái “Bóng” của cái KHÔNG hay Bát Nhã! Và khi Khoa Học phân tích nghiên cứu đến cái tận cùng nguồn gốc sinh ra Vũ Trụ là cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ ở thời điểm Planck T = 10-43 giây; nhưng ở thời điểm T= 0 giây là giao điểm giữa cái Dị Điểm Big Bang và cái KHÔNG, vừa huốt cái Sắc, cái năng lượng, cái máy động, chính là cái ‘‘cửa Vô Vi’’, ngay đó liền đụng tới cái KHÔNG là Bản Thể của cái SẮC, là cái Rốt Ráo mà Khoa Học lại bỏ qua! Khoa Học cũng nghiên cứu phân tích trên cái SẮC tức Vật Chất thì thấy cái tận cùng của Vật Chất là Sóng vi tế ở trạng thái “Động”, nhưng ở trạng thái “Tĩnh” thì Sóng mất, năng lượng hay khối lượng cũng mất (M=E=0), vừa huốt cái Tướng Sóng vi tế, cái năng lượng, khối lượng, vừa huốt cái “máy động” (Tác) của Sóng là trạng thái “Tĩnh”, tức là cái “cửa Vô Vi”, thì cũng đụng tới cái KHÔNG và chính cái KHÔNG này là Bản Thể hiển ra cái SẮC hay Vật Chất, tức là cái Dụng nhưng Khoa Học cũng lại bỏ qua, chỉ chấp Dụng mà bỏ Thể, chấp cái Bóng Trăng mà bỏ qua Mặt Trăng thật! Nếu Khoa Học phân tích hình tướng Sự Vật từ nguyên tử vật chất cho tới nguồn gốc vũ trụ tới tận đầu nguồn, không dừng lại ở trạng thái“Động” của Sóng vật chất vi tế mà tiến tới trạng thái “Tĩnh”, không dừng lại ở thời điểm Planck T = 10-43 giây mà tiến tới thời điểm T=0 giây thì sẽ đụng tới cái KHÔNG : Cái KHÔNG này vừa giải thích rằng Vật Chất và Vũ Trụ “không thật có”, vừa giải thích Vật Chất và Vũ Trụ từ cái KHÔNG mà ra và cái KHÔNG này không phải là không ngơ hay “ngoan không” vô tích sự mà là cái KHÔNG vi diệu là Chân Lý tột cùng!
Khoa Học dùng thí nghiệm nhưng chưa đi huốt con đường Tâm hay Sắc cho nên chưa thấy được cái tột cùng của Chân Lý. Trong khi Chư Phật, Tổ và Thiền Sư “nhảy qua khỏi đầu sào trăm trượng” hay đạt tới “cái cửa Vô Vi” và ngay đó nhảy thẳng vào Tánh là cái KHÔNG rốt ráo nên đạt tới Chân Lý tuyệt đối. Chẳng hạn như cái thấy của Tổ Long Thọ: “Thành Niết Bàn có ba cửa: Vô, Vô Tướng, Vô Tác” là cái thấy tận cùng của Chân Lý. Bởi vì cái KHÔNG rốt ráo, tức là Bát Nhã, Chân Như, Thật Tướng hay Niết Bàn thì không có một vật (VÔ), không có hình tướng Sắc hay là Tâm (Vô Tướng) và trong sáng thường chiếu thường soi tĩnh tịch lẳng lặng và bất động như Gương (Vô Tác). Khoa Học nhảy không qua cái cửa này, còn thiếu một bước là “đầu sào trăm trượng” và cái “cửa Vô Vi” của Thiền Sư. Khoa Học biết được cái nguồn gốc Vũ Trụ là một Dị Điểm Big Bang (tức là một điểm của Tâm và Sắc) ở thời điểm Planck, nhảy qua khỏi cái thời điểm này tức là T=0 giây cho đến T = -1 giây thì đã lọt vào cái KHÔNG hay cái “thành Niết Bàn” (Vô, Vô Tướng, Vô Tác) của Tổ Long Thọ. Khoa Học cũng đã phân tích thấy được cái căn bản tột cùng của Vật Chất là Sóng vi tế năng lượng cao ở trạng thái “Động”, còn ở trạng thái “Tĩnh” thì Sóng mất và khối lượng vật chất cũng mất: M=0. Khoa Học cũng không nhảy qua khỏi cái Cửa này vì còn chấp cái “Tướng Sóng” và cái “Tướng Động” của Sóng Vật Chất. Nếu thêm một bước nữa là đã tới cái cửa Vô Vi tức là chỗ không còn “máy động” (trạng thái Tĩnh) không còn hình tướng (không còn cái Tướng Sóng) thì tìm thấy cái căn nguyên rốt ráo của Vật Chất chính là cái KHÔNG trở về ba cái cửa Vô, Vô Tướng, Vô Tác của Tổ Long Thọ.
Chư Phật, Tổ và Thiền Sư nhìn Sự Vật bằng Tâm với ngũ nhãn, còn Người Thế Gian thì nhìn bằng Lục Căn qua cái “Thấu Kính Nghiệp”, bị “khúc xạ” theo Nghiệp Tướng, bị dao động và điên đảo…. Tâm này là Tâm “không” bất động như Mặt Nước lặng yên, như chiếc Gương trong không có ngấn bụi soi sáng cả ba ngàn thế giới. Đó là cái Tâm “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng, cái Tâm “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác, cái Tâm “Vô Tâm” của Thiền Sư Hoàng Bá, cái Tâm “Vô” của Thiền Sư Đức Sơn, hay cái Tâm “Vô, Vô Tướng,Vô Tác” của Tổ Long Thọ…
“ Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện, (Một niệm chẳng sinh, toàn thể hiện,
Lục căn tài động bị vân già”. Lục căn vừa động bị che lòa).
(Trương Chuyết)
Cái “Bí Quyết” ở đây là “Tĩnh”, tức “không Động”, không khởi niệm thì Chân Lý hay Sự Thật hiển bày đạt tới cái KHÔNG : “Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện”. Niệm ở đây là sáu căn khởi niệm. Một niệm của sáu căn vừa khởi lên, hay vừa “Động” thì Vô Minh hay Nghiệp Lực liền đến che mờ cái Chân Như Tự Tánh : “Lục căn tài động bị vân già”. Vật Chất cũng vậy, khi Sóng Vật Chất khởi lên một niệm, tức là một chu kỳ T thì liền ngay đó có cái Tướng Sóng sinh ra SẮC tạo ra cái Tướng của Thế Gian “Mê”. Do đó, “Tĩnh” thì trở về cái Tự Nhiên, cái Như Nhiên, cái Như Như, hay cái Như (Pháp nhĩ như thị) và rốt ráo là cái KHÔNG trùm khắp và bình đẳng. Một điều lạ là tuy Tĩnh lặng, không động, vô niệm, vô trụ, vô Tâm…nhưng vô niệm nơi sáu căn mà Chân Như Tự Tánh khởi niệm Bát Nhã lộ toàn thân, vô Tâm mà Đại Tâm Đại Ứng trùm Pháp Giới, vô trụ mà “Ứng vô sở trụ như sanh Kỳ Tâm”!... Còn “Động” thì cái Như Như ấy bị Vô Minh, Nghiệp Lực hay cái “Tướng Động” che mờ sinh ra cái Bóng Sắc Trần với cái Tướng phân biệt của Sắc mà sinh ra Ngã Chấp có Năng Chấp Sở Chấp, điên đảo trong cái Mê, mất đi cái Tính Chơn Nhất của Đại Đạo.
Cũng như một Hòn Bọt “tự mất mình”, không còn chấp cái “Ngã Bọt” mà trở về với Nước (Vô), không còn cái “Tướng Bọt” mà hòa chung với Biển Cả bao la (Vô Tướng), không còn cái “Tướng Động” lắc lư điên đảo mà trở về với Biển Nước lặng yên như Gương (Vô Tác), soi thấu suốt Bầu Trời trong vô tận. Mặt Nước nếu “Động” nổi lên ngàn Sóng, thì không thể soi thấu Bầu Trời trong. Tâm “Động” cũng vậy, Sóng Vô Minh hay Sóng Nghiệp nổi lên sắc tướng Thế Gian mê. Tâm “Tĩnh” đạt đến Tâm không : “Vô, Vô Tướng, Vô Tác” thì Thế Gian mê tan hoại, Bát Nhã Niết Bàn lộ nguyên hình.
Bên ngoài thấy Sắc chạy theo Sắc là “Động”, bên trong “Vô Niệm” thấy được Tự Tánh là “Tĩnh”. Chỉ cần thấy được Tự Tánh là xong hết mọi việc, thấy được Tự Tánh là có đủ Tam Thân, Tứ Trí, hoàn tất tám cửa giải thoát, sáu cửa lục thông, là “thân chứng” những diệu dụng của Tâm như Thiền Sư Huyền Giác chỉ rõ:
“Tam thân, tứ trí thể trung viên (Ba thân bốn trí thể tròn nguyên
Bát giải, lục thông Tâm địa ấn”. Tám giải, sáu thông Tâm ấn hiệp).
Rốt ráo của Thanh Tịnh là “Tĩnh” tức Bồ Đề, Tổ Đạt Ma nói:
“Thanh tịnh tự phân ly (Thanh tịnh tự phân ly
Tứ Trí ba vô tận Bốn Trí cuồn cuộn sóng
Bát Thức hữu thần uy Tám Thức lộ thần uy
Tâm đăng minh Pháp Giới Đèn Tâm soi Pháp Giới
Tức thử thị Bồ Đề”. Đó tức là Bồ Đề).
Nói về Tam Thân Tứ Trí một khi “chứng” được Tự Tánh, Lục Tổ Huệ Năng giải thích :
“Tự Tánh cụ tam thân
Phát minh thành tứ trí
Bất ly kiến văn duyên
Siêu nhiên đăng Phật địa
Ngô kim vị nhữ thuyết
Đế tín vĩnh vô mê
Mạc học trì cầu giả
Chung nhật thuyết Bồ Đề”.
Nghĩa là Tự Tánh có đầy đủ Ba Thân: Thanh tịnh Pháp Thân là Tự Tánh thanh tịnh của mình dung thông và trùm khắp tất cả Tánh. Viên mãn Báo Thân là Trí Tuệ bất sanh bất diệt của mình. Thiên bá ức Hóa Thân là tất cả những hạnh lành của mình. Từ Ba Thân phát minh thành Tứ Trí:
1-Thành Sở Tác Trí (tức Ngũ Thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân chuyển thành Trí).
2- Diệu Quán Sát Trí (tức là thức thứ sáu: Ý Thức chuyển thành Trí).
3-Bình Đẳng Tánh Trí (tức là thức thứ bảy: Mạt Na Thức chuyển thành Trí).
4-Đại Viên Cảnh Trí (tức là thức thứ tám: A-Lại-Da Thức chuyển thành Trí).
Tất cả chẳng lìa duyên thấy nghe, siêu nhiên bước lên quả Vị Phật. Lục Tổ vì chúng sanh mà nói, và điều này là niềm tin chắc chắn “Đế Tín” không mê lầm; không nên tìm cầu bên ngoài, trọn ngày nói Bồ Đề mà không hiểu Bồ Đề là gì?! Như vậy từ Tự Tánh mới có được Ba Thân và từ Ba Thân mới có được Tứ Trí. Nếu lìa Ba Thân mà nói Tứ Trí thì Trí này không có Thân, thì Trí là vô Trí. Tổ nói kệ:
“Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh
Diệu quán sát trí kiến phi công
Thành sở tác trí đồng viên cảnh
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển
Đãn dụng danh ngôn vô Thật Tánh
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình
Phồn hưng, vĩnh xử Na-già định”.
Nghĩa là Đại Viên Cảnh Trí là Tánh thanh tịnh của nhân giả. Bình Đẳng Tánh Trí là Tâm không bệnh tức là không duyên theo Sắc Trần. Diệu Quán Sát Trí là làm tất cả mà như không có làm, tức là không chấp công chấp ngã hay có năng có sở. Thành Sở Tác Trí thì đồng với Đại Viên Cảnh Trí. Ngũ thức và thức thứ tám; thức thứ sáu và thức thứ bảy là trên quả và nhân chuyển: tức là thức thứ sáu, thức thứ bảy là nhân, còn ngũ thức và thức thứ tám là quả (lục thất nhân trung chuyển; ngũ bát quả thượng viên). Những thức này chỉ dụng danh ngôn mà không có Thật Tánh. Nếu ngay trên chỗ chuyển mà không dấy niệm (vô niệm) tức là sáu căn không Động mà Tĩnh, không có lưu tình, thì ngay nơi chỗ phồn hưng (ồn náo) mà vẫn ở trong đại định Na-già. Điều này Tổ thứ 22 Ma-Noa-La (Manorhita) Thiền Tông có nói:
“Tâm tùy vạn cảnh chuyển (Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u Chỗ chuyển thật kín sâu
Tùy lưu nhận đắc Tánh Tùy dòng nhận được Tánh
Vô hỷ diệc vô ưu”. Không mừng cũng không lo).
Chuyển Tám Thức thành Trí này, chỗ Bí Quyết là “Tĩnh”, nghĩa là không khởi niệm tức vô niệm, không lưu tình: “Vô hỷ diệc vô ưu” Cái Bí Quyết thứ hai là chỉ cần chuyển cái “Nhân” là thức thứ sáu (Ý Thức) và thức thứ bảy (Mạt Na Thức) thì được cái “Quả” tự nhiên chuyển theo là Ngũ Thức (nhãn, nhĩ ,tỷ, thiệt, thân) và thức thứ tám (A-Lại-Da Thức). Trong Duy Thức Luận có nói rõ công dụng của mỗi thức trong Bát Thức như sau :
“Bát cá đệ huynh nhất cá si
Độc hữu nhất cá tối lưu ly
Ngũ cá môn tiền tố mãi mại
Nhất cá gia trung tác chủ y”.
Nghĩa là trong tám anh em “Bát Thức” có một đứa “ngu si” nhất đó là anh thứ bảy (Mạt Na Thức) bởi vì chấp Ngã; anh thứ sáu (Ý Thức) thì khôn lanh nhất “tối lưu ly” có công hàng đầu đưa nhân giả tới chỗ giác ngộ giải thoát, nhưng cũng có tội bậc nhất đưa nhân giả vào địa ngục cũng dễ dàng: “công vi thủ, tội vi khôi”; từ anh thứ nhất tới anh thứ năm (nhãn, nhĩ ,tỷ, thiệt, thân) chỉ lo việc buôn bán tiếp xúc với khách trần bên ngoài; còn Ông Chủ thì ở trong nhà lo tàng trữ cất giữ mọi “Tích Sản” trong nhiều đời nhiều kiếp là thức thứ tám (A-Lại-Da Thức). Anh A-Lại-Da này còn có những nhiệm vụ đặc biệt như sau:
“Hạo hạo Tam Tàng bất khả cùng
Uyên thâm thất lãng cảnh vi phong
Thọ huân trì chủng căn thân khí
Khứ hậu lai tiên tác chủ ông”.
(Vòi vọi ba Tàng thật khôn cùng
Vực sâu, “Bảy Sóng”chốn cuồng phong
Nhận gom giữ chủng căn thân khí
Đi sau đến trước, Chủ là Ông).
Nghĩa là thức thứ tám A-Lại-Da là Tàng Thức có ba Tàng mênh mông vòi vọi là: Năng Tàng (có công năng tàng trữ tất cả chủng tử (hạt giống) trong nhiều đời nhiều kiếp), Sở Tàng (là nơi tất cả Pháp hiện hành huân tập vào) và Ngã Ái Chấp Tàng (chấp cái kiến phần của thức này làm Ngã là người Chủ khả ái cố giữ chặt không buông tha). A-Lại-Da là cái “vực sâu” thăm thẳm chứa “Bảy Sóng” cuồn cuộn là chỗ tạo thành Gió Nghiệp luân chuyển là “tài sản” của Căn Thân và Sắc Trần (tức là khí) thọ nhận, huân tập trong nhiều đời nhiều kiếp rồi cầm giữ tích chứa thành Nghiệp Chủng. Thức này khi con người chết thì đi sau cùng; khi luân hồi thì thọ nhập vào bào thai trước hết, là Ông Chủ tạo tác dẫn Nghiệp tái sinh ở đời sau. Trong A-Lại-Da,“Bảy Sóng” cùng nổi lên (tức là Động) thì tạo nên Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi. Trong “Bảy Sóng” thì Ý Thức và Mạt Na Thức là tối quan trọng trong Mê hay Ngộ. Bởi vì Ý Thức là “tối lưu ly” là tinh khôn nhất , dẫn đầu trong việc chuyển Nghiệp; còn Mạt Na Thức thì “si mê” chỉ biết ôm chấp cái ngã chướng ô nhiễm là ngã kiến, ngã si, ngã mạn và ngã ái, không chịu buông tha nên bị trói cột vào Nghiệp hay Chủng Tử luân hồi. Hai thức này chuyển thì Ngũ Thức và Bát Thức tự động chuyển theo: “Lục thất “nhân” trung chuyển; ngũ bát “quả” thượng viên”. Khi đó thì ngũ thức (nhãn, nhĩ ,tỷ, thiệt, thân) biến thành “Thành Sở Tác Trí”, còn thức thứ tám (A-Lại-Da Thức) chuyển thành “Đại Viên Cảnh Trí” là Biển Tánh thanh tịnh. Sáu căn không khởi niệm tức “Vô Niệm”, Mạt Na Thức không khởi niệm tức “Vô Ngã” thì “Bảy Sóng” lặng yên tức là “Tĩnh”thì: “Bát Thức hữu thần uy, Tâm đăng minh Pháp Giới”. Nếu “Bảy Sóng” trong Bát Thức dấy động, nổi cuồng phong dẫn Nghiệp tái sanh đẩy chúng sanh là Chánh Báo vào Biển Luân Hồi, thì “Bảy Sóng” trong hạt nguyên tử do Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động tạo ra cái Sắc tức Y Báo là Thế Gian Mê cùng Nghiệp là căn nhà của Chúng Sanh Mê đang thọ Nghiệp. “Bảy Sóng” này là Bảy lớp “quỹ đạo electron” bị cột dính cứng chắc và quay chung quanh nhân nguyên tử (được xem như là Nghiệp vi tế) như những vòng tròn luân hồi, duyên khởi tạo tác thành thế giới vật chất từ Nguyên Tử cho tới Vũ Trụ là cái Sắc hay Y Báo của Chúng Sanh cùng Nghiệp Quả. Bát Thức cũng chính là Tâm, nếu “Bảy Sóng” trong Bát Thức lặng yên như chiếc Gương trong thì soi sáng cả ba ngàn Thế Giới: “Tâm đăng minh Pháp Giới”; thì “Bảy Sóng” trong cái Sắc cũng lặng yên, thế giới Mê tan hoại: Sắc trở về Không; cả Tâm và Cảnh (tức Sắc) Nhất Như đồng trở về Thế Giới Nhất Chơn, tức là cái Không hay Bát Nhã Chân Như…
Chứng Ngộ “Tự Tánh” đạt Tam Thân Tứ Trí với “Bảy Sóng” lặng yên tịch diệt này nhờ khai thị của Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Sư Trí Thông trình kệ:
“Tam Thân nguyên ngã thể
Tứ Trí Bản Tâm minh
Thân Trí dung vô ngại
Ứng vật nhiệm tùy hình
Khởi tu giai vọng động
Thủ trụ phỉ chân tinh
Diệu chỉ nhân Sư hiểu
Chung vong nhiễm ô danh”.
Nghĩa là nếu Ngộ rồi thì thấy Ba Thân nguyên là thể của chính mình, Tứ Trí là Bản Tâm sáng của mình, cả Thân và Trí đều dung thông vô ngại, khi đó tùy cơ ứng vật không bị vướng mắc. Còn như khởi niệm tu hành là vọng động; giữ trụ kềm chế thì không hợp với lẽ chân. Nhờ Thầy mà hiểu được diệu chỉ, cái danh hay cái tên là nhiễm ô cũng phải quên đi.
Rốt ráo lại, chứng được Tự Tánh hòa cùng Biển Tánh thanh tịnh, đạt được Tam Thân Tứ Trí mà trong đó Bát Thức chuyển thành Trí cũng chính là Tâm. Sóng Nghiệp lặng yên, không còn ngã sở thì Tâm “Tịnh” hòa cùng Biển Tâm trùm khắp Hư Không vô biên, là chiếc “Gương” soi rõ ba ngàn Thế Giới cùng với Biển Tánh Chân Như là Một.
Như vậy Mê hay Ngộ chỉ có hai trạng thái TĨNH và ĐỘNG. Tĩnh là Chư Phật, Tổ và Thiền Sư ngộ Đạo. Còn Động là Chúng Sanh Mê trong sáu cõi luân hồi. Trong Mê thì có “Động”, trong “Động” có “Dụng”, nhất “Động” nhất “Dụng”, sinh ra “Hữu”, là cái tướng Mê do Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động, có cái “Tướng Động” là năng lượng chuyển thành khối lượng vật chất tạo ra Sắc Tướng Thế Gian Mê do Sóng Nghiệp hay Sóng Vô Minh duyên thành Sóng Vật Chất vi tế duyên khởi biến hóa thành nguyên tử cho đến vũ trụ, nguyên tử và vũ trụ đều “Động” mà hiện hữu. Thế Giới Mê tuy có Sắc Tướng nhưng không thật, chỉ là vọng khởi, huyễn ảo, là Bóng của cái KHÔNG vô hình tướng. Trái với Mê là Ngộ, trong Ngộ thì có “Tĩnh”, trong “Tĩnh” thì không “Động”, không “Động” thì không “Dụng”, không “Động” không “Dụng” là cái Tướng Không không Tướng, tức là “KHÔNG” là cái Tướng của Bát Nhã Niết Bàn. Thật ra Bát Nhã thì Như Như “Bất Động”, nhưng lại có cái “Dụng” là “Hay sanh muôn Pháp” là cái Diệu Hữu của Chân Như. Cái “Dụng” này là Vạn Pháp Thế Gian từ Gốc Tâm hay Mặt Trăng Thứ Hai trở ra Ngọn Tâm do “Động” mà huyễn hóa thành đủ thứ sum la vạn tượng hiện đầy trong Hư Không. Tuy nhiên dù “Hiện Hữu” nhưng không thật có, chỉ là huyễn hóa, là Tánh Không nên “Diệu”. Với con mắt Bát Nhã thì ngay trên Động mà Bất Động, ngay trên Dụng mà Không Dụng, ngay trên Pháp Thế Gian hay cái “Bóng Trăng” mà “trực chỉ” thấy “Mặt Trăng Thật”, thấy Sắc tức Không, tức là “Không Động” và “Không Dụng” ngay trên cái tướng “Động Dụng” của Pháp Thế Gian. Do đó trong “Tĩnh”, đâu đâu Vạn Pháp cũng đều Như! Do dứt Vô Minh hay Nghiệp Lực tác động nên Sóng Vật Chất vi tế biến mất thì Vật Chất từ Nguyên Tử cho đến Vũ Trụ của Thế Gian Mê sụp đổ tan hoại: Sắc trở về Không. “Tĩnh” cũng như Mặt Nước Biển yên lặng thì Sóng mất, trở về với Nước. Trong “Tĩnh” : Sắc về với Không, Sóng về với Nước, tức là về lại Gốc, trở lại Nguồn, về Căn Nhà Xưa: căn nhà “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” vô thủy.
Nói tới “Động” và “Tĩnh”, cũng nên phân biệt cái “Động” và “Tĩnh” mà Lục Tổ Huệ Năng đề cập tới loài Hữu Tình như chúng sanh và loài Vô Tình như cây cỏ, đất đá… Hữu Tình là biết “Động”, còn Vô Tình thì không biết “Động”. Ở đây chỉ nói về hình thức bên ngoài của loài Vô Tình như đất đá,…là “Bất Động” tức Vô Tri; khi không nói đến nội dung bên trong với những hạt hay sóng vật chất luôn luôn động. Nếu chấp cái “Bất Động” này để hành trì thì người Tu cũng giống như gỗ đá thì bất động vẫn là bất động, không thể đạt được cái “ Chân Thật Bất Động”. Vì vậy Lục Tổ Huệ Năng có nhắc nhở:
“Hữu Tình tức biết động
Vô Tình tức không động
Nếu tu hạnh bất động
Đồng Vô Tình bất động”.
Muốn tìm cái “Chân Thật Bất Động”, là loài Hữu Tình, chúng sanh có sáu căn hoạt động thì ngay trên “Động” có “Bất Động”, tức là ngay trên sáu căn (thấy nghe hiểu biết, xúc chạm…) là cái Tướng Động nhưng không đuổi theo sáu trần, nghĩa là tuy có thấy có nghe có hiểu biết… nhưng “không khởi niệm”. Đây chính là ngay trên “Động” có “Bất Động”, ngay trên niệm mà lìa niệm, tức “Vô Niệm” hay ngay trên cảnh mà lìa cảnh, tức “Vô Tâm”. Còn như bất động hoàn toàn: không thấy không nghe không hiểu biết…thì bất động vẫn là bất động, đồng với loài Vô Tình như đất đá cây cỏ, không có Phật Tánh:
“Nếu tìm Chân Bất Động
Trên động có bất động
Bất động là bất động
Vô Tình không Phật Tánh.” (Lục Tổ Huệ Năng).
Trở về cái Mê hay Ngộ ở hai trạng thái TĨNH và ĐỘNG. Ngay khi Ngộ thì Sắc về với Không: Chánh Báo và Y Báo đều hòa chung với cái Hư Không vô biên là Pháp Thân bình đẳng trong Hoa Tạng Pháp Giới. Ngay khi Ngộ thì Sóng hay Hòn Bọt mất, hòa với Biển Nước lặng yên; cái Ngã Sóng mất, cái Ngã Bọt mất, hòa thành Biển Cả bao la. Ngay khi Ngộ thì Thân Tâm mất, Thân là Pháp Thân: Hư Không vô biên, Tâm là Đại Tâm thành Biển Tánh bao la dung thông với tất cả Tánh. Con mắt “Vô” của Sa Môn thấy cái “Dụng” ở trong “Động” nhận ra tức thời cái “Thể” ở trong “Tĩnh”, thấy “Tướng” mà “Vô Tướng”, thấy Vật tức Tâm, thấy Sắc tức Không, thấy Đại Địa Quần Sanh là Thế Giới Nhất Chơn bình đẳng. Tất cả Sum La Vạn Tượng đều đồng loạt mở toang con mắt Bát Nhã rực cả Bầu Trời Hư Không vô tận: “Đại Địa Quần Sanh nhãn hoát khai”. Con mắt “Vô Tướng” của Tổ Long Thọ cũng vậy: Không thấy Như Lai đâu cả, mà đâu đâu cũng thấy Như Lai, không thấy Pháp Thân Phật đâu cả, mà đâu đâu cũng thấy Pháp Thân Phật, không thấy Niết Bàn đâu cả mà đâu đâu cũng gặp Niết Bàn, không thấy Bát Nhã đâu cả, mà đâu đâu cũng là Bát Nhã… Bởi vì tất cả cái thấy hay cái Chứng Ngộ này đều ở trong “Tĩnh” tức Vô Tác. Vô Tác ở đây cũng đồng với Vô Niệm, Vô Tâm hay vô sở trụ. Tất cả cái thấy “Vô, Vô Tướng, Vô Tác” này đều ở trong “Tĩnh”. “Tĩnh” là trở về cái Chân Lý vĩnh hằng và tuyệt đối của Vạn Hữu là “Sắc tức thị Không”.
Điều này được “Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao. Chiêm Bao là do cái Tâm Mê đang “Động” hiện ra Thế Giới Chiêm Bao mà trong đó cái SẮC tức là Vật Chất và Vũ Trụ trong Chiêm Bao không có thật, chỉ là cái Bóng của Thân Tâm đang nằm ngủ mê trên giường biến chiếu ra và cái Thân Tâm này, Chúng Sanh trong Chiêm Bao không thể nhìn thấy mà chỉ thấy là Hư Không Rỗng Rang. Khi “Thức Dậy” tức là không còn Mê hay không ở trạng thái Động của cái Tâm Mê trong Chiêm Bao, mà ở trạng thái Tĩnh thì cái SẮC mất hay Vật Chất và Vũ Trụ trong Chiêm Bao mất, chỉ có cái “Thân Thật” ở trên giường đang “Thức Dậy”. Cái “Thân Thật” này giải mã cái Bí Mật mà chúng sanh trong Chiêm Bao không thể hiểu nổi. Nó biến hóa vô cùng: sơn hà, đại địa, mọi chúng sanh, cây cỏ, muông thú…cả ba ngàn thế giới Chiêm Bao, nó làm ngược rồi làm xuôi mà chúng sanh trong Chiêm Bao không hiểu không biết, nhìn thì chẳng thấy sờ thì không đụng, chỉ thấy Hư Không rỗng rang! Cái “Thân Thật” này vừa là Hư Không, Pháp Thân, Bát Nhã, Niết Bàn, Chân Lý tuyệt đối của Thế Giới Chiêm Bao, vừa là Thế Giới Nhất Chân: “Một là Tất Cả” hay cái Không vi diệu: “Không tức thị Sắc”… Đem Tấm Bản Đồ Mộng “Nhắm Mắt Chiêm Bao” này chồng lên Tấm Bản Đồ Mộng “Mở Mắt Chiêm Bao” của Chúng Sanh hiện tại thì sẽ khám phá ra cái Đạo Lý siêu việt “Sắc tức thị KHÔNG”, chẳng những “Thực Chứng” bằng giấc Chiêm Bao mà còn “Thực Chứng” bằng Khoa Học như đã luận giải ở phần trên ! Người đi tìm Đạo có thể dựa vào hai cái “Thực Chứng” này để có niềm tin vững chắc đạt tới “Chánh Tín” và hình dung ra phần nào cái “Thực Chứng” của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo:
“Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
Nghĩa là còn Mộng, còn Mê thì còn sáu ngã luân hồi, Giác rồi hay dứt Mộng hết Mê, Ngộ rồi hay đã Thức Dậy thì gặp cái KHÔNG, tức là Niết Bàn, Bát Nhã, Chân Như, Thực Tướng…Và khi đó ba ngàn thế giới cũng không có…Nghĩa là cái SẮC: từ nguyên tử Vật Chất cho đến Vũ Trụ đều “không có”, đạt đến cái Chân Lý tuyệt đối: “Sắc tức thị KHÔNG”.
Tóm lại còn Mê thì thấy Sắc, Ngộ rồi hay Thức Dậy thì Sắc mất trở về Không, trở về cái “Thân Thật” là Pháp Thân, là Thật Tướng là Niết Bàn, là Bát Nhã Chân Như…Cảm ơn Khoa Học và Nhà Bác Học Einstein đã phân tích tới cái tận cùng của Vật Chất là Sóng vi tế năng lượng cao và Năng Lượng có thể chuyển thành Khối Lượng Vật Chất và nhờ đó giải được cái Lý Sắc Không của Đức Phật Thích Ca. Nhưng Khoa Học dừng lại nơi cái Tướng Sóng hay cái Tướng Sắc mà không biết Sóng Vật Chất này cũng giống như Sóng Nước và như thế : Sóng trở về Nước cũng giống như Sắc trở về Không . Do đó Khoa Học không thể “nhảy qua đầu sào trăm trượng” của Thiền Sư Cảnh Sầm hay “cái cửa Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác để đạt tới cái Chân Lý rốt ráo và ngộ nhập với cái Chân Lý này. Tuy nhiên cũng nhờ Khoa Học mới biết được cái Đạo Lý tuyệt vời “Sắc tức thị Không” của Đức Phật Thích Ca cũng như những khai thị trợ duyên siêu việt của Tổ và Thiền Sư ngộ đạo. Tận đầu nguồn, vừa huốt khỏi cái Sắc, cái Sóng, cái máy động của Sự Vật trên hình tướng, tức là cái Vô Vi thì nhận ra được cái KHÔNG là Mẹ Đẻ ra tất cả mọi sự vật: từ nguyên tử vật chất cho tới cả vũ trụ. Như vậy đã quá rõ ràng với lời Kinh Bát Nhã:
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.
Và lời Kinh này xem như đã được chứng minh bằng Khoa Học! Tuy nhiên Khoa Học chưa thấy được điều này, vì Khoa Học còn chấp trên hình tướng, nên bị “kẹt” hay bị chướng ngại, vừa đụng tới cái Gốc của Sự Vật là cái Không thì Khoa Học lại quay đầu trở ra cái Ngọn, tức là Khoa Học vẫn còn bị điên đảo ở nơi cái Bóng Trăng!
Giới hạn của Khoa Học là chỉ khám phá ra được phần “Dụng” trên vật hữu hình, hữu tướng, tức là nhận ra được cái Hiện Tượng hay cái Bóng Trăng. Còn phần “Thể” trên cái Vô Tướng, phi Sự Vật, tức là cái Bản Thể hay Mặt Trăng thật thì chưa khám phá ra được. Đức Phật đã nhìn thấy được cái Chân Lý tuyệt đối: Sắc tức thị Không. Và cái Không này, chính là Bát Nhã, là Thật Tướng, là Bản Thể của Vũ Trụ và Vật Chất… là Căn Nhà xưa của mọi Chúng Sanh trong sáu ngã Luân Hồi, là Niết Bàn thường lạc ngã tịnh. Muốn Ngộ Nhập hay trở về Căn Nhà xưa thì phải có cái Tâm tương ưng, huốt cả đường Tâm đạt tới cái Tâm không là cái Tâm Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác, cái Tâm Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng hay cái Tâm Vô: Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi Tâm của Thiền Sư Đức Sơn… Cái Không là cái Chân Lý tuyệt vời của Vũ Trụ và Chúng Sanh là cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa mà Đức Phật với Trí Tuệ siêu việt khi đạt Chánh Đẳng Chánh Giác đã khám phá ra và chỉ đường rành rẽ cho Chúng Sanh với Tấm Bản Đồ Bát Nhã “Sắc tức thị Không” là Kim Chỉ Nam cho hành giả đi tìm Chân Lý Giải Thoát.(Click Xem tiếp Phần V-P.2)
Đức Phật trao Tấm Bản Đồ “Bát Nhã”; Thiền Sư Huyền Giác chỉ con đường tắt: “Tuyệt học Vô Vi” tức là cái “cửa Vô Vi”: ( Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn ) để trực tiếp nhảy thẳng vào đất Như Lai hay căn nhà Bát Nhã : ( Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa ) khỏi phải mất nhiều thời gian nhiều đời nhiều kiếp dò tìm như vào biển đếm cát, mà không đến nơi hay không tìm ra Đạo…Từ khi Đức Phật Thích Ca đạt Chánh Đẳng Chánh Giác, tìm được con đường GIải Thoát, có Đức Phật cung cấp Bản Đồ chính xác, có Thiền Sư Ngộ Đạo chỉ con đường tắt đến tận cửa vào mà các Ngài đã đi qua với những kinh nghiệm “Thực Chứng” vô cùng quý giá, tất cả chúng sanh từ đây được hưởng một ân huệ vô giá là có con đường Giải Thoát khỏi phiền não và sinh tử luân hồi! Tuy nhiên vì thế lực Vô Minh cõi Ta Bà rất nặng nề và chúng sanh với đủ mọi thứ Cộng Nghiệp, Biệt Nghiệp sâu dầy trong nhiều đời nhiều kiếp, trong khi Phật Pháp chưa ra đời hay đã ra đời rồi nhưng chưa đủ duyên, con người từ sự mông muội, ngu si đi đến mê tín, cuồng tín rồi dục vọng, tham vọng quyền lực… nhưng rồi cũng tự thấy bất lực trước cái chết, sợ thiên tai, địa ách, bệnh tật… cho nên đôi lúc cầu Thần Quyền hay “tự kỷ ám thị” bị loạn tâm loạn tưởng nằm mơ hay ảo giác tự cho là thấy Phật, thấy Thần, gặp mặt Thượng Đế… do Tâm Mê tạo tác để thỏa mãn cho cái Ngã cái Nghiệp hay tham vọng, dục vọng… lầm tưởng tự cho là Ngộ Đạo, là Sứ Giả của Thượng Đế, rồi tự xưng là Giáo Chủ của Một Tôn Giáo hay một Pháp Môn. Cũng có nhiều người thực tâm đi tìm Đạo, tự lập ra Pháp Môn tu tập, nhưng không tìm ra Đạo! Thời Đức Phật còn tại thế cách đây hơn 2500 năm, đã có tới những 96 mối Đạo, Tôn Giáo hay Pháp Môn như thế! Tuy nhiên, chỉ có duy nhất Đức Phật Thích Ca là tìm ra Đạo đạt Chánh Đảng Chánh Giác. Rất nhiều Sa Môn ngoại Đạo như Bà La Môn hay các Tôn Giáo khác lìa bỏ những Pháp Môn hay Tôn Giáo của mình, đi theo Phật và cũng đắc Đạo! Còn tất cả những mối Đạo kia, nếu không phải là những Tà Thần, Tà Pháp hay Tà Giáo có tính cách Hoang Tưởng Mê Tín hay Cuồng Tín… thì cũng chỉ là những Pháp Môn hay Tôn Giáo của những “Đức tin” mơ hồ, cạn cợt, hoặc sai lầm, chưa đạt được mục đích Giải Thoát! Từ đó cho đến ngày nay ( thế kỷ 21) có một số Tôn Giáo mới ra đời, tuy nhiên không có một Tôn Giáo nào có thể so sánh được với Đạo Phật về tính nhân bản, lòng nhân ái, không hận thù không hiếu sát, không mê tín cuồng tín, có lòng khoan dung hỉ xã, sự an lạc cho tất cả chúng sanh, không có Giáo Luật ràng buộc hay cột trói tín đồ, đem lại một mùa Xuân yên lành và miên viễn cho tất cả mọi chúng sanh từ loài người cho đến loài vật chim muông cây cỏ…. Một Đạo Phật Trí Tuệ siêu việt và lòng từ bi vô hạn, đạt Chân Lý Giải Thoát!
Tuy nhiên, vì Pháp Trần là ô nhiễm Tham Sân Si và Nghiệp Chướng Vô Minh, cho nên gặp được Phật Pháp không phải là dễ, gặp được Chánh Pháp lại càng khó hơn. Đối với chúng sanh chưa đủ duyên lành, Nghiệp Chướng Vô Minh quá nặng, dù có gặp Phật Pháp, nhưng chưa chắc đã hiểu rõ hay ứng dụng được Phật Pháp cho mục đích Giải Thoát! Kinh Phật hay Pháp Phật, nếu qua tay phàm phu thì chỉ là một mớ văn tự suông vô giá trị, qua tay người mang nặng Tà Kiến, Tà Tư Duy thì trở thành Tà Pháp, còn qua tay người có Đạo hay các Chư Tổ và Thiền Sư thì trở thành Bảo Pháp của Phật giúp người trừ được phiền não và có thể đạt đến bờ Giải Thoát. Do đó Pháp Phật không thể để cho kẻ phàm phu hay cho những người có tham vọng chính trị, quyền lực, danh vọng tiền tài vật chất hay tà kiến thế gian sử dụng hay diễn dịch tự ý theo cái Nghiệp hay cái Ngã Kiến, Sở Kiến sai lầm của mình. Phật từng nói: “Biết Ta mà không hiểu Ta, chỉ là hủy báng Ta!” .
Ở Trung Hoa thời Tam Quốc khi nhà Hán suy, giặc giã nổi lên như ong, ba anh em (Trương Lương, Trương Bảo, Trương Giác) lợi dụng thời cơ mượn một phần Phật Pháp pha trộn với những mê tín bùa chú, trị bệnh… để khuyến dụ dân chúng. Lúc đầu khá thành công trong tham vọng quyền lực, bắt đầu sự nghiệp với chiêu bài : lấy hình thức Tôn Giáo làm Chính Trị : “Thế Thiên Hành Đạo”, dựa vào sự mê tín của quần chúng, tập hợp được khoảng 100 vạn quân, sử gọi là giặc Khăn Vàng. Tuy nhiên về sau, Bùa Chú hay Phép Lạ không linh ứng, cả ba anh em đều bị Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi chém đầu, giặc Khăn Vàng tan rã.
Ngày nay, có một số nơi Phật Pháp bị “pha chế quá liều” với Thế Gian Pháp. Phật Pháp ở đây trở thành Pháp chết, trống rỗng nặng nề về hình thức, hoặc mê tín… Đôi khi mượn danh Phật, mượn Pháp Phật, mượn nhà chùa để kinh doanh thương mại, lừa gạt chúng sanh một cách tinh vi… Đức Phật có cảnh báo trước : thời Mạt Pháp, Ma Phật lẫn lộn rất khó phân biệt. Nhiều Vị nói Phật Pháp, giảng Phật Pháp rất hay, nhưng chưa chắc đã là chân tu ! Có một Vị Đại Đệ Tử hỏi : “khi Phật nhập diệt rồi thì lấy ai làm Thầy ? ”. Phật trả lời : “hãy lấy Giới Luật làm Thầy”. Đây quả là thước đo khá chính xác! Do đó, hễ thấy Vị nào phạm nhiều Giới Luật như sống xa xỉ tiền tài vật chất phí phạm của bá tánh, vẽ vời nhiều “Phật Sự”, nói láo hay vọng ngữ có tâm ngã mạn, hay nóng giận, tham danh lợi thế gian, sống chung đụng ăn ở chung với nữ giới nhiều ngày nhiều tháng hay nhiều năm, có quan hệ ái dục nam nữ dù tinh vi kín đáo hay lộ liễu… thì dù có thao thao giảng pháp hấp dẫn cách mấy cũng nên lánh xa !
Có Pháp Môn hay Tôn Giáo mượn một phần Phật Pháp rồi pha trộn một cách gượng ép với các Tôn Giáo Thần Quyền khác như Bà La Môn, Ki-Tô-Giáo… đặt Thượng Đế lên cao nhất, đem Phật xuống dưới thấp ngang hàng với các Vị Thần Bà La Môn, sửa lại Pháp Phật cho một số Vị Phật có nhiệm vụ riêng như luyện hồn chúng sanh sau khi chết để đưa đi đầu thai mà không phải là Nghiệp Lực… Phật Pháp ở đây không phải là Chánh Pháp !
Có Pháp Môn về hình thức thì giống Phật Giáo nhưng nội dung hoàn toàn phản Phật Giáo. Vị Pháp Chủ dùng cái chước là truyền Tâm Ấn để trói chặt tín đồ, dùng pháp “Quán Âm” khi nghe được âm thanh của Thượng Đế là Đắc Đạo. Tuy nhiên trong Kinh Kim Cang Phật nói: “Nhược dĩ Sắc kiến Ngã, Dĩ âm thanh cầu Ngã, Thị nhân hành Tà Đạo, bất năng kiến Như Lai?!”…
Có Pháp Môn lạm danh Thiền, “mượn” những “chiêu” Thiền thật đặc sắc của Phật, Tổ và Thiền Sư ngày xưa làm vốn liếng, do đó cảm hóa dễ dàng người mới học Đạo. Tuy nhiên sau đó lại báng Phật, bài Tổ, tự cho là ngộ Đạo rồi đem cái Nghiệp cái Ngã cái Sở Kiến sai lầm của mình vào thì trở nên lạc lõng vô vị. Học phương Tây về Thần Quyền rồi đem Thượng Đế Ki-Tô vào nhà Thiền, chế tác những pháp Thiền kỳ lạ quái gở, điển hình như “Thiền Động” (Dynamic Meditation), nghĩa là trước khi ngồi Thiền cả tập thể ca hát nhảy múa cực kỳ sôi động…
Thiền Sư Huyền Giác cũng than trách những ác tệ làm suy đồi Phật Pháp, làm hại chúng sanh trong thời đại Ngài, thì ngày nay những ác tệ cũng có thể làm cho Phật Pháp suy đồi:
“Ta ! Mạt Pháp, ác thời thế (Than ôi! Mạt Pháp, thời thế ác
Chúng sinh phước bạc nan điều chế. Chúng sinh phước mỏng khó điều phục
Khứ thánh viễn hề, tà kiến thâm Xa cách Hiền Thánh, tà kiến sâu
Ma cường, Pháp nhược đa oán hại”. Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều ác tệ).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Ma mạnh Pháp yếu dẫn dắt chúng sanh đi theo con đường Mê là do hành giả chưa đạt tới niềm tin Chánh Tín. Nghe hay đọc mà vội tin ngay thì dễ trở thành mê tín, tà tín rồi chấp vào sự mê tín, tà tín đó thành ra cuồng tín…Nếu chịu khó quán chiếu sâu sắc, suy xét, phân tích, truy tìm, học hỏi…như lời Đức Phật dặn dò: “phải thử nó như thử vàng”…thì mọi việc trắng đen sẽ hiển bày, nhận diện được chánh tà và khi đó có niềm tin Chánh Tín bắt đầu tu tập (Văn, Tư, Tu) thì mới không bị lầm lạc. Đức Phật có dặn dò rất kỹ dù là Kinh Sách ngày xưa để lại ,hay lời nói của một Vị Giáo Chủ nổi tiếng, Truyền Thống lâu đời để lại…cũng đừng tin, mà phải suy xét, so sánh, phân tích cho thật kỹ nếu thấy đúng, hợp lý,có giá trị, có lợi ích thì mới tin. Từ đó “khám phá” ra được nhiều điều tưởng rằng linh thiêng, là pháp mầu là phép lạ… rốt cuộc cũng chỉ là trí tuệ vụn vặt, cạn cợt hoặc sai lầm của phàm phu. Cũng từ đó, giúp cho hành giả đi tìm Chân Lý Giải Thoát khỏi bị lầm lạc : nhận Ma làm Phật, Phàm Tăng cho là Thánh Tăng, Tà Giáo cho là Chánh Giáo, Tà Pháp cho là Chánh Pháp…
Điều chắc chắn mà không sợ bị lầm là cứ theo “Dấu Chân” của Phật của Tổ mà đi, vì các Ngài đã “Chứng Đạo” ; dựa vào Tấm Bản Đồ mà Phật đã trao từ Ngài Ca Diếp truyền qua 28 đời Tổ Sư cho tới Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Sư Huyền Giác…tất cả đều nhờ Tấm Bản Đồ này mà Chứng Ngộ với Trí Tuệ Bát Nhã siêu việt thì hậu sinh có thể dùng Tấm Bản Đồ này mà không sợ bị lạc đường, cộng thêm với những Bí Quyết hay kinh nghiệm Chứng Đạo của các Ngài chỉ thẳng Cửa Vào thì con đường đi tìm Chân Lý Giải Thoát không còn xa vời như các Ngài đã khuyên bảo và khai thị…Còn đối với Pháp Môn mới lạ, của người đời nay, sau khi phân tích tận đầu nguồn thì rõ ràng chỉ là trí phàm phu cạn cợt, có cái rất sai lầm và ác tệ…không phải của người Chứng Đạo…
Cuối cùng “trí phàm phu không thể nào sánh được với Trí Bát Nhã của Chư Phật”. Rốt ráo lại hầu hết những Pháp Môn “hiện đại” ngày nay đều không có giá trị Tâm Linh, Chứng Ngộ hay Giải Thoát siêu việt như của Phật, Tổ và Thiền Sư ngày xưa! Vậy thì tại sao người đi tìm Đạo ngày nay không theo dấu chân của Phật, của Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo ngày xưa, lại chạy theo “thời trang” chỉ có lớp sơn bên ngoài là đẹp, bên trong thì cạn cợt, lắm lúc sai lầm một cách đáng thương ! Ngày xưa cũng có những hiện tượng Phật Pháp suy đồi, nhưng nhờ có Thiền Sư Ngộ Đạo ra đời chỉ đường dẫn lối, nên Tà Pháp không thắng nổi Chánh Pháp:
“Bờ bên kia có Đức Sơn hiền Thánh
Bao sớ Kinh một gánh đốt thành than
Răng như gươm, miệng phun máu ngang tàng
Dẹp ô nhiễm lan tràn nơi Cửa Phật”.
Thiền Sư Đức Sơn, thông suốt nhiều Kinh Tạng, nhất là Kinh Kim Cang còn có biệt danh là Chu Kim Cang. Ngài gánh nhiều Kinh Sớ đi lùng sục hang ổ của cái “đám Ma Vương” Thiền Tông phương Nam. Người ta tu rất nhiều kiếp còn chưa Ngộ, mà cái “bọn” này dám nói “Tu nhất kiếp, Ngộ nhất thời”, phải lấy Kinh Sớ ra chứng minh cho “bọn” này biết tay, để đền ơn Phật. Tuy nhiên sau khi Đại Ngộ với sự khai thị của Thiền Sư Sùng Tín, bị đánh cho một gậy, không ngó lại, đi thẳng lên đỉnh núi cao cất am tranh, răng như rừng gươm, miệng như chậu máu, quở Phật mắng Tổ, truyền cái Đạo của Ngài Sùng Tín. Quở Phật mắng Tổ: Ý nói khi đã Ngộ, thấy được cái thấy của Phật của Tổ, vì quá kính Phật trọng Tổ mà phải dùng “lời nghịch” để diễn tả. Răng như rừng gươm, miệng như chậu máu: Ngài mắng các vị “Phàm Tăng”, không chịu lo tu để Ngộ Đạo cứu khổ chúng sinh ….Pháp của Ngài sắc bén, thủ thuật kỳ đặc mạnh mẽ. Khi “Mưa Pháp” thì “răng như rừng gươm, miệng như chậu máu” chém đứt Vô Minh, rũ sạch Tà Kiến, tận diệt Ngã Chấp…dễ đưa người tới chỗ Ngộ Đạo.
Tóm lại, LÊN ĐƯỜNG đi tìm ĐẠO GIẢI THOÁT cứ nắm vững Tấm Bản Đồ của Phật, Tổ hay Thiền Sư ngộ Đạo ngày xưa mà đi thẳng, không nên ghé vào “Bến Bãi” của Pháp Trần hay của Ngoại Đạo mà lạc mất phương hướng !
*Trong tất cả Pháp Môn, Thiền Tông đặt Trí Tuệ lên hàng đầu, nhưng lại bị mang tiếng là thời Mạt Pháp khó tu, rất ít hoặc không có người thành Đạo! Ngày xưa Phật Thích Ca “chủ động” đi tìm Chân Lý và đạt được Chân Lý. Các Tổ và Thiền Sư nhờ có Đức Phật đi trước dẫn đường, noi gương Phật, học theo Phật, chủ động đi tìm Chân Lý và cũng đạt được Giác Ngộ Giải Thoát y như Phật. Đức Phật nhiều lần căn dặn : “Các ngươi hãy tự đốt đuốc lên mà đi và đi với Chánh Pháp”! Đức Phật Thích Ca tu Thiền mà thành Đạo, thuyết Pháp nhiều Kinh Điển siêu việt, trực tiếp cứu khổ chúng sanh cõi Ta Bà. Nhưng hầu như chúng sanh ngày nay thích cúng lạy tế lễ và cầu xin nhiều hơn là theo dấu chân Đức Phật Thích Ca trên con đường Giải Thoát ! Phật Thích Ca chứng Đạo không phải nhờ cúng lạy và cầu xin mà tự thân tìm Đạo bằng Trí Tuệ. Không phải bác bỏ hoàn toàn việc cúng lạy và cầu xin, nhưng nếu chỉ biết cúng lạy và cầu xin suông thì dù là Thiền Tông, Tịnh Độ hay Mật Tông, Tiểu Thừa hay Đại Thừa… cũng không thể nào đạt được mục đích Giải Thoát như Đức Phật. Đi theo con đường của Phật Thích Ca hay Phật A-Di-Đà… con đường nào cũng là Đạo, vì Phật nào thì cũng là Phật ! Miễn là đừng mê tín và biết dùng Chánh Pháp của Phật mà tự độ và độ chúng sanh, không chen lẫn quá nhiều Pháp Thế Gian để rồi Chánh Pháp bị lu mờ. Phật là bình đẳng, không phân biệt, Pháp Môn nào cũng được, nhưng phải sáng suốt và có lý trí phán đoán. Không có thể nói, vì hợp với “căn cơ” vừa với sức mình, mà nhắm mắt đi theo Ngoại Đạo, Tà Đạo hay một Pháp Môn nào đó; trong khi cái gọi là “căn cơ” chưa chắc là “căn cơ” mà có thể chỉ là cái Nghiệp Chướng, cái sở thích hoặc cái hiểu biết yếu kém, cạn cợt hoặc sai lầm của mình, nhưng cố chấp thành định kiến rồi thành Mê Tín hay Cuồng Tín! Ngày nay, Pháp Môn Tịnh Độ với niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà có vẻ khá thịnh hành. Tuy nhiên, nếu chỉ biết cúng lạy và niệm Phật suông thì dễ đi đến chỗ mê tín. Còn hiểu sâu về Phật A-Di-Đà, công phu bằng trí tuệ Phật nơi Tự Tâm thì Pháp Môn niệm Phật cũng đạt kết quả Giải Thoát chẳng khác Thiền Tông… Niệm Phật có thể chia ra ba cấp từ thấp tới cao: niệm Phật để cầu xin, niệm Phật nhất tâm bất loạn và niệm Phật trong Vô Niệm Vô Tướng.
1-Pháp Môn Tịnh Độ độ cho “Người Chết”:
- Niệm Phật cầu xin được Vãng Sanh.
Theo Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông, Pháp Môn Tịnh Độ cầu Vãng Sanh về Cõi Tây Phương Cực Lạc để cứu chúng sanh, rước chúng sanh về một nơi an toàn, không còn luân hồi, để tiếp tục cuộc hành trình tu tập. Gọi là Cực Lạc vì thế giới đó không còn khổ, tu không thối chuyển, có sông suối, chim ca, gió hú, có 7 báu toàn là lưu ly, bách ngọc, mã não, sa cừ…cảnh đẹp vô cùng vô tận, nhất là không có sinh tử, tiếp tục tu cho đến Cửu Phẩm Liên Hoa đạt đến Niết Bàn rốt ráo…Được Vãng Sanh về Cõi Tây Phương Cực Lạc thì không còn bị ám ảnh bởi cái chết nữa, bởi vì cái chết thật là đáng sợ đối với hầu hết chúng sanh nhất là bị lôi cuốn trong vòng luân hồi dài vô tận, không có lối thoát, nếu Nghiệp Chướng nặng thì bị đầu thai vào ba đường ác là Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh không biết làm sao thoát ra được, thì thật là khủng khiếp càng đáng sợ hơn!
Cũng theo Kinh Điển Hán Tạng, khi còn ở cõi Ta Bà chỉ cần tu theo Tịnh Độ, niệm Lục Tự Di Đà là: “Nam Mô A-Di-Đà-Phật” là được cứu độ. Theo lời phát nguyện của Phật A-Di-Đà chỉ cần niệm hồng danh Ngài có 10 tiếng trước khi chết thì được Phật độ về Cõi Cực Lạc tức được Vãng Sanh. Thật ra khi còn sống hay trước khi lâm chung người ta đã niệm hàng trăm thậm chí hàng ngàn lần, ngoài ra còn được các Chư Tăng hay cả một ban hộ niệm trợ duyên trước khi, trong khi và sau khi lâm chung… Rồi trong vòng thời gian 49 ngày (7 thất) còn được cúng thất, niệm Phật, đọc Kinh và cuối cùng là cúng 100 ngày. Ngoài ra còn cúng trai tăng, cúng sám hối cho vong linh, phóng sinh làm phước…Tất cả đều thật chu đáo… thì niềm tin được Vãng Sanh về Cõi Cực Lạc rất lớn. Trong khi Thiền Tông thì không có cúng lạy, cúng vong, niệm hay hộ niệm nhiều như thế… Như vậy xem ra Thiền Tông không có độ cho người chết!
Tỳ Kheo Pháp Tạng (tức Phật A-Di-Đà sau này) vì lòng Từ Bi rộng lớn muốn độ hết thảy chúng sanh nên có 48 lời nguyện trong đó lời phát nguyện thứ 11 nói rằng: “Một hành giả nào chỉ niệm 10 niệm danh hiệu Ta mà không Vãng Sanh Tây Phương thì ta nguyện sẽ không thành Phật”. Và rồi Tỳ Kheo Pháp Tạng đã thành Phật và danh hiệu Ngài là A-Di-Đà. Dựa vào sự kiện này mà có một số Vị Pháp Sư Tịnh Độ tin tưởng rằng vì Phật không bao giờ nói dối, các Vị nhấn mạnh đến tha lực của Phật và hiểu rằng tha lực của Phật là vô tận, là Thượng Đế muốn làm gì cũng được cầu xin là cho ngay và lời phát nguyện thứ 11 kia phải là sự thật. Do đó các vị Pháp Sư và Phật Tử tin chắc vào điều này nên Pháp Môn niệm Phật vãng sanh càng ngày càng rầm rộ! Vì tu theo Tịnh Độ thì quá dễ, chỉ cần niệm Phật 10 niệm là được về Tây Phương, trong khi có nhiều người đã niệm Phật gấp trăm gấp ngàn lần như thế và còn đang tiếp tục niệm Phật; do đó có những Vị Pháp Sư mạnh dạn tuyên bố theo Tịnh Độ 100% là được Vãng Sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A-Di-Đà, mang cả Nghiệp Chướng về cõi đó tu tiếp cho đến Cửu Phẩm Liên Hoa đắc Đạo, dễ hơn Thiền Tông rất nhiều.
Tuy nhiên, dựa vào câu nói của Đức Phật Thích Ca: “Đừng tin những gì do Kinh Sách từ xưa để lại… mà phải suy xét, phân tích cho thật kỹ…” cho nên có nhiều người phản biện về sự việc trên và cho rằng Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông, có nhiều sửa đổi hoặc diễn dịch sai lệch, không có tính cách chính thống như kinh điển Pali của Phật Giáo Nam Tông ?! Hoặc cũng có thể lời phát nguyện đó, còn nhiều“ ẩn dụ” sâu kín, cần phải được tìm hiểu, phân tích hoặc đánh giá thêm… Có người luận giải : 48 lời phát nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng chỉ là NHÂN. Vì lòng Từ Bi rộng lớn mà Vị Tỳ Kheo này phát nguyện để cứu chúng sanh. Nhưng ! Lời hứa là lời hứa còn Chân Lý hay Thực Tại thì vẫn là Chân Lý hay Thực Tại. Khi đắc Đạo trở thành Phật A-Di-Đà đạt Quả Vị Phật thì lại khác, phải trở về Thực Tại hay Chân Lý trong đó Luật Nhân Quả phải được tôn trọng đối với chúng sanh chưa chứng ngộ Vãng Sanh, còn mang đầy Nghiệp Chướng và Tham Sân Si! Lầm lẫn cho NHÂN Vị cũng là QUẢ Vị, thì không đúng với Thực Tế hay Chân Lý! Trong một Pháp hội, Đức Phật bảo mọi người hãy nặn sữa từ chiếc sừng của một con bò, hoặc nấu cơm từ cát… Kết quả: không ai có thể làm được việc này kể cả Đức Phật. Bởi vì phải theo đúng luật nhân quả. Sừng không có chứa sẵn sữa nên không có thể nặn ra sữa; còn cát là cát, cơm là cơm,trong cát không có cơm nên không thể nấu ra cơm! Thuở xưa có một vị Tăng hiểu lầm Nhân Quả rồi dạy cho chúng sanh cũng hiểu lầm và mê theo mình mà phải bị đọa làm 500 kiếp chồn, sau nhờ Thiền Sư Bá Trượng khai thị giải tỏa cho sự mê lầm “bất muội nhân quả” mà trở lại kiếp người, tiếp tục cuộc đời tu. Nói theo Pháp Thế Gian là “chí công vô tư” hay “Luật Nước” khác với “Lệ Nhà”. Còn nói theo Phật Pháp là cái thấy của Tỳ Kheo Pháp Tạng lúc “chưa chứng Đạo” khác với cái thấy của Tỳ Kheo Pháp Tạng “đã chứng Đạo” trở thành Phật A Di Đà! Chuyện thành Phật là do công đức tu tập riêng hay cái khả năng riêng của Ngài, Ngài có từ chối cũng không được. Bởi vì một khi có đủ công đức đạt Quả Vị Phật, dù có từ chối thì cũng là Phật; còn chuyện lời hứa hay lời phát nguyện của Ngài để cứu chúng sanh là một vấn đề khác. Dù thành Phật, Ngài không thể sửa đổi được Chân Lý hay Luật Nhân Quả!
“Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không (Ngộ rồi nghiệp chướng hóa thành không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái” Chưa ngộ, nợ xưa đành trang trải).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A-Di-Đà là do Tâm của Ngài với 48 lời nguyền mà hiện ra thành lập một Quốc Độ hay một Cõi Nước riêng của Phật A-Di-Đà. Nhưng muốn đến Cõi Nước đó cần phải có giấy phép “xuất cảnh” ở cõi Ta Bà, đó là luật Nhân Quả, phải hoàn tất hết mọi thủ tục “thuế quan” và hợp pháp! Thiền Tông khi chứng ngộ phải đạt đến Tâm Không hay Vô Tâm, Phật Tánh hiển bày, không còn Nghiệp Chướng Tham Sân Si, vì đã chuyển Nghiệp thành ba món Giải Thoát, tức là đã hoàn tất hết mọi thủ tục “thuế quan” và hợp pháp, có giấy phép “xuất cảnh” ở cõi Ta Bà để ‘‘nhập cảnh” vào cõi Niết Bàn! Đạt đến Tâm Không hay Vô Tâm, ngộ nhập Thể Tánh thì không còn Nghiệp, không còn Nhân Quả. A-Lại-Da-Thức (thức thứ tám) đã chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, ngộ nhập Bát Nhã; vì là Tâm Không, không còn Nghiệp nên không có “Bảy Sóng” (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức và Mạt-Na-Thức) trong Bát Thức nổi lên hiện hành trong Tâm, nên không có Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi… Trong khi đó, niệm Phật cầu Vãng Sanh, tuy tạm thời Tâm được an, nhưng Nghiệp Chướng vẫn còn nguyên : chưa chuyển được Nghiệp, Tham Sân Si vẫn còn nguyên : chưa chuyển thành ba món Giải Thoát. Cho nên tuy hình thức bên ngoài là Tâm an, nhưng thực chất bên trong Tâm vẫn động: “Bảy Sóng” vẫn luôn vận hành tạo Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi. Chỉ khi đạt được “Nhất Tâm Bất Loạn”, mặc dù còn Nghiệp, nhưng “Bảy Sóng” trong Tâm bị kềm chặt không thể nổi lên hiện hành thành Sóng Nghiệp hay Gió Nghiệp. Khi đó, tất cả Nghiệp Chủng đều bị trói chặt nằm im “vô tác” bất động như vật chết nên không còn mang năng lực tạo tác… Do đó thoát được luật Nhân Quả, có giấy phép “xuất cảnh” qua được cửa ải cõi Ta Bà, từ đây được đón rước dễ dàng vào Quốc Độ của Phật A-Di-Đà… Đạt được “Nhất Tâm Bất Loạn” như thế là tự “chứng ngộ” Vãng Sanh!
Tuy nhiên, niệm Phật đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn trong lúc lâm chung không phải là chuyện dễ vì đủ thứ tạp niệm nổi lên hiện hành như thân thể đau nhức, mệt mỏi, tai ù, mắt mờ, miệng đắng, mê sảng, sợ sệt, trí lảng, không còn sáng suốt... Hơn nữa, nghiệp chủng vi tế nhiều đời nhiều kiếp trong thức A-Lại-Da nổi lên gây sóng gió bão tố, bị vô số “chủ nợ” bao vây tứ phía khó chạy thoát... khiến cho những câu niệm Phật yếu ớt không trấn áp nổi những cơn lốc xoáy dữ dội của Nghiệp Lực và Vô Minh! Do sáu căn không thanh tịnh nên rất khó tập trung để niệm Phật. Có người cho rằng mặc dù vậy, chỉ cần niệm cuối cùng cầu Vãng Sanh trong giây phút Cận Tử thì cũng được Vãng Sanh Cực Lạc, bởi vì niệm không thể trùng với nhau được. Nếu niệm cuối cầu Vãng Sanh trong giây phút Cận Tử hiện hành thì tạp niệm không thể chen vào nên được Vãng Sanh, vì niệm cuối lúc Cận Tử rất quan trọng trong việc đầu thai vào kiếp khác... Nếu Phật A-Di-Đà làm được điều này để rước chúng sanh về cõi Cực Lạc, thì Phật Thích Ca cũng có thể làm được vì cùng là Phật. Do đó tất cả những người tu Thiền chỉ cần niệm cuối trong lúc Cận Tử cầu Phật Thích Ca cũng đều về được Niết Bàn ! Điều này rất khó, Thiền Tông không tin như vậy, mà phải dựa vào sự “chứng ngộ” nơi Bản Tâm. Thiền Sư Huyền Giác nói: “Ra công cầu Phật mấy thuở thành?! ”. Tịnh Độ cũng có câu : “Bất dĩ thiểu thiện căn phước nhân duyên đắc sanh Bỉ Quốc”. Nghĩa là không thể lấy phước báu ít, căn lành ít, nhân duyên ít mà có thể Vãng Sanh Tây Phương được !
Ngoại trừ sự “chứng ngộ” Vãng Sanh đạt quả vị Thánh như các Bậc A-La-hán, ngay khi còn sống đã biết chắc rằng mình sẽ về cõi Tịnh Độ, còn hầu hết chúng sanh đều không thể biết được điều này, chỉ “tin để mà tin” để được an tâm. Cũng có nhiều người đưa ra những bằng chứng Vãng Sanh, nhưng rất mù mờ, không có tính cách thuyết phục, có khi nặng nề về mê tín nhiều hơn… Cho nên có những người phản biện việc xác định niệm Phật 100% được Vãng Sanh và luận giải rằng: Đức Phật từng nói “hãy đến để mà thấy” tức là đến để mà thấy cái Thực Tại Chân Lý hiện bày bằng Thực Chứng, không phải chỉ ‘‘đến để mà tin’’. Chân Lý giống như một Lâu Đài cổ nguy nga tráng lệ có tự đời nào không biết và cũng không biết do ai làm ra. Trên đường đi tìm Chân Lý bỗng nhiên Đức Phật tìm thấy nó xuất hiện giữa khu rừng hoang dầy đặc cây cối che khuất. Sau khi định vị Lâu Đài, Đức Phật trở về chỉ đường cho chúng sanh đến để thấy Lâu Đài đó. Lâu Đài này không phải do Đức Phật làm ra, Đức Phật chỉ là người “khám phá” ra nó. Mọi giá trị như đồ dùng, cây cảnh, nghệ thuật điêu khắc có trong Lâu Đài đều tự nó là như vậy như luật Nhân Quả, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo… là Chân Lý tuyệt đối có tự nhiên trong Lâu Đài Bát Nhã mà Đức Phật không thể sửa đổi được nó. Đối với Phật A Di Đà cũng vậy, Ngài chỉ là người khám phá ra Lâu Đài cổ đó; mọi thứ đã có sẵn trong Lâu Đài, Ngài không thể sửa đổi được ! Ngài cũng không thể vì lời phát nguyện kia không độ được hết thảy chúng sanh về Cõi Nước của Ngài mà không làm Phật, bởi vì “Chân Lý là như vậy”! Điều này hoàn toàn khác hẳn với cái gọi là “hãy đến để mà tin” , tức là chỉ có niềm tin suông mà không thấy không biết và đây là đa số truyền thống bản chất của các Đức Tin Thần Quyền của Ngoại Đạo, nó giống như “chiếc bánh ở trên bầu trời” (the pie-in-the-sky) người ta không thể nhìn thấy nó, không nếm được mùi vị của nó, không thể ăn được nó, chỉ “tin để mà tin” là có nó mà thôi ! Có nhiều người trước khi lâm chung thấy Phật A-Di-Đà hiện ra với nhiều Vị Bộ Tát đến đón… mọi người cho đây là bắng chứng Vãng Sanh Cực Lạc ?! Thật ra đây chỉ là ảo giác hay vọng tưởng, do nhân duyên niệm Phật, lòng ham muốn hay “tự kỷ ám thị” mà Tâm hiện ra Phật. Đại Sư Tăng Triệu có giải thích rõ điều này trong Bửu Tạng Luận. Thiền Sinh ngồi Thiền cũng nhiều lúc thấy Phật hay Tổ hiện ra cũng cho đó là vọng tưởng nên có câu : “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ” ! Thật ra Phật A-Di-Đà không nói dối ; tuy nhiên những lời phát nguyện của Ngài lúc “chưa chứng đạo” có giới hạn là không thể sửa đổi được luật Nhân Quả một khi đã thành đạo; cho nên không thể độ hết tất cả chúng sanh còn mang đầy Nghiệp Chướng Tham Sân Si về cõi Nước của Ngài.
- Ở đây không bàn đến đúng sai, tính xác thực hay không xác thực của luận giải phản biện ở trên và cũng không bàn đến đúng sai, về vấn đề niệm Phật A-Di-Đà có được Vãng Sanh 100% hay không, mà chỉ bàn về phần Công Đức nơi Tự Thân. Là Phật Con thì phải biết dùng trí tuệ phán đoán, phân tích thật kỹ Phật Pháp rồi mới dụng công tu hành, diệt tham sân si và ngã chấp nơi Tự Thân … Không nên ỷ lại mà phó thác hết mọi chuyện cho Phật mà mình thì không làm gì cả, chỉ cốt là “cầu xin” và chỉ “tin để mà tin” để được an tâm như một vị thuốc an thần để rồi tự lừa gạt chính mình ! Ỷ lại vào “phước đức” nhiều như Lương Võ Đế, tạo dựng hàng ngàn ngôi chùa, nuôi hàng ngàn chư tăng,…mà không tạo được một chút nhỏ “công đức” nào nơi tự thân bằng cách dùng trí tuệ chuyển đổi tâm thức diệt tham sân si và ngã chấp thành ba món giải thoát… nên cũng chỉ là uổng công suông !
“Giác tức liễu, bất thi công, (Biết là xong tất chẳng cần công,
Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng. Thảy thảy hữu vi pháp chẳng đồng.
Trụ tướng bố thí sanh thiên phước, Của cho trụ tướng phước trời hưởng,
Do như ngưỡng tiễn xạ hư không. Ví như tên bắn nhắm hư không.
Thế lực tận, tiễn hoàn trụy, Ðà bắn hết mũi tên rơi,
Chiêu đắc lai sanh bất như ý”. Kiếp sau hận cũ lại bời bời).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Tạo phước đức nhiều cũng là điều tốt, nhưng cái chính yếu là công đức nơi tự thân mới có thể chuyển đổi được Nghiệp cũ. “Của cho trụ tướng phước trời hưởng” . Người đã tạo phước nhiều ở kiếp này hay nhiều kiếp trước thì giống như được hưởng phước trời. Tuy nhiên, như tên bắn lên hư không, hết đà lại rơi xuống, tức là hưởng hết phước rồi lại tới tai họa ! “Kiếp sau hận cũ lại bời bời ”. Chỉ có công đức của mình nơi tự thân thì mới chuyển được Nghiệp : “Lục thất nhân trung chuyển, ngũ bát quả thượng viên”. Tức là thức thứ sáu (Y’ Thức hiên hệ tới trí tuệ) và thức thứ bảy (Mạt Na Thức liên hệ tới ngã chấp) là nhân chuyển, thì ngũ thức (nhân, nhĩ, tỉ, thiệt, thân) và bát thức ( A-Lại-Da) chuyển theo là Quả.
Niệm Phật để cầu xin dành cho những người yếu đuối cạn cợt, gặp nguy hiểm hay giây phút sắp lâm chung, vì sợ chết mà phải niệm Phật để cầu xin, nhưng thường ngày chỉ biết chạy theo Pháp Trần với đủ thứ tham sân si... Niệm Phật trong trường hợp này chỉ dựa niềm tin vào tha lực tức là sự cứu độ của Phật để được an tâm trong cuộc sống đầy bất trắc : sinh lão bệnh tử ; còn thật sự có được Vãng Sanh hay không là chuyện khác. Cũng khi đó, niệm hay hộ niệm có lợi ích là vào phút lâm chung để kiềm chế những Chủng Nghiệp ác trong A-Lại-Da Thức không trỗi dậy, mà bình Tâm với những Nghiệp thiện hay Ý Niệm thiện lành trong giây phút “Cận Tử” để được sanh về các cõi lành : Nhân, Thiên hoặc A-Tu-La, tiếp tục luân hồi, chưa hẳn là Vãng Sanh. Điều này Ngoại Đạo cũng có thể làm được vì có rất nhiều người Ngoại Đạo thường làm việc Thiện, không làm điều ác, hoặc ngay cả người thế gian không có Đạo cũng làm được… khi chết họ đi từ Chỗ Sáng về Cõi Sáng… Niệm hay hộ niệm cho người Ngoại Đạo còn tùy theo duyên cơ nếu người ấy không tin Vãng Sanh hay không tin Phật A-Di-Đà mà niệm Phật ồn ào gây loạn Tâm hay Tâm sân vào phút lâm chung thì thật là tai hại! Còn “hộ niệm” trong trường hợp Tâm - Tâm tương ứng thì lại khác và điều này liên quan tới “Thiền” mà không phải là “Tịnh”. Chẳng hạn như thời Đức Phật còn tại thế, Mục Kiền Liên là một trong 10 Đại Đệ Tử của Đức Phật, ngồi Thiền và “nhập định” thấy Mẹ đang bị cực hình trong Địa Ngục A-Tỳ chịu nhiều đau đớn không cầm lòng được nên Ngài hỏi Phật làm cách nào để cứu Mẹ. Đức Phật chỉ cách nhờ thần lực của đông đảo Chư Tăng và của chính Ngài là người thân hộ niệm cho Mẹ. Hộ niệm ở đây không phải là niệm Phật hay đọc Kinh A-Di-Đà mà dùng “thiền định” để hộ niệm bằng cách Tâm truyền Tâm. Tâm của Ngài Mục Kiền Liên là chính, dễ tương ưng với Tâm của người Mẹ vì có cùng một thân. Tâm của đông đảo Chư Tăng và Tâm của Ngài Mục Kiền Liên trong “thiền định” có oai lực cảm ứng dung thông tác động đến Tâm của người Mẹ ở Cõi Địa Ngục làm cho Bà Mẹ nhìn thấy Con đang khóc lóc đau đớn khuyên can thương xót và cùng Chư Tăng hồi hướng cho Bà. Một lòng vì thương Con nhớ Con, một lòng vì cảm kích trước lòng Từ Bi của đông đảo Chư Tăng làm cho Tâm Bà chuyển hướng, hối hận, ăn năn, sám hối, buông xả, không còn lòng thù hận căm ghét, mà hướng tới Phật cầu giải thoát. Do Tâm chuyển (Lục thất nhân trung chuyển, ngũ bát quả thượng viên), bức màn Vô Minh và Nghiệp Chướng rơi rớt. trong giây phút hồi tâm với lòng thành thật sám hối, trực nhận cái Đạo Lý Buông Xả để Giải Thoát mà đột biến Bà được chuyển kiếp ngay trong một sát na về Cõi Trời. Tuy nhiên Bà vẫn không được Vãng Sanh Cực Lạc Quốc. Lên Cõi Trời là do Tâm chuyển, Nghiệp nặng rơi rớt, nhưng Nghiệp nhẹ vẫn còn, nên vẫn phải bị luân hồi trừ phi có duyên với Phật Pháp và chứng ngộ để đạt Vô Sanh Niết Bàn như Ngải Mục Kiền Liên !
2-Pháp Môn Tịnh Độ độ cho “Người Sống”:
- Niệm Phật nhất tâm bất loạn.
Theo Kinh điển Pali của Phật Giáo Nam Tông và theo các chú sở A-Tỳ-Đàm có tất cả 5 cõi Tịnh Độ, nằm trong 16 cõi Phạm Thiên hữu sắc, là chỗ tái sinh của các bậc Thanh Văn Bất Lai. Những cõi ấy chỉ toàn là các vị Bất Lai và La Hán. Năm cõi Tịnh Độ này vẫn là cõi hữu sắc, có những lâu đài, hoa viên rất nghiêm trang… là dấu vết tối thiểu còn sót lại của cõi ngũ uẩn. Cõi thấp nhất là Vô Phiền (Aviha) có thọ mạng 1000 đại kiếp, cõi Vô Nhiệt (Atappa) 2000 đại kiếp, cõi Thiện Hiện (Sudassa) 4000 đại kiếp, cõi Thiện Kiến (Sudassi) 8000 đại kiếp, và cõi Sắc Cứu Cánh (Akanittha) có thọ mạng 16000 đại kiếp. Năm cõi Tịnh Độ này dành cho các vị đã chứng quả Thánh như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
Vãng Sanh vào các cõi Tịnh Độ này là cả một quá trình tu chứng công phu lâu dài: tạo thật nhiều phước đức công đức, nhiều căn lành diệt tham sân si chuyển hóa Tâm Thức như quả vị Thánh, quán tưởng sâu sắc bản chất Cõi Tịnh Độ. Điều tối quan trọng là Phải “Nhất Tâm Bất Loạn”: Niệm Phật cho đến Nhất Tâm Bất Loạn. Hoặc thực thi Bát Chánh Đạo và phải đạt tới Nhất Tâm là Chánh Định. Bất Loạn là giữ được Chánh Định như thế xuyên suốt thời gian ngồi Thiền, tụng Kinh, niệm Phật, ăn cơm, đi đứng nằm ngồi …
Niệm Phật ở đây không còn là cầu xin nữa mà là niệm nơi Tự Tâm cho đến ‘‘Nhất Tâm Bất Loạn’’ là tự chứng Vãng Sanh đạt được quả vị Thánh. Tuy vẫn còn nhiều Nghiệp Chướng (trần sa hoặc) nhưng vì Tâm Bất Loạn, các Nghiệp này bị trói chặt, nằm im bất động, không còn năng lực tạo tác, nên vượt qua được vòng Nghiệp Chướng Nhân Quả, cắt đứt luân hồi được về cõi Tây Phương Cực Lạc hay Tịnh Độ của các bậc Thanh Văn Bất Lai…Tự Tâm cũng chính là Bát Thức ở tận đầu nguồn Tâm. Thức Thứ Tám hay A-Lại-Da-Thức cũng gọi là Tàng Thức vì nó ‘‘tàng trữ’’ vô số Nghiệp Chủng từ nhiều đời nhiều kiếp, là cái Vực Thẳm sâu kín chứa đủ thứ Nghiệp Chủng dưới sạng Sóng Nghiệp (Bảy Sóng : Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức và Mạt-Na-Thức) . Niệm Phật cho đến ‘‘Nhất Tâm Bất Loạn’’, tuy còn Nghiệp, còn Tâm chưa đạt tới Vô Tâm để thấy Tánh, nhưng Bảy Sóng bị trói chặt nằm im bất động, nên Nghiệp Lực không thể trỗi dậy hiện hành trong A-Lại-Da-Thức, cho nên không thể tạo thành Gió Nghiệp thổi vào biển Luân Hồi, thoát được vòng Nghiệp Quả, được vào các cõi Tịnh Độ…
- Ở đây cũng không phân biệt Kinh Điển Hán Tạng của Phật Giáo Bắc Tông hay Kinh Điển Pali của Nam Tông, cái nào đúng cái nào sai, mà chỉ dựa vào lời khuyên của Đức Phật: “Y Kinh mà hiểu nghĩa thì oan cho ba đời Chư Phật’’. Cho nên khi xem Kinh không thể chấp vào văn tự suông mà phải suy xét, phân tích, truy cứu thật kỹ theo chiều sâu với ý nghĩa toàn diện đen trắng hay những ẩn dụ sâu kín mà Đức Phật muốn gởi gắm và phải có cái nhìn tổng thể hơn là cục bộ. Do đó, khi đi sâu vào ý nghĩa thâm áo trong lời phát nguyện, mới khám phá ra những điều vi diệu ngay trên cái danh hiệu A-Di-Đà. Lời phát nguyện thứ 11 của Phật A-Di-Đà nói rằng: “Một hành giả nào chỉ niệm 10 niệm danh hiệu Ta mà không Vãng Sanh Tây Phương thì ta nguyện sẽ không thành Phật”. Thật ra, mười niệm danh hiệu A-Di-Đà này không phải là niệm theo văn tự hay cái tên suông vì cái tên chỉ là giả danh không có một chút ý nghĩa, công đức hay hiệu năng hiệu lực diệu dụng nào cả. Đây không phải là cái tên giả danh suông mà là Bản Thể A-Di-Đà với vô lượng nghĩa thâm áo. Trong Kinh Lăng Nghiêm Bản Thể A-Di-Đà là cái Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ cũng là Bản Giác Minh Diệu và Tánh Giác Diệu Minh mà Đức Phật Thích Ca khai thị cho Tổ A-Nan, là nơi Tịnh Độ thanh tịnh. Do đó phải niệm bằng Tâm và phải là cái Tâm thanh tịnh Vô Lượng Quang và nếu đạt được Tâm thanh tịnh A-Di-Đà này thì chỉ cần 10 niệm thanh tịnh liên tục như thế thì Tự Tâm đạt tới cõi Tịnh Độ của Phật A-Di-Đà ! Như vậy, 10 câu niệm Phật này : thứ nhất là phải “Nhất Tâm Bất Loạn’’, thứ hai là phải “liên tục’’. Thực hiện mười câu niệm Phật này không phải dễ mà vô cùng khó khăn, thật nhiều công phu, công đức và trí tuệ sâu dầy ! Bởi vì Tâm thường chạy theo lục trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Đang niệm Phật thấy hình tướng Phật hoặc cảnh bên ngoài hoặc trong Tâm mà không lìa được Sắc là loạn, nghe âm thanh chính mình hay nhiều người đang niệm mà không lìa được Thanh là loạn, ngửi mùi nhang trên bàn Phật mà không lìa được Hương là loạn, niệm Phật khô cả miệng lưỡi khát nước miệng đắng mà không lìa được Vị là loạn, đứng lâu hoặc quỳ mỏi cả thân mà không lìa được Xúc là loạn, niệm còn ghi nhớ trong ý mà không lìa được Pháp là loạn. Tất cả đều làm cho Tâm loạn ngay trong câu niệm Phật chỉ thấy toàn là Nghiệp mà không thể thấy được cảnh giới Phật A-Di-Đà. Giữa hai câu niệm Phật lại nghe một tiếng chuông, tiếng mõ hay bất cứ một tiếng động nào… không lìa được niệm, chạy theo âm thanh, câu niệm Phật bị “ thanh niệm” xen vào nên không còn liên tục. Giữa hai câu niệm Phật, vọng tưởng hiện ra, “vọng niệm” xen vào nên không còn liên tục. Giữa hai câu niệm Phật, cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ (hôn trầm) hay cảm nhận hơi thở ra vào…“thân niệm” xen vào nên không còn liên tục. Giữa hai câu niệm Phật, còn thấy mình là người đang niệm Phật, “ngã niệm” xen vào nên không còn liên tục. Giữa hai câu niệm Phật, còn thấy mình chủ động niệm Phật và có động tác niệm Phật, cả thân tâm đều động, “động niệm” xen vào nên không còn liên tục… Đây là những “Niệm Thô’’ dễ nhận diện, nhưng rất khó tiêu trừ làm cho câu niệm Phật bị gián đoạn không liên tục và loạn Tâm. Ngoài “Niệm Thô’’ lại còn “Niệm Tế’’ rất tinh vi, phải là những Bậc tu hành công đức sâu dầy trải nhiều chứng nghiệm mới hy vọng kềm chế được. Như đã luận giải ở trên, đó là Bảy Sóng (Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức và Mạt-Na-Thức) chứa trong A-Lại-Da-Thức. Nghiệp Chủng chứa từ nhiều đời nhiều kiếp tàng trữ trong A-Lại-Da (Thức Thứ Tám) dưới dạng Sóng Nghiệp tức Bảy Sóng. Mỗi một Sóng hay một chu kỳ Sóng là một niệm Vô Minh. Có vô số niệm hay sóng vi tế như thế chứa đầy trong Tâm (A-Lại-Da) tuy chưa nổi lên hiện hành nhưng vẫn tự do phục binh chờ sẵn ẩn nấp nơi đáy Tâm sẵn sàng “nổi loạn’’. Nhiều lúc Tâm lặng yên như mặt nước biển, nhưng thật ra đang có những dòng nước chảy ngầm dưới đáy là vô số những Sóng Nghiệp vi tế đang âm ĩ sâu kín nơi đáy Tâm chưa được chuyển hóa , tiêu hóa hay kềm chế. Làm sao cột trói chặt được những Sóng Nghiệp vi tế này để chúng không còn tự do nổi lên hiện hành hoặc chuyển hóa, tiêu hóa được chúng ; khi đó Tâm mới thực sự lặng yên hay bất loạn. Đây phải là một quá trình công phu lâu dài, công đức dày dạn, trí tuệ thâm áo do chính nơi Tự Tâm. Chỉ cần Niệm Phật được 10 niệm Liên Lục và Nhất Tâm Bất Loạn như thế là đạt tới Tâm thanh tịnh A-Di-Đà, chứng ngộ Vãng Sanh đạt quả vị Thánh, không cần phải đợi Đức Phật A-Di-Đà tiếp đón, mà tự do muốn vào các cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc lúc nào cũng được như các Bậc A-La-Hán ! Bởi vì khi đạt được “Nhất Tâm Bất Loạn’’ nơi Tự Tâm thì tương ưng với cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc nên dung thông vô ngại, cảnh Cực Lạc tức khắc hiện bày. Tóm lại, Pháp Môn Tịnh Độ và niệm Phật A-Di-Đà chỗ rốt ráo không phải là niệm danh hiệu suông để cầu tha lực bên ngoài mà là niệm nơi Tự Tâm thấu suốt Tâm với Bản Tánh A-Di-Đà… là một Bửu Pháp của Phật chẳng kém Thiền Tông !
Trước đây vì thời thế mà Pháp Môn Tịnh Độ có lúc bị xuống cấp chỉ là một “Pháp Chết” chuyên lo việc ma chay cúng tế dành cho “Người Chết” và có tính cách mê tín. Ngày nay, ở một mức độ tích cực, độ cho người chết và độ luôn cho người sống, khi đó Tịnh Độ là một “Pháp Sống” dành cho “Người Sống” và lấy “Pháp Sống” này độ luôn cho “Người Chết”. Những hình thức tiêu cực, rườm rà, mê tín, thương mại hay nặng tính cách thế gian… nên được đơn giản hóa … trả lại sự trong sáng và thanh tịnh cho Tịnh Độ. Vì nếu không theo được dấu chân Phật, Tổ và Thiền Sư trên con đường giải thoát sinh tử luân hồi ngay trong kiếp này, hay con đường của các bậc Thanh Văn Bất Lai, chứng Vãng Sanh, cắt đứt luân hồi, về các cõi Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc, thì cũng độ cho chúng sanh cõi Ta Bà này thoát khỏi ba đường ác trong lục đạo luân hồi ! Hay ít ra cũng tạo duyên lành về Phật Pháp và độ cho những chúng sanh còn vô minh u tối, mê muội bản tâm, ái nghiệp sâu dày…một khi đã hồi Tâm tỉnh thức hay bị thất bại trên đường đời, gặp chỗ khốn cùng trong đau khổ… có con đường để giải thoát. Tịnh Độ có chỗ đứng xứng đáng trong Phật Pháp, dễ độ Thế vì bình dân, dễ hiểu, dễ đi sâu vào quần chúng hơn là Thiền Tông. Tuy nhiên cũng dễ bị Thế Gian Pháp lấn áp, nếu không khéo sẽ trở nên mê tín và lạc lỏng. Nhập Thế để độ Thế chớ không phải để cho Thế độ rồi mắc kẹt nơi Pháp Thế Gian ! Riêng đối với người xuất gia, Pháp Môn Tịnh Độ là cả một quá trình tu chứng công phu lâu dài và đặt nặng trên công đức tu hành nơi Tự Tâm và Trí Tuệ, còn việc ma chay cúng lạy tế lễ hay các pháp thế gian khác chỉ là việc phụ. Đối với Phật Tử không phải ỷ lại chỉ cầu tha lực niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà 10 niệm là được Vãng Sanh! Dù cho có niệm 1 triệu lần, tụng một ngàn quyển Kinh, đem hết của cải tài sản tạo phước đức bằng cách xây dựng cả ngàn ngôi chùa, cúng dường hàng ngàn Chư Tăng như Vua Lương Võ Đế mà không có một chút nhỏ công đức nơi Tự Thân hay Tự Tâm bằng trí tuệ để diệt trừ phiền não, tham sân si và ngã chấp thì cũng chẳng được kết quả gì ! Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy : cúng dường cho một trăm, một ngàn, một vạn… bá tánh không bằng cúng dường cho một Vị Sa Di ; cúng dường cho một trăm, một ngàn, một vạn… Vị Sa Di không bằng cúng dường cho một Vị Bồ Tát; cúng dường cho một trăm, một ngàn, một vạn Vị Bồ Tát… không bằng cúng dường cho một Vị Phật ; cúng dường cho một trăm, một ngàn, một vạn Vị Phật… không bằng cúng dường cho một “Đạo Nhân Vô Tu Vô Chứng”. Đạo Nhân Vô Tu Vô Chứng này chính là Phật Tánh nơi Tự Tâm của chính mình : “tức Tâm tức Phật”. Cúng dường cho Phật Tánh nơi Tự Tâm của chính mình, làm cho Phật Tánh “thức dậy” thì tự mình đã là Phật rồi, không cần phải cầu Phật ở bên ngoài. Điều này Đức Phật Thích Ca đã khám phá ra được khi Ngài đạt Chánh Đẳng Chánh Giác : “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành”, vì tất cả chúng sanh đều sẵn có Phật Tánh bình đẳng nơi Tự Tâm ! Cho nên là một “Pháp Sống”, Pháp Môn Tịnh Độ vận dụng nơi “Tự Tâm” công phu rất nhiều không phải chỉ biết hay ỷ lại vào câu Niệm Phật để cầu xin Phật A Di Đà bên ngoài độ cho mình về Cõi Tây Phương Cực Lạc ; Tịnh Độ cũng vận dụng rất nhiều trí tuệ để quán chiếu, suy xét, phân tích…nhận diện chính xác pháp trần để không bị ô nhiễm, thấu rõ Kinh Điển sâu sắc rồi mới áp dụng tu hành như lời Phật dạy. Đức Phật từng nói: Đừng tin những gì do Kinh sách ngày xưa để lại, đừng tin những gì dù đó là lời nói của một vị Giáo Chủ nổi tiếng,…ngay cả lời nói của Ta cũng đừng nên tin vội…mà phải biết suy xét, phân tích cho thật kỹ… thử nó như thử vàng, đập nó vào đá, nấu chảy nó… Đây quả là một lời khuyên quý báu của Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, giúp cho chúng sanh khỏi bị lạc lầm mà rơi vào sự mê tín hay cuồng tín.
3-Tịnh Độ là Tự Tánh Di Đà:
- Niệm Phật trong Vô Niệm Vô Tướng.
Nếu hiểu Phật A-Di-Đà một cách rốt ráo rộng rãi phóng khoáng thì A-Di-Đà có nghĩa là “Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ”. Vô Lượng Quang là Ánh Sáng Bát Nhã với Trí Tuệ vô lượng cũng chính là Chân Tâm. Vô Lượng Thọ là cái không sanh diệt cũng chính là Tánh, Tự Tánh, cái Không, Bát Nhã hay Niết Bàn… Vậy A-Di-Đà cũng chẳng khác gì Tâm Tánh, Phật Tánh hay Tự Tánh của Thiền Tông dung thông với tất cả Tánh và trùm khắp. Tự Tánh Di Đà là Chân Tánh bình đẳng sẵn có ở trong thân tất cả chúng sanh, ở ngoài thân và trùm khắp Hư Không vô biên, là cái siêu việt nhất, cái rốt ráo nhất của vũ trụ càn khôn cũng chính là cái “Không” vi diệu. Tự Tánh Di Đà là Viên Ngọc Ma Ni dụ cho Tánh hay Tự Tánh, Bát Nhã Chân Như hay Niết Bàn, là cái “Vô Lượng Thọ” chiếu ra cái Ánh Sáng Vô Lượng của Viên Ngọc là Ánh Sáng Bát Nhã, là cái Ánh Rõ, hay cái Vô Vi, là Chân Tâm hay Tâm Gốc là cái “Vô Lượng Quang”. Như vậy Tự Tánh Di Đà là cái Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ: Chân Tâm và Gốc Tánh. Cái Ánh Sáng Vô Lượng hay Ánh Sáng Bát Nhã, Ánh Sáng Trí Tuệ Vô Lượng là Chân Tâm. Cái bất sanh bất diệt Vô Lượng Thọ, hay Chân Như Bát Nhã Niết Bàn là Gốc Tánh. Cái mà Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật” chẳng khác gì với Thiền Tông!
“Cõi Ta Bà có tòa Cực Lạc,
Dòng sông Mê, Biển Giác chẳng xa
Y theo giáo pháp Thích Ca
Tự nhiên Bản Tánh Di Đà phóng quang”.
Hiểu Tịnh Độ là Bản Tánh Di Đà một cách phóng khoáng như thế, thì Niệm Phật lại có thêm nhiều lợi ích khác. Phật Tử hay Tăng Ni thường chào hỏi hay gặp bất cứ một sự việc gì thường dùng hai chữ: “Mô Phật” thật ngắn gọn, hoặc bốn chữ “A Di Đà Phật” hoặc trọn lục tự Di Đà : “Nam Mô A Di Đà Phật”. Niệm Phật ở đây không còn chấp vào hình tướng Phật A Di Đà. Do đó có thể dùng hai chữ ngắn gọn là “Mô Phật” ám chỉ Vô Lượng Phật bình đẳng khắp mười phương cũng là cái Không vi diệu ngay trước mắt và trùm khắp và khi đó đâu đâu cũng là Phật! Cũng như dùng bốn chữ: “A Di Đà Phật” mà cũng không chấp vào cái tướng Phật A Di Đà mà chính là cái “Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ” là cái Tự Tánh Di Đà của chính mình bắt đầu từ đầu nguồn Tự Tâm, ngộ nhập Bản Tánh Di Đà trùm khắp là cái Hư Không vô ngại hay Chân Không vi diệu ở trước mắt. Niệm cả câu: “Nam Mô A Di Đà Phật” là qui về nương tựa chỉ sống với cái Bản Tánh Di Đà này là cái Không vô sở trụ rốt ráo và trùm khắp (Qui Không), niệm cho đến Vô Niệm Vô Tâm để hòa nhập với cái Không vi diệu này! Hiểu như thế thì Niệm Phật dù là chỉ hai chữ “Mô Phật”, bốn chữ “A Di Đà Phật” hay lục tự Di Đà: “Nam Mô A Di Đà Phật” đều có nhiều lợi ích cao tột. Và cái lợi ích sơ đẳng nhất, thực tế nhất, nhưng cũng rất quan trọng, tránh được sự quấy nhiễu của trần lao là tập “Nhẫn”, tập “Nhịn” để đối trị với trần lao diệt tham sân si ngã chấp và đi xa hơn là “Hưu” (ngưng) và cuối cùng là “Mặc” thân tâm được an định.
“Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận
Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc
Hưu hưu hưu, cái thể công danh bất tự do”.
(Thân nhẫn, miệng nhẫn, tâm (hay ý) nhẫn thì những điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.
Thân nhịn, miệng nhịn, tâm nhịn thì ngàn tai muôn họa đều tiêu tan.
Thân nín, miệng nín, tâm nín thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.
Thân ngưng, miệng ngưng, tâm ngưng thì danh đời dù lớn lao nhất trên thế gian cũng không làm gì được ta).
Như vậy để đạt được “Lý” là chứng Vãng Sanh Cực Lạc thì phải có câu niệm Phật là “Sự”. Phải có “Sự” thì “Lý” mới đạt. Lý không Sự thì chỉ là Lý rỗng, Sự không Lý thì chỉ là Sự cùng! Từ hai chữ “Mô Phật” đơn giản đến bốn chữ “A-Di-Đà-Phật” rồi lục tự Di-Đà: “Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật” với bản nghĩa qui về nương tựa vào Bản Tánh Di Đà nơi Tự Tâm đều có công năng diệt trừ phiền não tham sân si ngã chấp. Niệm Phật để Nhẫn, tránh những điều trái chủ oan gia. Niệm Phật để Nhịn, tránh ngàn tai muôn họa đến với chính mình. Niệm Phật để Ngưng, tức là ly Pháp Trần, danh đời dù lớn lao nhất trên thế gian cũng không làm gì được ta. Niệm Phật để Tịnh, Tâm thanh tịnh đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn để về với Cõi Phật! Câu niệm Phật đầu tiên thì thô và có vẻ vô nghĩa, nhưng niệm thường lại thấy tế và có ý nghĩa vì trừ được nhiều phiền não lậu hoặc cũng giống như ngồi Thiền. Thoạt đầu thì niệm bằng âm thanh sắc tướng có vẻ cầu xin nương vào tha lực của Phật A-Di-Đà, nhưng từ từ buông âm thanh buông sắc tướng, không còn nương tựa vào Phật A-Di-Đà bên ngoài mà nương tựa Bản Tánh Di-Đà nơi Tự Tâm. Càng niệm sâu thì đạt đến Vô Tâm, thì Đại Tâm Đại Ứng, là cái Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ, là Viên Ngọc Ma Ni chơn Tâm gốc Tánh, cái Không rốt ráo hay Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa! Câu niệm Phật A-Di-Đà từ thô tới tế đạt đến Bản Giác Minh Diệu trong Kinh Lăng Nghiêm, là cái Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ trùm khắp thế giới Hoa Nghiêm, bí áo của Kinh Hoa Nghiêm, cốt tủy của Kinh Pháp Hoa… là kim chỉ nam cho các Bậc Bồ Tát để không bị lạc đường. Bởi vì tất cả đều Qui Không: “Sắc tức thị Không”, là cái Hư Không vi diệu trùm khắp vô biên ứng cơ sinh ra Hoa Tạng Pháp Giới: “Không tức thị Sắc”, là Tấm Bản Đồ Ma-Ha-Bát- Nhã-Ba-La-Mật-Đa!
Bản Tánh Di Đà cũng chính là Pháp Thân của tất cả chúng sinh trùm khắp cả Đông Tây Nam Bắc nơi nào cũng có chiếu sáng khắp mười phương, là vầng trăng ngự giữa trời cao rộng, là Tánh và chiếu sáng trùm khắp bằng cái ánh sáng vi diệu của nó tức là Tâm. Như một vầng trăng hiện trên mặt nước sông hồ thành ra vô số trăng: “Một là Tất Cả”, Tánh Phật thể nhập trong tất cả chúng sinh bình đẳng và trùm khắp. Cũng vậy, Tánh Phật trùm khắp hiển hiện trong mỗi một chúng sanh “Tất Cả là Một”. Từ cái sáng rõ của Tâm (cái riêng sáng hiện bày rõ ràng hay cái Rõ) mà nhận ra Tánh và Tánh này chính là Bản Tánh Di Đà, không cần phải đi đâu xa vì nó hiện diện trong mọi chúng sinh và trùm khắp mười phương.
“Tâm nội Di Đà tử mạc khu (Di Đà vốn thật Pháp Thân ta
Đông Tây Nam Bắc, Pháp Thân chu Nam Bắc Đông Tây khắp chói lòa
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt Nam Bắc Đông Tây khắp chói lòa
Sát hải trừng trừng dạ mạn thu”. Trăng thu ngự giữa trời cao rộng
(Bài kệ “Thị tu Tây phương Nghiệp”của Tuệ Trung Thượng Sĩ)
Tự Tánh hay Tự Tánh Di Đà là ở nơi Tự Tâm đạt đến Vô Vi tức là tận đầu nguồn Tâm và huốt khỏi Tâm: Tâm mà Phi Tâm. Khi đó Niệm Phật là Tự Tánh Di Đà Niệm Phật, còn sáu căn thì không khởi một niệm, nghĩa là Chân Như Tự Tánh Niệm Phật, Phật Tánh hiện bày thấy được Tự Tánh. Lúc đó thì “Vô-Niệm” là Niệm, “Vô-Thiền” là Thiền: không chấp vào tướng Ngồi Thiền hay tướng Niệm Phật. Niệm Phật không “âm thanh”,không “sắc tướng”, không “cầu xin”, không chấp tướng Phật A-Di-Đà, không chấp tướng Phật Thích-Ca, dù đi đứng nằm ngồi hay đang làm việc ở trong “Động” mà “Bất Động” dù thân và cảnh đang ở nơi “Tướng” mà “Vô Tướng”; khi đó Phật là Thực Tướng Vô Tướng rốt ráo và “Niệm Phật” chính là “Vô Niệm”! Trong cái “Vô Niệm” mà “Niệm” sâu thẫm này tất cả sum la vạn tượng, sơn hà đại địa đều đồng loạt Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng. Nhưng Niệm Phật mà Phi Phật, Niệm Pháp mà Phi Pháp, Niệm Tăng mà Phi Tăng. .…là Bát Nhã Chân Như đang niệm, sum la vạn tượng đồng loạt mở toang con mắt Bát Nhã trùm khắp Hư Không: “Đại Địa quần sanh nhãn hoát khai”, đâu đâu cũng là Bát Nhã, Niết Bàn hay Cực Lạc… Tất cả đều bất nhị, bình đẳng trong vô tướng, tịch diệt vô thân trong Vô Ngã, dung thông trong Chơn Nhất mà chưa từng rời một Niệm và ngôi Tam Bảo là cái Không rốt ráo đồng với Hư Không rỗng suốt trùm khắp vô biên! Như vậy, cái rốt ráo sâu thẫm và phóng khoáng của Pháp Môn Tịnh Độ là Niệm Phật trong Vô Niệm Vô Tướng chẳng khác với Thiền Tông, là Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng là Tự Tánh Chân Như hay Tự Tánh A-Di-Đà khởi niệm. Tự Tánh Di Đà này ở trong thân, ở ngoài thân, là cái Không ở ngay trước mặt rỗng suốt, trống lặng, phi vật phi Phật phi phàm, bình đẳng, không sinh diệt, dung thông vô ngại và trùm khắp Hoa Tạng Pháp Giới….
Tóm lại, Pháp Môn Niệm Phật trong Tịnh Độ Tông từ thấp lên cao, niệm từ âm thanh sắc tướng tập trung cả sáu căn, cho đến Nhất Tâm Bất Loạn, rồi huốt khỏi Tâm đạt đến Vô Vi sáu căn không còn niệm mà Chân Như Tự Tánh niệm Phật đạt đến Vô Niệm Vô Tướng thấy Tánh thành Phật là cái niệm trong Vô Niệm Vô Tướng của Thiền Tông. Tịnh và Thiền lại gặp nhau ở điểm rốt ráo! Như vậy cần gì phải phân biệt Tịnh Độ với Thiền Tông; bởi vì trong Tịnh có Thiền, trong Thiền có Tịnh. Cả hai đều đạt tới cái mục đích rốt ráo là cái Không cũng là Bản Tánh Di Đà, là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Chỉ có một điều là Thiền thì đi tắt, nhanh và gọn, còn Tịnh thì cứ thông thả mà đi… nhưng cũng tới đích!
Cho nên niệm Phật phải đi từ thô đến tế, và phải lên lớp không thể cứ ôm chấp ở một mức độ thô thiển chỉ biết ỷ lại vào câu niệm Phật suông, chấp tướng Phật A-Di-Đà bên ngoài để cầu xin rồi tin chắc là sẽ được Vãng Sanh, mà không biết qui về nương tựa Bản Tánh A-Di-Đà thâm áo nơi Tự Tâm, để lo rèn luyện trí tuệ và công đức nơi tự thân, tạo nhiều duyên lành, chuyển hóa Tâm Thức, diệt tham sân si ngã chấp… Niệm thô thiển và cứ ôm chấp danh tướng như thế dễ đi đến chỗ mê tín, không thể khẳng định là được Vãng Sanh! Cũng không thể cho rằng Thiền Tông thì không có ai chứng Đạo vì tin rằng đây là thời Mạt Pháp?!
Dù có chứng thì người thực sự chứng Đạo cũng rất ít khi lộ diện, vì họ không tham danh lợi ồn ào của thế gian, tùy duyên cơ hay thời thế mà xuất xử, như Lục Tổ Huệ Năng ẩn nơi nhóm thợ săn trong rừng suốt 15 năm mới ra độ chúng sanh. Nhiều vị thấy chúng sanh mê muội nặng nề, khó giáo hóa thì mai danh ẩn tích không ai biết đến, hoặc thị tịch nhập Niết Bàn… Đối với Thiền Tông, vì muốn đi tắt đi nhanh trong một kiếp hoặc một số kiếp không dài lắm, cho nên có nhiều khó khăn chướng ngại, nhất là chỉ dựa vào tự lực và trí tuệ nhiều hơn là tha lực bên ngoài. Tuy nhiên, đã có Phật, có Tổ đi trước chỉ đường, cái Chủng Tử Phật Tánh sẵn có, Tấm Bản Đồ Bát Nhã ở trong tay, cái “Bí Quyết” vào cửa “Không” của Phật, Tổ và Thiền Sư còn giữ lại trong A-Lại-Da-Thức, nếu đời nay chưa chứng, đường đi chưa tới đích, thì vẫn tiếp tục phần còn lại hay cái quãng đường còn lại ở đời sau…
*Phật Giáo Tây Tạng có Tông phái KAGYU thay vì gọi là Tánh, Tự Tánh, Phật Tánh, Tự Tánh Di Đà, Bát Nhã, Thực Tướng, cái Không hay Chân Như, Bản Tế… thì Tông này gọi là “Đại Thủ Ấn” (Mahamudra) là cái “rốt ráo” để ngộ nhập và chứng đạo chẳng khác gì Thiền Tông! Hãy xem lời khẩu truyền “mật” của Vị Sơ Tổ TILOPA truyền lại cho Vị Tổ thứ hai là NAROPA được khám phá ở tu viện Gyalwa tại Rumtek, Sikkim (Tây Tạng). (Bản dịch bằng tiếng Anh của Kunzang Tenzin do Vô Huệ Nguyên, Việt dịch; người viết chỉ hiệu đính hai chữ (“Không Gian” thành “Hư Không”).
Đại Thủ Ấn:
Chí tâm đảnh lễ 84 Đại Thành Tựu Giả!
Chí tâm đảnh lễ Đại Thủ Ấn!
Chí tâm đảnh lễ Kim Cang Thánh Nữ!
Chí tâm đảnh lễ Đại Thủ Ấn!
Chí tâm đảnh lễ Kim Cang Thánh Nữ!
1-Đại Thủ Ấn không thể truyền dạy. Nhưng Naropa, con là kẻ thông minh xuất chúng,
Con đã trải qua bao khổ hạnh,
Với lòng khoan dung nhẫn nại trong đau khổ và hết lòng với Đạo Sư,
Hỡi con yêu dấu, hãy cất giữ mật truyền này vào tim con.
2-Có gì nâng đỡ Hư Không bao la không? Nó tựa vào đâu?
Giống như Hư Không, Đại Thủ Ấn chẳng tựa vào đâu;
Con hãy thảnh thơi và an định trong thanh tịnh,
Hãy nới lỏng và buông bỏ mọi ràng buộc.
3-Khi nhìn chăm chú thấu suốt vào bầu trời trống rỗng thì nhãn quan chấm dứt;
Cũng như thế, khi Tâm tự nhìn thấu Tâm
Thì chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt
Lúc đó là Đại Ngộ.
Đại Thủ Ấn cũng giống như Hư Không rỗng không trong suốt, vô sở trụ, trùm khắp, như như bất động và hoàn toàn thanh tịnh. Do đó phải thảnh thơi và an định trong thanh tịnh, buông bỏ hết mọi ràng buộc của thế gian thì mới có thể “làm bạn” và hòa nhập được với nó. Điều này Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng từng nhắc nhở :
“Cũng vì ham muốn phải long đong,
Ném quách mà ra khỏi bụi hồng.
Buông thỏng hai tay lên Phật Tổ,
Một lần phủi giũ, một lần xong”.
Khi nhìn chăm chú thấu suốt vào Hư Không trống rỗng trong suốt không có một vật, thì nhãn quan chấm dứt, nhãn thức không còn. Cũng vậy, khi Tâm tự nhìn thấu Tâm thì Biển Sóng ý niệm lặng yên : Sóng về với Nước, lúc đó là Đại Ngộ. Điều này cũng chẳng khác gì khai thị của Tổ Đạt Ma : “Trực chỉ nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”. Hay khai thị của Thiền Sư Trương Chuyết : “Nhất niệm bất sanh, toàn thể hiện”. Vì khi chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt, Tâm không còn vọng tưởng và lặng yên như Gương thì bắt đầu chiếu sáng và Tánh hiển bày, cũng là lúc Đại Ngộ…
4-Như sương mù buổi sáng biến mất trong khí mỏng,
Chẳng đi đâu nhưng tan biến hết,
Những làn sóng ý niệm, xuất hiện trong tâm, rồi tan biến,
Đó là lúc con ngộ ra Chân Tính của Tâm.
Sương mù là hơi nước có trong không khí, sau khi đọng lại thành những giọt nước trên cành cây ngọn cỏ, gặp ánh nắng mặt trời thì tự tan biến, trở về với không khí hoặc tiếp tục đọng lại thành nước, trả lại bầu trời trong. Làn sóng ý niệm hay vọng tưởng cũng vậy, xuất hiện trong Tâm rồi tan biến trở về Gốc Tâm. Lúc này Tâm tự nhìn thấu Tâm trong suốt không có một vật lặng yên như Gương, Tâm trở về Chân Tính của Tâm hay là Bản Thể Tâm cũng gọi là Tâm Bản Nhiên, bắt đầu chiếu sáng. Ngộ nhập ánh sáng này là ánh sáng trí tuệ và vượt thoát luân hồi.
5-Hư Không thật chẳng có mầu chẳng có hình dạng
Nên chẳng nhuốm đen hoặc trắng;
Cũng như vậy, Tâm Bản Nhiên không sắc không tướng
Nên không thể là đen hay trắng.
6-Bóng tối vô tận chẳng có sức
Làm đen tối tim sáng mặt trời;
Cũng thế, những kiếp luân hồi vô tận chẳng có sức
Che lấp nổi sự trong sáng của Tâm Bản Nhiên.
7-Dù Hư Không được gọi là “trống không”,
Nhưng thực ra làm sao diễn tả;
Dù Tâm Bản Nhiên được gọi là “trong sáng”,
Nhưng đó chỉ là ngôn từ.
Như đã giải thích ở phần hai về “Tâm và Tánh”, lấy thí dụ Viên Ngọc Ma Ni để nói về Tánh, Ánh Sáng do Viên Ngọc chiếu ra để nói về Tâm. Con đường của Tâm đạt tới Tánh là con đường giác ngộ, như Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị : “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Tâm Bản Nhiên ở đây Tổ TILOPA muốn nói đến Tâm ở tận đầu nguồn Bản Thể của Tâm và Như Nhiên, có thể gọi đây là Tánh hay Viên Ngọc Ma Ni. Khi phân ra làm hai phần Thể và Dụng : Viên Ngọc Ma Ni hay Tánh là Thể, Ánh Sáng do Viên Ngọc chiếu ra hay Chân Tâm là Dụng, thì dễ hiểu và thuận lý hơn. Con đường Tâm từ Ngọn cho đến Gốc Tâm là Dụng, Gốc Tâm hay Chân Tâm lại chiếu ra cái Bóng của nó sinh ra càn khôn vũ trụ sum la vạn tượng hiện đầy trong Hư Không : “Nhất thiết duy Tâm tạo”. Tâm cũng giống như một “Tàng Cây” to, có Gốc thì bất động, không sinh diệt… còn Ngọn như cành và lá thì động và sanh diệt. Ngay Gốc Tâm là cái cửa Vô Vi, vừa huốt khỏi mọi hình tướng của Tâm là Gốc Tâm hay Chân Tâm chính là cái Rõ hay Ánh Sáng của Viên Ngọc hay Mặt Trăng Thứ Hai hay cái Cửa Vô Vi này nhảy thẳng vào Tánh hay Viên Ngọc thì cái Rõ không còn mà là cái Trong rồi cái Không ! Tạm chia làm 3 lớp cửa là Cái Rõ, Cái Trong rồi Cái Không là tận cùng rốt ráo chính là Chân Như Bát Nhã. Tổ TILOPA gọi đây là Tâm Bản Nhiên là Bản Thể hay Chân Tánh của Tâm. Như vậy có thể gọi Tâm Bản Nhiên là Tánh, cũng giống như Tánh hay Tự Tánh : không sinh diệt, không màu sắc, không hình tướng, luôn luôn trong sáng. Cũng như Hư Không, nó rỗng rang, trống không, nhưng lại vi diệu, không làm sao diễn tả được. Những kiếp luân hồi vô tận không có sức che lấp nỗi sự trong sáng của nó. Tâm Bản Nhiên hay Tánh này lại biến hóa vô cùng, ở trong thân, ngoài thân, trùm khắp và bình đẳng hòa nhập trong tất cả Chúng Sanh cũng như Vạn Pháp và Hư Không. Ở trong thân gọi là Phật Tánh, Tự Tánh hay Tự Tâm. Dù cho vô số kiếp luân hồi có che lấp nó trong bóng tối Vô Minh dày đặc nhưng một khi nó được khơi dậy thì chiếu sáng khắp mười phương !
8-Tâm Bản Nhiên giống như Hư Không;
Nó bao trùm và ôm trọn mọi vật trong ánh mặt trời.
Hãy cứ yên lặng và thoải mái trong thanh thản hồn nhiên,
Hãy lắng im để âm thanh dội vang vang dội,
Hãy để Tâm con yên tịnh và theo dõi sự tận cùng của muôn thế giới.
9-Thân xác thật ra trống rỗng như cây sậy,
Và Tâm, như Hư Không thanh khiết, hoàn toàn không tư tưởng:
Hãy thảnh thơi trong thực tính mà chẳng buông bỏ hay kiểm soát
Tâm không đối tượng chính là Đại Thủ Ấn
Con hãy thực hành miên mật thích nghi, rồi con sẽ ngộ.
Hư Không trống rỗng là cái mà Thiền Sư để ý tới, nó là Chân Tâm (Mặt Trăng Thứ Hai, Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni) hay là Gốc Tánh (Mặt Trăng Thật, Viên Ngọc Ma Ni) tùy theo mức độ chứng ngộ của hành giả. Chưa chứng được cái Hư Không này thì Hư Không vẫn là Hư Không vẫn là Vọng Tưởng mặc dù thấy nó như vô tướng, bất động, trùm khắp và không sinh diệt.
Tổ Sư thứ 7 BÀ TU MẬT (Vasumitra) khai thị :
“Tâm đồng HƯ KHÔNG giới
Thị đẳng HƯ KHÔNG PHÁP
Chứng đắc HƯ KHÔNG thời
Vô thị vô phi pháp”.
Tổ TILOPA so sánh Tâm Bản Nhiên cũng giống như Hư Không, nó bao trùm và ôm trọn mọi vật trong vũ trụ bao la. Hãy yên lặng và thoải mái trong thanh thản hồn nhiên, lắng im để âm thanh dội vang vang dội, để Tâm yên tịnh và theo dõi sự tận cùng của muôn thế giới thì tất cả từ từ mờ nhạt lặng chìm và mất dạng trong Hư Không. Thân xác cũng vậy, trống rỗng như cây sậy rồi cũng hòa nhập vào Hư Không. Và Tâm, như Hư Không thanh khiết, trống rỗng, hoàn toàn không tư tưởng : Tâm phi Tâm. Hãy thảnh thơi trong thực tính, chẳng buông bỏ hay kiểm soát. Lúc đó, Tâm không đối tượng chính là Đại Thủ Ấn. Thực hành miên mật thích nghi, rồi sẽ ngộ! Như vậy lời khai thị “mật truyền” này của Tổ TILOPA chẳng khác gì với Thiền Tông cả. Vua Trần Nhân Tông - Tổ Sư Thiền Trúc Lâm (Việt Nam) cũng từng khai thị :
“Cư trần lạc Đạo thả tùy duyên (Ở đời vui Đạo, thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Của báu trong nhà, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh Vô Tâm mạc vấn thiên”. Đối cảnh Vô Tâm, chớ hỏi Thiền !).
Thiền Sư Bổn Tịnh nói : “Tức Tâm là Phật, Không Tâm là Đạo” . Thiền Sư Hoàng Bá cũng khai thị : “Cúng dường mười phương Chư Phật không bằng cúng dường một Đạo Nhân Vô Tâm… Cái Bản Thể Như Như, bên trong như gỗ đá chẳng lay chẳng động, bên ngoài như Hư Không chẳng nghẽn chẳng ngại, vô năng sở, vô phương sở, vô tướng mạo, không được không mất…Dụ cho Tâm này, tức cái Tâm của Vô Tâm lìa tất cả tướng, chúng sanh và Chư Phật chẳng có khác biệt, hễ được Vô Tâm thì đến cứu cánh…” . Thiền Sư Đức Sơn cũng nói : “Vô Tâm nơi Sự, Vô Sự nơi Tâm”. “Vô Tâm” này cũng là “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng! Tuy nhiên Tâm này vô tu vô chứng vô sở đắc : “Tâm tự Vô Tâm”. Nếu đem Tâm làm cho “Vô Tâm” thì Tâm lại trở thành có, là vô tâm của phàm phu, không phải là “Vô Tâm” hay “Không Tâm” hay “Tâm Phi Tâm” của người chứng Đạo !
10-Sự trong sáng của Đại Thủ Ấn không thể hiển lộ
Trong Kinh sách hay những khảo luận siêu hình,
Về Mật chú, Bát Nhã Ba La Mật hay Tam Tạng Kinh Điển;
Sự trong sáng đã bị che phủ bởi ý niệm và tư tưởng.
11-Vì đóng khung trong giáo lý cứng nhắc nên Chân Tính Mật Nguyện đã bị tổn hại,
11-Vì đóng khung trong giáo lý cứng nhắc nên Chân Tính Mật Nguyện đã bị tổn hại,
Nhưng khi chấm dứt hoạt động tâm trí thì mọi quan niệm cứng nhắc sẽ tan biến;
Khi những làn sóng biển là sự yên tịnh sâu thẳm của chính nó,
Khi Tâm không còn lang thang trong vô định, vô tưởng,
Thì chính Mật Nguyện kiên trì sẽ là ánh đèn soi sáng Tâm đen tối.
Đại Thủ Ấn hay Tâm Bản Nhiên tuy Rỗng không như Hư Không nhưng lại trong sáng và vi diệu, cũng là cái Bản Giác Minh Diệu (Kinh Lăng Nghiêm). Nó không thể “hiển lộ” trong Kinh Sách hay những khảo luận siêu hình về Mật chú, Bát Nhã Ba La Mật hay Tam Tạng Kinh Điển. Tất cả những thứ này chỉ là phương tiện để đạt tới cứu cánh, là “ngón tay” để chỉ “Mặt Trăng”! Học Kinh Điển là để có cái “Kiến Văn Giác Tri” hiểu được Lý Đạo. Hiểu rồi thì phải buông cái “Kiến Văn Giác Tri”. Nó sẽ là con dao hai lưỡi vừa làm sáng con mắt Đạo, vừa đâm mù con mắt Đạo. Những ý niệm và tư tưởng sinh ra từ cái Kiến Văn Giác tri, trở thành Vọng Thức trong sáu căn che mờ Tự Tánh ! Do đó dù có đọc hay tụng một ngàn quyển Kinh, rồi chấp vào văn tự chữ nghĩa làm cho niệm niệm sinh ra lấp đầy sáu căn, Đại Thủ Ấn không có chỗ để hiển bày. Dùng âm thanh đọc tụng cho thật nhiều tưởng rằng công phu, nhưng thật ra chỉ làm cho thần khẩu suy kiệt ; dùng sắc tướng cúng lạy tế lễ thật nhiều tưởng rằng được phước, nhưng thật ra chỉ làm cho thân căn mệt mỏi mất công suông ! Cứ thảnh thơi và an định trong thanh tịnh hoặc nhìn chăm chú thấu suốt vào bầu trời trống rỗng nhãn quan chấm dứt, nhãn thức không còn cho đến khi Tâm tự nhìn thấu Tâm, không còn Vọng Tưởng thì Sóng trở về Nước, là lúc Đại Ngộ. Cái gọi là “công phu” này của Tổ TILOPA, chẳng có gì là công phu cả, vì nó rất “nhàn”, nhưng lại đạt kết quả ! Nó giống cái Vô Vi của Lão Tử, nghĩa là “Vô mà Vi, vô sở bất Vi” (không làm mà làm, không có chỗ nào mà không làm), và vượt khỏi cái Vô Vi này, đạt tới cái cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác là thâm nhập vào cái Hư Không, tức là Đại Thủ Ấn. Điều này cũng chẳng khác với cái gọi là “công phu” của Tuệ Trung Thượng Sĩ :
“Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên, (Giữa nhà không nói, chỉ ngồi yên,
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên. Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên.
Tự thị quyện thời Tâm tự tức, Lúc mệt mỏi rồi Tâm tự tắt,
Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền”. Cần chi niệm Phật với cầu Thiền).
Tổ TILOPA có cái thấy chẳng khác Thiền Tông : Vì đóng khung trong giáo lý cứng nhắc nên Chân Tính Mật Nguyện bị tổn hại ; nhưng khi chấm dứt hoạt động tâm trí thì mọi quan niệm cứng nhắc sẽ tan biến ; khi những làn sóng biển là sự yên tịnh sâu thẳm của chính nó; khi Tâm không còn lang thang trong vô định, vô tưởng, thì chính Mật Nguyện kiên trì sẽ là ánh đèn soi sáng Tâm đen tối! Thái Tử Chiêu Minh, chia Kinh ra đủ loại, phân giải rõ ràng, biết bao là công phu. Lương Võ Đế, tạo phước xây chùa, độ Tăng, nhưng ngã sở, ngã kiến lại không đoạn được. Cả hai Cha Con đều chú trọng về hình thức và văn tự suông, nhưng chẳng được kết quả gì, thật là uổng công suông. Thi hào Nguyễn Du, đi Sứ nước Trung Hoa, hành trang duy nhất là quyển Kinh Kim Cang, đọc Kinh suốt cuộc hành trình dài ngàn dặm. Ông ngừng đọc Kinh, ghé lại đất Lương thuở xưa thăm đài phân Kinh của Thái Tử Chiêu Minh, Đài đã hoang tàn, chỉ còn trụ đá với vài vết văn tự. Trụ đá còn đấy, nhưng người xưa thì ở đâu và Đạo ở đâu mà cả hai Cha Con Lương Võ Đế suốt cả cuộc đời tìm không ra? Cuối cùng, Nguyễn Du đã ngộ và Ông hiểu ra rằng : “Kinh Vô Tự” mới là “Chân Kinh” !
“Bờ bên kia có Ma Ha Ca Diếp
Một sát na Tâm nhiếp cả Đạo mầu
“Niêm Hoa Vi Tiếu”, vạn Pháp gồm thâu
Kinh Vô Tự, một bầu Chân Không rộng”. (Ngộ Thâm).
12-Hãy dẹp bỏ tính thông minh tự mãn, từ bỏ những nguyên lý giáo điều,
Thì chân tính của mọi truyền thống và kinh sách sẽ được hiển lộ.
Khi hòa nhập trong Đại Thủ Ấn, là lúc con thoát khỏi ngục tù của luân hồi;
Thênh thang trong Đại Thủ Ấn, tội lỗi và tiêu cực tính sẽ tiêu tan;
Khi là thầy của Đại Thủ Ấn, con sẽ là ánh sáng của Kinh Điển.
13-Kẻ nào ngụp lặn trong vô minh là khinh thường Đại Thủ Ấn,
Họ chẳng biết gì ngoài vùng vẫy trong biển luân hồi khổ đau.
Hãy thương xót những ai đau khổ hằng khao khát!
Luôn chán khổ và mong giải thoát, hãy trung thành với sư phụ,
Khi ơn phước của Ngài chạm đến tim con thì Tâm được giải phóng.
14-Con ơi! hãy lắng nghe với lòng an lạc!
Dính mắc vào luân hồi là vô ích; đó là cội nguồn mọi khắc khoải lo âu.
Vì say đắm trần gian là vô nghĩa, nên hãy kiếm tìm sự thật!
15-Vượt thoát khỏi tâm nhị nguyên là cái nhìn Tối thượng ;
Tâm tịch tĩnh lặng yên là Thiền tối thượng;
Tự nhiên như nhiên là pháp Hành tối thượng;
Rồi khi mọi hy vọng và sợ hãi không còn là thành quả đã đạt.
Thật ra tất cả những cái biết gọi là “Tri Thức”, dù là thông minh xuất chúng như những nhà Bác Học ở cõi Thế Gian hay các cõi Trời thì vẫn còn bị hạn chế hay điên đảo bởi Nghiệp Lực. Nếu tự mãn hay cố chấp vào nó mà cho là Chân Lý với cái Kiến Văn Giác Tri của phàm phu thì con mắt Đạo sẽ bị mù. Vì đó là cái thấy hay cái Tri Thức bị khúc xạ bởi “Nghiệp Tướng” theo từng loài : Tướng “Người”, Tướng “Trời”, Tướng “A-Tu-La”, Tướng “Ngạ Quỹ”, Tướng “Súc Sanh”… Mỗi cõi đều có cái Chân Lý tương đối riêng của nó, nhưng tất cả chỉ nằm trong Bóng Mê, giống như Chiêm Bao, thức dậy rồi thì tất cả đều không có ! Còn những nguyên lý giáo điều chỉ trói buộc con người làm kẻ nô lệ tâm linh hay nô lệ Thần Quyền, không có con đường Giải Thoát. Đạo Phật không có Giáo Điều hay Giáo Luật để ràng buộc hay cột trói mà chỉ có Giới Luật để “Ly” với Pháp Trần, không bị Pháp Trần trói buộc, chướng ngại trên con đường Giải Thoát. Như thế, buông đi cái Ngã Kiến, Ngã Sở, Ngã Chấp, “Ly” Pháp Trần thì Chân Tánh hiển bày. Trong giấc Chiêm Bao, vì Mê nên tưởng là thật với thân thật thế giới thật cố bám díu vào Pháp Trần Chiêm Bao với ngã ái ngã dục ngã kiến ngã sở… thành “Bệnh” bị Vô Minh trói buộc trong Chiêm Bao, không thể “thức dậy ” thoát khỏi ngục tù hay vô số kiếp luân hồi trong giấc Chiêm Bao, thoát khỏi cái “Thân Giả Tạm” chỉ là cái Bóng Ảo trong Chiêm Bao, hòa nhập vào cái “Thân Thật” là Pháp Thân, Chân Tánh hay Tự Tánh… tức là Đại Thủ Ấn !
“Phiên thân nhất trịch xuất phần lung (Xoay mình một ném vượt ra lồng
Vạn sự đô lô nhập nhãn Không Muôn sự đều không ,nhập mắt không
Tam giới mang mang Tâm liễu liễu Ba cõi thênh thang , lòng sáng rỡ
Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng Đông”. Trăng Tây vừa lặn, xuất vầng Đông”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Thênh thang trong cái Không hay Đại Thủ Ấn thì tội lỗi và những tiêu cực với sáu ngã luân hồi trong giấc Chiêm Bao đều tiêu tan:
“Mộng lý minh minh hữu lục thú (Trong mộng lao xao bày sáu nẻo
Giác hậu không không vô đại thiên”. Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba nghìn).
(Thiền Sư Huyền Giác).
Khi là thầy của Đại Thủ Ấn, thì ánh sáng của Kinh Điển sẽ hiển bày :
“Tông diệc thông ,Thuyết diệc thông
Định huệ viên minh bất trệ không
Phi đãn ngã kim độc đạt liễu
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông
Định huệ sáng tròn chẳng trệ không
Nào phải mình ta riêng đạt đấy
Hằng sa Chư Phật thể giai đồng).
Còn kẻ nào khinh thường Đại Thủ Ấn hay cái Không này, mãi mê say đắm trần gian không lo tìm kiếm sự thật, ngụp lặn trong vô minh vô số kiếp; thật đáng thương, họ chẳng biết gì ngoài vùng vẫy trong biển luân hồi đau khổ ! ‘‘Vượt thoát khỏi tâm nhị nguyên là cái nhìn tối thượng”: bởi vì “Một là tất cả, tất cả là Một”. Chỉ cần quên đi “Tâm nhị nguyên” là có thể bao dung được tất cả Pháp Giới. Sự đối lập giữa Hữu và Vô, Sắc và Không, Mê và Ngộ, Phàm và Thánh, Phật và Chúng Sanh, Phiền Não và Bồ Đề, Sống và Chết, Nhơ và Sạch… chỉ là sự đối lập giả tạo! Chân lý chỉ có một, bởi vì “Huyễn Hóa” mà phân thành hai thành Nhị Kiến. Nhơ Sạch chỉ là giả danh, Sắc Không là giả tướng, Sống Chết chỉ là một đợt sóng chìm nổi trong vô định… Tâm “nhất nguyên” là tổng giai không bao trùm tất cả Pháp Giới, không có sống chết hay sinh tử, là Niết Bàn thanh tịnh, như Sóng trở về với Nước!
“Tòng vô hiện hữu, hữu vô thông
Hữu hữu, vô vô, tất cánh đồng
Phiền não, Bồ Đề nguyên bất nhị
Chân như, vọng niệm, tổng giai không”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
“Tâm tịch tĩnh lặng yên là Thiền tối thượng’’: Tâm tịch tĩnh lặng yên thì cũng giống như Mặt Nước lặng yên như Gương bắt đầu soi chiếu cả Bầu Trời vô định, mọi Chân Lý hiển bày chân thật không chướng ngại:
“Tâm kính minh, giám vô ngại (Gương Tâm rõ, soi chẳng ngại
Quách nhiên oánh triệt châu sa giới Suốt thông chiếu khắp hà sa giới
Vạn tượng sum la ảnh hiện trung Muôn tượng um tùm, ảnh hiện trong
Nhất lỏa Viên Quang phi nội ngoại”. Một điểm Viên Quang không nội ngoại).
(Thiền Sư Huyền Giác).
“Tự nhiên như nhiên là pháp Hành tối thượng’’: Bởi vì “Bình thường Tâm thị Đạo”. Không cần phải chú trọng quá nhiều về hình thức như tế lễ cúng lạy, nặng nề về trì giới nhẫn nhục thái quá… giữ trung đạo, tất cả Pháp đều tự nhiên như nhiên, là “pháp Hành tối thượng” đạt thành quả Giác Ngộ.
16-Tâm trong trẻo tự nhiên ở bên kia bờ Tâm ảnh:
Hãy đi đường vô-đường để theo đường của Chư Phật;
Hãy nương theo vô-pháp để đạt đại ngộ.
Phật dạy: “Tâm là Tông chỉ, cửa Không là của Pháp”. Đi huốt con đường Tâm từ ngọn cho tới Gốc, chỉ chú ý tới cái Gốc, nơi mà Tâm không còn là Tâm: tâm phi Tâm, trong trẻo tự nhiên như nhiên, tướng mà vô tướng, vật mà phi vật, pháp mà vô pháp…đạt tới cái Không rốt ráo của Chư Phật. Khi đó là đi con đường để theo đường của Chư Phật, nương theo pháp mà vô pháp để đạt đại ngộ như Đức Phật từng khai thị cho Tổ Ca Diếp:
“Pháp bổn Pháp Vô-Pháp (Pháp, gốc Pháp không phải Pháp
Vô-Pháp Pháp diệc Pháp Pháp không Pháp cũng là Pháp
Kim phó vô Pháp thời Nay khi trao cái không Pháp
Pháp Pháp hà tằng Pháp”. Mọi Pháp đâu từng là Pháp).
17-Con ơi! Hãy lắng nghe với lòng thương cảm!
Con hãy nhìn sâu vào những tình trạng khó hiểu buồn đau trong đời, Chẳng có gì tồn tại, chúng huyễn ảo như mơ,
Những ảo tưởng vô nghĩa chỉ mang lại buồn nản và nhàm chán
Con hãy quay đi và buông bỏ những đeo đuổi trần gian.
18-Hãy cắt bỏ những dính mắc vào quê hương và bè bạn
Mà thiền định đơn độc trong rừng sâu núi thẳm;
Hãy ở đó trong trạng thái vô-thiền
Và vô-chứng-đắc thì con sẽ ngộ ra Đại Thủ Ấn.
Lý với Pháp Trần mà thực chất chỉ là mộng tưởng huyền ảo đầy phiền não trói buộc; về với Pháp Không không Pháp tự do thênh thang với Chân Tánh. Tìm đến nơi thanh tịnh hoặc chốn rừng sâu núi thẳm để thiền định đơn độc, sống tự nhiên như nhiên trong trạng thái thiền mà vô thiền, vô-chứng-đắc thì sẽ ngộ ra Đại Thủ Ấn.
“Thường độc hành, thường độc bộ
Ðạt giả đồng du Niết-Bàn lộ”. (ThS. Huyền Giác).
19-Một cây trổ ra đầy cành và lá
Nhưng khi rễ bị cắt thì chúng sẽ héo tàn;
Cũng thế, khi gốc rễ của Tâm bị cắt đứt,
Thì cành lá của cây luân hồi sẽ rụi tàn.
Như đã diễn tả ở Phần II Tâm và Tánh, Tâm giống như một tàng cây to với “Con đường Giải Thoát ” chia làm hai phần Vọng Tâm và Chân Tâm tương ưng với Ngọn Tâm và Gốc Tâm : Ngọn Tâm thì sinh diệt, luân hồi ; còn Gốc Tâm thì không sinh diệt, là cái cửa Vô Vi để nhập vào Tánh. Ở đây Tổ TILOPA chỉ chú ý tới phần Vọng Tâm diễn tả Tâm là : “tàng cây luân hồi” trổ ra đầy cành và lá, khi rễ bị cắt thì chúng sẽ héo tàn. Gốc rễ ở đây là Vọng Thức, là Pháp Trần. Khi gốc rễ (tức Vọng Thức hay Pháp Trần) của Tâm bị cắt đứt, thì cành lá của cây luân hồi sẽ rụi tàn, là con đường Giải Thoát.
20-Chỉ một ngọn đèn có thể xóa tan đen tối của hàng ngàn kiếp;
Thì chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng
Cũng thanh tẩy được nghiệp chướng và vô minh.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Chỉ cần Tâm người “trực chỉ” thấy Tánh là đạt đạo Giải Thoát. Thấy Tánh là đạt tới Tâm Không. Là chỗ rốt ráo Bản Thể của Tâm hay Tâm Bản Nhiên. Đối với Thiền Tông, trong một sát na đốn ngộ, chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng, cũng thanh tẩy được nghiệp chướng và vô minh xóa tan đen tối của vô số kiếp luân hồi:
“Chứng “Thực Tướng” vô nhân pháp, (Chứng Thực Tướng không nhân pháp,
Sát na diệt khước A-Tỳ nghiệp”. Sát na rũ sạch A-Tỳ nghiệp).
(Th.S Huyền Giác).
Chẳng những chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng xóa tan đen tối của hàng ngàn kiếp mà còn soi sáng Trí Tuệ, bao trùm cả Pháp Giới, vượt thoát luân hồi, đạt đến Niết Bàn Vô Sanh:
“Tứ Trí ba vô tận (Bốn Trí cuồn cuộn sóng
Bát Thức hữu Thần Uy Tám thức lộ thần uy
Tâm đăng minh Pháp Giới Ðèn Tâm soi Pháp Giới
Tức thử thị Bồ Đề”. Ðó tức là Bồ Đề ).
(Bồ Đề Đạt Ma).
Chỉ cần ở Tâm người, không cần phải cầu bên ngoài, chỉ một ánh chớp của Tâm trong sáng, là có cả một mùa Xuân vĩnh cửu với đầy đủ hoa thơm cỏ lạ :
“Học giả phân phân bất nại hà, (Học Đạo mênh mang ai có hay,
Đồ tương linh đích khổ tương ma. Gạch đem mài gạch nhọc nhằn thay,
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ Của Người anh hãy thôi nương tựa,
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa’’ . Một ánh Xuân về, hoa đó đây).
(Tuệ Trung Thượng Sĩ) .
21-Con ơi! Hãy lắng nghe trong an lạc!
Sự thật bên kia bờ Tâm thức không thể hấp thụ bởi Tâm kiên cố;
Ý nghĩa của vô-hành không thể hiểu được trong đam mê tạo tác;
Để thông suốt ý nghĩa của vô-hành và bên kia bờ Tâm tưởng,
Con hãy cắt bỏ mọi gốc rễ của Tâm và an định trong sự tỉnh thức rỗng rang.
22-Để dòng ô nhiễm của niệm tưởng được thanh tẩy;
Con hãy tránh mọi vọng tưởng dù tích cực hay tiêu cực
Hãy để chúng xuất hiện như chúng là:
Thế giới hiện tượng không thêm không bớt, chính là Đại Thủ Ấn.
23-Nền tảng vô sinh thường hằng làm tan rã những khát vọng và huyễn tưởng của con:
Đừng tự cao hay tính toán mà hãy an định trong bản tính vô sinh
Và hãy để những ý niệm của con và vũ trụ tan rã.
Bên kia bờ Tâm thức không thể hấp thụ bởi Tâm kiên cố với những ý niệm, khái niệm, hay tư tưởng của pháp thế gian....là những vọng tưởng dù tích cực hay tiêu cực. Cố chấp vào nó sẽ làm cho con mắt Đạo bị mù. Phải vượt qua khỏi những vọng tưởng hay vọng thức này để đạt tới Vô-Vi cũng là Vô-Hành. Ý nghĩa của Vô-Hành không thể hiểu được trong đam mê tạo tác với những ý niệm hay vọng thức của Pháp Trần. Do đó phải cắt bỏ mọi gốc rễ của Tâm là Vọng Tâm hay Vọng thức và an định trong sự tỉnh thức rỗng rang. Vô-Hành cũng tương đồng với Vô-Tác, Vô-Vi, Vô-Niệm, Vô-Tâm, Vô Pháp, tất cả đều vô sở trụ… ngộ nhập cái Không rốt ráo, là Pháp Thân vi diệu:
Tuyệt gốc Vô-Vi liễu Tánh Chân
Hữu-Vi vọng động lạc thức thần
Trùng trùng duyên khởi hà sa giới
Kiếp kiếp trầm luân vạn lý trần
Vô-niệm, Vô-Tâm, vô sở trụ
Vô-Hành, Vô-Pháp diệc Vô-Nhân
Quán Không, Tự Tánh phi nhất vật
Phi Phật, phi Phàm, thị PHÁP THÂN. (Vô Tác - Ngộ Thâm).
Một cách đơn giản Vô-Hành hay Vô-Tác thì Sóng trở về với Nước lặng yên như Gương là Tâm Bản Nhiên bắt đầu phản chiếu và soi thấu Bầu Trời trong vô tận. Vô-Hành hay Vô-Tác thì từ nguyên tử cho đến vũ trụ đều tan ra trở về Không: “Sắc tức thị Không”, trở về với bản thể như nhiên thường hằng tức là Đại Thủ Ấn. Nền tảng vô sinh thường hằng làm tan rã những khát vọng và huyễn tưởng. Do đó phải an định trong bản tính vô sinh; không cố chấp hay dính mắc vào ngã kiến, ngã sỡ, buông niệm ly trần để những ý niệm hay vọng tưởng và vũ trụ của thế gian mê tan rã.
24-Tri kiến cao nhất sẽ mở ra các cửa;
Thiền định tối thượng sẽ dẫn đến các điểm sâu vô tận ;
Pháp hành tối thượng là kiên trì mà không bị kiềm chế;
Và sự thành tựu cao nhất là sự hiện hữu bình thường không có hy vọng hay sợ hãi.
Tri kiến cao nhất sẽ mở ra các cửa, nhưng để vào được cửa thì phải buông cả cái tri kiến này “Vô Tri mà Tri. Vô sở bất Tri” như Tổ thứ 25 Bà-Xá-Tư-Đa (Basiasita) khai thị:
“Thánh nhân thuyết tri kiến, (Thánh nhân nói tri kiến,
Đương cảnh vô thị phi. Ngay cảnh không phải quấy.
Ngã kim ngộ kỳ Tánh Nay Ta ngộ Tánh ấy,
Vô Đạo diệc vô Lý”. Không Đạo cũng không Lý).
Thiền định tối thượng sẽ dẫn đến các điểm sâu vô tận ,vì khi đó hòa nhập với tất cả Pháp Giới trùm khắp; từ hạt bụi hạt nguyên tử cho đến vũ trụ bao la, không có chỗ nào mà chẳng thấy. Chân tướng của tất cả Pháp Giới thoát khỏi bức màn Vô Minh, lộ toàn thân trong ánh sáng vi diệu của Tâm Bản Nhiên.
Pháp Hành tối thượng là kiên trì mà không bị kiềm chế, nghĩa là vẫn kiên trì nơi Hành mà Vô-Hành, Vô-Tác, Vô-Niệm, Vô-Tâm… chẳng bị ràng buộc cột trói hay kiềm chế. Ngay nơi động mà tịnh, ngay nơi vật mà phi vật, ngay nơi tướng mà phi tướng, ngay nơi niệm mà lìa niệm, ngay nơi cảnh mà Tâm không dính mắc.
Sự thành tựu cao nhất là sự hiện hữu bình thường không có hy vọng hay sợ hãi. Tâm bình thường là Đạo và Đạo thì ngay trước mắt nơi nào cũng có. Mặc áo, ăn cơm, rửa bát, bửa củi, gánh nước, đi đứng, ngủ nghỉ, nằm ngồi hay đang làm việc… đều là Đạo; ngọn cỏ, tàng cây, đám mây, sơn hà đại địa cho đến hạt bụi hạt nguyên tử hay Hư Không bao la… đều là Đạo! Vì tất cả đều đang “niệm” rồi chấp niệm nên niệm niệm duyên khởi mà hiện hữu và có tướng sinh diệt. Sự hiện hữu bình thường không có hy vọng hay sợ hãi, là ngay nơi niệm mà lìa niệm, ngay nơi động mà lìa động, ngay nơi cảnh mà lìa cảnh, ngay nơi vật mà lìa vật, ngay nơi pháp trần mà lìa pháp trần, đạt tới Vô-Niệm, Vô-Hành, Vô-Tâm… là sự thành tựu cao nhất! Mặc dù tất cả Pháp Trần đang niệm mà hiện hữu, có ngã có nhân, có năng có sở, trở thành nhị kiến của thế gian mê, nhưng với sự hiện hữu bình thường của thế gian mê mà trong đó tất cả đều “Ly’’ không ngã nhân vô năng sở trở về cái “Một” hay “Chơn Nhất” thì niệm Vô Minh sinh ra Pháp Trần tịch diệt. Khi đó tất cả Pháp Trần đều niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, không còn là niệm Vô Minh mà là cái niệm Chân Như của Tự Tánh, nơi đó Phật cũng Phi, Pháp cũng Phi mà tăng cũng Phi… là cái Không rốt ráo vi diệu, là cái Đại Thủ Ấn! Khi đó mọi sự hiện hữu bình thường đều là Đạo: núi sông là núi sông, khói non Lô là khói non Lô, sóng Chiết Giang là sóng Chiết Giang…là cái nhìn với “Tri Kiến Phật” hay “Pháp nhĩ Như Thị”.
25-Lúc đầu, Nghiệp Lực của con như dòng sông đổ vào thung lung dốc;
Rồi nhẹ nhàng lang thang như khúc giữa của sông Hằng;
Và cuối cùng, như dòng sông trở thành một với đại dương,
Nơi bất nhị, mẹ và con là một.
Cũng như Thiền Tông ngộ nhập cái Không, khi ngộ nhập Đại Thủ Ấn, tức là đắc Đạo và khi đó Nghiệp Chướng không còn, đạt Niết Bàn Vô Sanh. Cũng như Chiêm Bao khi “thức dậy”, tất cả Nghiệp Chướng dù có nặng nề với vô số kiếp trong Địa Ngục A Tỳ trong thế giới Chiêm Bao đều dứt sạch, không để lại dấu vết khi “thức dậy” mà hòa nhập với cái Thân Thật là Pháp Thân, cái Không hay Đại Thủ Ấn ; nơi bất nhị, mẹ và con là một !
26-Nếu Tâm con u tối không thể thực hành lời dạy bảo này,
Hãy giữ hơi thở tự nhiên và tống ra nhựa sống của nhận thức,
Hãy tập nhìn chăm chú - phương pháp tu luyện nhất Tâm,
Hãy kiên trì kỷ luật đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức.
Nếu những ai Tâm còn u tối không thể thực hành lời dạy bảo này. Tổ TILOPA còn có phương pháp tu luyện nhất Tâm là tập nhìn chăm chú để xóa tan vọng thức hay vọng tưởng, giữ hơi thở tự nhiên không cột niệm, kiên trì kỷ luật đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức.
27-Khi thực hành, thì tính giác của đại lạc và không tính sẽ thức dậy:
27-Khi thực hành, thì tính giác của đại lạc và không tính sẽ thức dậy:
Được hợp nhất trong ơn phước của tuệ giác và phương tiện,
Sẽ từ từ chảy xuống, dừng lại rồi ngược về Tâm Bồ Đề,
Nối kết với cội nguồn, rồi lan tỏa khắp châu thân.
Nếu con không còn tham ái và bám chấp thì tính giác sẽ khơi dậy.
28-Con sẽ trường thọ và trẻ mãi như mặt trăng tròn đầy,
Luôn rạng rỡ và trong sáng, năng lực như sư tử,
Con sẽ mau thành tựu sức mạnh trần gian và đại giác ngộ.
Nguyện cho lời chỉ dạy cốt tủy này về Đại Thủ Ấn
Nguyện cho lời chỉ dạy cốt tủy này về Đại Thủ Ấn
Sẽ tồn tại mãi mãi trong tim những chúng sinh may mắn.
Thực hành phương pháp tu luyện nhất Tâm bằng cách tập nhìn chăm chú và kiên trì kỷ luật cho đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức. Khi đó vọng tưởng không còn thì tính giác của đại lạc và không tính sẽ thức dậy hợp nhất trong “Định” sinh tuệ giác và phương tiện, sẽ từ từ chảy xuống dừng lại rồi ngược về Tâm Bồ Đề , tại nơi đây tức Tâm là Phật nối kết với cội nguồn Phật Tánh rồi lan tỏa khắp châu thân khắp cả sáu căn, cả sáu căn là Tâm Bổ Đề, là sáu Ban Thần Dụng… Khi đó Phật Tánh hiển bày, thành tựu sức mạnh trần gian và đại giác ngộ, hòa nhập với tất cả Pháp Giới bình đẳng là cái Như cái Một hay Chơn Nhất, trở về cái trong suốt rỗng rang trùm khắp như Hư Không, tức là Đại Thủ Ấn chẳng khác với Thiền Tông!
Tóm lại, Đại Thủ Ấn mà Sơ Tổ TILOPA “mật truyền” cho Nhị Tổ NAROPA chẳng khác gì lời khai thị của Đức Phật Thích Ca: “Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp” hay của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân Tâm, kiến Tánh thành Phật”. Khi “Tâm tự nhìn thấu Tâm”, chuỗi lan man và dòng ý niệm chấm dứt… là lúc Đại Ngộ theo cách của Tổ TILOPA thì chẳng khác với cái gọi là “trực chỉ nhân Tâm” của Tổ Đạt Ma, Tâm tự “Vô Tâm” của Thiền Sư Hoàng Bá, cái lưỡi kiếm “Vô” của Triệu Châu, cái cửa “Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác hay cửa “Vô Niệm” của Lục Tổ Huệ Năng… Con đường Giải Thoát đó chẳng khác với con đường của Đức Phật Thích Ca đã dạy là con đường “vô đường”, tức là cái Không trùm khắp, ở ngay trước mặt, nơi nào cũng có; Pháp mà “vô pháp” không chấp dính pháp trần; hành mà “vô hành” vô tác, tự nhiên như nhiên, không đam mê tạo tác, mà vẫn an định nơi cái Không rỗng suốt; thiền mà “vô thiền” vô sở đắc với Tâm tĩnh tịch lặng yên… Nếu không thực hiện được những điều này, Tổ TILOPA cũng có phương pháp thực hành tu luyện nhất Tâm cho đến khi hoàn toàn an trú trong tỉnh thức và khi đó Tánh Giác của đại lạc và Không Tánh sẽ thức dậy… chẳng khác với Thiền Tông !
Như vậy thì đâu đâu cũng là Như, cái Một hay Chơn Nhất. Đâu đâu cũng là Cực Lạc, Bát Nhã hay Niết Bàn. Đâu đâu cũng là Phật, Tánh, Phật Tánh, Tự Tánh Di Đà, Pháp Thân, Như Lai hay là Đại Thủ Ấn …Do đó nên xóa bỏ ranh giới giữa Tịnh Độ, Thiền Tông, Mật Tông; xóa bỏ cái danh từ Tịnh Độ, Thiền Tông hay Mật Tông…mà duy nhất chỉ là cái Đạo Giác Ngộ không phải chỉ của Phật Thích Ca, Phật A-Di-Đà mà của Vô Lượng Phật khắp mười phương. Nói ngắn gọn là cái Đạo Giác Ngộ của Phật. Nhưng chữ Phật đã có nghĩa là người Giác Ngộ, do đó nên bỏ luôn chữ Phật hay Đạo Phật, chỉ gọi là “Đạo Giác Ngộ” hay “Đạo Giải Thoát”. Như vậy tất cả chúng sanh không phân biệt Tôn Giáo cùng có chung một mục đích “Giác Ngộ” là chấm dứt phiền não, thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi trở về Căn Nhà Xưa là Căn Nhà “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” hay Niết Bàn Cực Lạc hay la Đại Thủ Ấn … đều có thể tham cứu “Đạo Giác Ngộ” để tìm Chân Lý Giải Thoát và đạt được Giác Ngộ Giải Thoát!
Còn việc cố chấp tranh cải về thời Mạt Pháp hay Chánh Pháp thì ngay thời Lục Tổ Huệ Năng và Thiền Sư Huyền Giác đã là thời Mạt Pháp, nhưng vẫn có vô số người Ngộ Đạo: “Hậu nhân đắc Đạo hà cùng số”. Thế gian biện luận rằng: Thời Mạt Pháp chỉ có thể phải nương tựa vào “Tha Lực” bên ngoài, không nên Tu Thiền hay Tự Tu Chứng dù là với Chánh Pháp của Phật Thích Ca. Khi đó Thiền Sư Huyền Giác khuyên hành giả:
“Giả sử thiết luân đỉnh thượng triền (Ví phỏng thiết luân trên đầu chuyển
Định huệ viên minh chung bất thất Định huệ sáng tròn luôn chẳng biến
Nhật khả lãnh nguyệt khả nhiệt Nguyệt dầu thành lửa, nhật thành băng
Chúng ma bất năng hoại chân thuyết Ma nào phá được chân thuyết hiện?
Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ Xe voi dốc ngược vững đường lên
Thùy kiến đường lang năng cự triệt?” Sức mấy bọ trời ngăn bước tiến?).
Đạo Lý của Đức Phật và những lời khai thị của Tổ và Thiền Sư lắm lúc quá cao siêu khó hiểu. Tuy nhiên Phật, Tổ và Thiền Sư có giảng giải rõ ràng và hành giả cũng phải quán chiếu, tư duy thì trí tuệ mới phát triển được (Văn Tư Tu). Thời xa xưa đã có biết bao nhiều người Ngộ Đạo cũng nhờ cái siêu việt khó hiểu này, nếu quá dễ Con Người sẽ sinh lười biếng suy nghĩ và Bộ Óc loài người với Bộ Gene thông minh sẽ suy thoái trong những thế hệ mai sau… Nhà Toán Học Pascal có câu nói: “Con Người là Cây Sậy biết suy nghĩ”. Tuy Con Người rất yếu đuối như Cây Sậy, thể lực thua xa các loài dã thú như voi, cọp, beo, gấu… thế mà Cây Sậy yếu đuối kia lại làm Chúa Tể cả sơn lâm và thống trị luôn Quả Địa Cầu vượt hết tất cả loài cầm thú khác dù có sức mạnh hơn con người. Khi một đứa trẻ mới ra đời, nó còn rất ngây ngô chưa hiểu biết điều gì. Phải tập đi, tập nói rồi học hành. Nhưng vài chục năm sau nó sẽ “đi đôi giày bảy dặm”, trở thành một chuyên gia lỗi lạc, một chính khách lưu loát, một nhà Khoa Học đại tài… Chẳng lẽ nó cứ phải tập đi mãi và học đánh vần ABC suốt cuộc đời! Trường học cũng như trường đời hay trường Đạo phải có ngày lên lớp và thi đậu thành nhân, thành quả. Lúc đầu thì học cái dễ, từ từ lên cao, không đứng yên một chỗ. Nguyên lý của vũ trụ là “Dịch” tức là di chuyển, hướng về cái khó, cái lạ, cái bí mật để khám phá vũ trụ cũng như đời sống Tâm Linh. Đạo của Đức Phật Thích Ca đi bằng đôi chân vững chắc: Trí Tuệ và Từ Bi luôn luôn thích ứng với mọi thời đại. Đôi chân này còn siêu việt hơn đôi giày bảy dặm của Thế Gian, nó sẽ phóng cao lên giữa Hư Không, nhảy qua khỏi “đầu sào trăm trượng”, vượt qua “cửa Vô Vi”, nhập vào cái “Không” giẫm nát cả ba ngàn thế giới, không phải chỉ mãi mê trong Vô Minh lo làm ông chủ nhất thời sắp khánh tận với biết bao nhiêu nợ nần nghiệp chướng, càng lo làm ăn lại càng thua lỗ (ý nói lo làm giàu bất chánh, sát hại chúng sanh, nói dối lừa đảo… tuy có nhiều tiền của giàu sang, nhưng lại thua lỗ là khi chết không mang theo được, chỉ mang cái nợ là cái Nghiệp ác đã tạo tác đi vào ba đường ác là Địa Ngục, Ngạ Quỹ, Súc Sanh) trên cái cõi Ta Bà đầy “ngũ trược” chịu bao phiền não: sinh, lão, bệnh, tử trong cái cảnh luân hồi bất đắc dĩ này! Là Phật Con với hạt giống Phật Tánh sẵn có thì phải noi gương Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo, phải là Sư Tử, là Voi lớn, không theo dấu chân Thỏ như lời khuyên của Thiền Sư Huyền Giác:
“Đại Tượng bất du ư Thố kính (Voi lớn đâu thèm đi lối thỏ
Đại Ngộ bất câu ư tiểu tiết Ngộ lớn sá gì chút tiết nhỏ
Mạc tương quản kiến báng thương thương Đừng nhìn trong ống biếm trời xanh
Vị liễu, ngô kim vị Quân quyết”. Chưa tỏ, vì anh ta mở rõ).
Tóm lại, việc thứ nhất : có Đức Phật truyền trao Tấm Bản Đồ chỉ đường chính xác để trở về căn nhà xưa: Căn nhà Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Việc thứ hai : có Thiền Sư chỉ đường tắt trên Tấm Bản Đồ đi tới ngay Cửa Vào, lắm lúc các Ngài còn trao tận tay “chìa khóa” để mở cửa, nhưng nếu không có chìa khóa thì hành giả phải tự phá nát cửa mà vào! Việc thứ ba: là tự hành giả phải LÊN ĐƯỜNG : độc hành độc bộ mà đi và với Chánh Pháp tức là với “Tấm Bản Đồ Bát Nhã” và cái “Bí Quyết” của Thiền Sư để vào Cửa, hành giả có niềm tin vững chắc, đó là Chánh Tín và niềm tin này là “Mẹ đẻ của Chư Phật”. Chư Phật cũng nhờ niềm tin này mà đạt Đạo. Hành giả được xem là đã “Thấy Đạo”. Bây giờ mới bắt đầu phải Tu Đạo, vì có “Thấy Đạo” mới Tu Đạo như Thiền Sư Bổn Tịnh dặn dò:
“Thấy Đạo mới Tu Đạo
Chẳng thấy lấy gì Tu
Tánh Đạo như Hư Không
Hư Không Tu chỗ nào?”.
Cái Tu Đạo này là ở Tâm, là phải đạt đến “Tâm không” cùng tần số với Tánh để nhập vào Tánh như Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã khai thị: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Như vậy Đường Đi đã Rõ bước, Cửa Vào cũng đã thông, chỉ còn có cái Tâm “Đa Sự” nên chưa lọt vào Cửa được, bởi vậy giai đoạn này là phải “TU TÂM” để nhập TÁNH. Chừng nào đạt tới cái Tâm không, Tâm thấu suốt Tâm, không còn “Bảy Sóng”, không có một vật lẳng lặng như Gương thì cánh “Cửa Rõ Vô Vi” từ từ mở ra ngộ nhập Vô Vi ( Mặt Trăng Thứ Hai), ngay đó nhảy thẳng vào Tánh, sấn ngược lên tới “đỉnh Tuyết Sơn” cũng là cái KHÔNG hay cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, du hí Tam Muội hay Niết Bàn vô trụ.
“Tứ sơn thiên bích vạn thanh tùng (Bốn núi ngàn tường muôn bụi rặm
Liễu đắc đô lô nhất thiết không Hiểu ra mới biết thảy đều không
Hỷ đắc lư nhi tam cước tại Mừng nay có được lừa ba cẳng
Mạch kỵ đã sấn tận cao phong”. Sấn ngược đường lên đỉnh tận cùng).
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Vậy thì hãy ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ với tấm bản đồ : Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa của Chư Phật, Tổ và Thiền Sư Ngộ Đạo. ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ học cái “Bí Quyết” (cái Tuyệt Cùng, cái Vô Vi) chỉ con đường tắt, đọc được Tấm Bản Đồ, phăng tìm ngay tận đầu nguồn, tận gốc ‘‘Cửa Vào’’ căn nhà Bát Nhã mà các Ngài đã để lại trong Tàng Kinh, luận thuyết hay thơ kệ vô giá ! ‘‘Độc hành độc bộ” mà đi phăng theo ‘‘dấu vết’’ của các Ngài, nếu cần thì phải ‘‘học đồ’’ theo từng ‘‘dấu chân’’ và ‘‘nét kiếm’’ của các Ngài và phải tư duy quán chiếu thật kỹ để khỏi bị lầm lạc, đạt tới niềm tin ‘‘Chánh Tín’’. ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ với cái‘‘Tâm không’’ không chấp dính với lục trần, cái Tâm‘‘Vô Niệm’’của Lục Tổ Huệ Năng, cái Tâm‘‘Vô Tâm’’của Thiền Sư Hoàng Bá, hay cái Tâm‘‘Vô’’của Thiền Sư Đức Sơn, cái Tâm ‘‘Phi Tâm’’vô ngã chủ , phi Phật, phi Thánh, phi phàm, phi vật : thuần đức, thiêng liêng, tinh khiết....Tiếp tục mồi Ánh Lửa Bát Nhã mà chính tay Đức Phật Thích Ca trao truyền cho Tổ Đại Ca Diếp ở Pháp Hội Linh Sơn, rồi truyền qua 28 đời Tổ Sư Tây Thiên vào Trung Quốc với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma cho tới Lục Tổ Huệ Năng , Thiền Sư Huyền Giác …và vô số các Vị Thiền Sư Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam….
Nhìn theo gót chân các bậc Tiền Nhân, ‘‘LÊN ĐƯỜNG’’ đi tìm Chân Lý Giải Thoát không nhất thiết phải là xuất gia hay tại gia, tuy xuất gia thì có điều kiện lợi hơn. Vào trong nhà chùa, trong tu viện, nhưng nếu nhà chùa hay tu viện bị biến chất, không có Đạo Giải Thoát thì đi du phương tìm Đạo nơi các Tòng Lâm. Hoặc tự một mình vào rừng sâu tham cứu Đạo Lý dưới Gốc Cây Bồ Đề như Đức Phật Thích Ca, hoặc cất am tranh nơi rừng hoang núi vắng như Thiền Sư Diệu Phổ, hoặc ở tại gia như gia đình Bằng Long Uẩn, Tuệ Trung Thượng Sĩ, hoặc đi tham vấn các Thiền Sư như Thi sĩ Tô Đông Pha, hoặc ngay cả đang còn làm việc tại quan trường như Triệu Biện. Điều Quan trọng là phải biết “Buông Bỏ” hoặc ít ra phải xem nhẹ việc đời, không để cho Thế Gian Pháp trói buộc: “Vô Tâm nơi Sự, vô Sự nơi Tâm”.
“Cũng vì ham muốn phải long đong,
Ném quách mà ra khỏi bụi hồng.
Buông thỏng hai tay lên Phật Tổ,
Một lần phủi giũ , một lần xong”. (Tuệ Trung Thượng Sĩ).
*Đối với Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia, có thể mượn hai câu thơ trong bài thơ “Nhàn” của Thi Sĩ Nguyễn Công Trứ làm cách sống Đạo :
“Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn”
Nghĩa là trước cửa nhà là cái chợ đầy ồn náo bon chen thị phi danh lợi của Thế Gian, cửa sau nhà là Mặt Trăng thanh tịnh có thể hưởng nhàn hoặc xa lánh thế tục bụi trần hay hướng về Mặt Trăng thanh tịnh mà Tu Tâm dưỡng Tánh. Có thể sống Đạo với Ánh Trăng như thả lỏng sáu căn “nhàn khán” nhìn Trăng và Hư Không hoặc tư duy quán tưởng ngồi thiền thường xuyên dưới Ánh Trăng… cơ hội gặp một nhân duyên lớn hay có đủ nhân duyên như trái cây đã chín chỉ gặp một cơn gió thoảng nhẹ là có thể chín rụng tự nhiên trên mặt đất, khi đó có thể thấy sao Mai mọc như Đức Phật Thích Ca đã từng thấy, và cũng khi đó cả Thân Tâm cùng hòa với “Mặt Trăng” thật làm Một ! Tu tại gia cũng là một điều tốt, cũng có đủ Kinh Điển sách vở, băng cassette, video, đĩa dvd…Ngồi tại nhà có thể nghiên cứu Kinh Điển hoặc nghe Phật Pháp đủ loại với máy vi tính (nếu cần), bằng không chỉ cần một vài quyển Kinh liễu nghĩa là đủ ! Tại nhà cũng có thể tụng kinh niệm Phật, ngồi Thiền, tư duy quán chiếu… Tại nhà cũng như ở chùa hay nơi rừng sâu núi vắng cũng đều có cái Không trùm khắp và cái Không này là ngôi Tam Bảo rốt ráo có đủ Phật Pháp Tăng : Phật mà phi Phật, Pháp mà phi Pháp, Tăng mà phi Tăng, cả Phật Pháp Tăng đều là Không…Đối với chùa chiền, tu viện, thiền viện, nếu có Vị chân tu trụ trì hay bất cứ Vị Tăng hay Ni nào mặc dù chưa ngộ Đạo nhưng có Đạo cao Đức trọng, có Đức Hạnh, biết giữ gìn giới luật Nhà Phật…thì nên lui tới học hỏi hay tu tập, vì những nơi này có đủ ngôi Tam Bảo: Phật Pháp Tăng đúng nghĩa rất quý và đáng trân trọng có thể làm nơi nương tựa ! Còn nếu Vị trụ trì không phải là chân tu, chỉ là thầy cúng thông thường, không có Đạo Pháp, dính mắc nhiều Pháp Trần, thích chùa to nặng hình thức vật chất, phung phí nhiều tiền bạc của Bá Tánh, kinh doanh thương mại… thì không nên đến. Hoặc có những Vị thuyết giảng rất hay nhưng lại nhiều vọng ngữ ngụy ngôn ngã mạn, Sáu Căn không thanh tịnh, không có Đức Hạnh, tiền bạc tài vật mờ ám, liên hệ nam nữ không rõ ràng, không giữ giới luật nhà Phật…thì cũng không nên đến, chỉ làm mất thời gian vô ích mà còn tạo thêm Nghiệp xấu ! Nếu chùa chiền, tu viện, thiền viện bị biến chất không có Đạo Giải Thoát, thì Phật Tử hay Cư Sĩ tại gia vẫn rộng đường tu : ở tại nhà, hoặc cất am tranh một nơi thanh tịnh và theo lời khuyên của Tổ Bồ Đề Đạt Ma: lấy Thân làm ngôi Chùa, nơi thanh tịnh địa, xa lìa Tam Độc, tịnh Sáu Căn, Thân Tâm vắng lặng như Hư Không. Cũng không cần phải đúc vàng, tạc ngọc làm Tượng Phật, mà phỏng theo Chân Dung diệu tướng của Như Lai : lấy Thân làm Lò Đúc, lấy Pháp làm Lửa, lấy Trí Tuệ làm Tay Thợ Khéo, lấy Ba Giới Tụ Tịnh - Sáu Ba La Mật làm Khuôn Đúc, nấu chảy và rèn đúc chất Chân Như Phật Tánh ở trong Thân thành hình tượng của Chân Dung, là Pháp Thân thường trụ vi diệu. Trong khi dụng Thân làm ngôi Chùa, nơi thanh tịnh địa có đủ ngôi Tam Bảo : Phật Pháp Tăng đều Như hay là cái Không trùm khắp, cũng như trong khi dụng Thân làm Lò Đúc chất Chân Như Diệu Tánh của Như Lai, thì có thể cái cửa Vô Vi chợt xuất hiện hay từ từ mở ra là cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” (cách nói của Thiền Sư Lâm Tế), nó ở trong Thân, ở ngoài Thân bao trùm khắp cả Pháp Giới ! Có thể tạm gọi đây là cái Rõ. Thật ra nó có ba trạng thái : cái Rõ, cái Trong rồi tới cái Không mới là rốt ráo. Nhưng cũng chẳng phải là ba, ba mà là một, nhưng một cũng là ba tùy theo đứng trong Nghiệp hay là ở trong Tánh. Ngài Lâm Tế dặn dò rằng với cái Rõ hay cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” này chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn. Cái Rõ là Mặt Trăng Thứ Hai, còn bám trên Sự Vật và Hư Không. Chừng nào cả Sự Vật và Hư Không sụp đổ, đều là Không : ‘‘Sắc tức thị Không’’ thì Cái Rõ , Cái Trong, Cái Không tuy ba mà là một, đạt tới cái rốt ráo là Không là cái mà Cư Sĩ Bàng Long Uẩn đã ngộ nhập và Ông luôn luôn sống với cái Không, gửi cả thân tâm vào Không, trở thành một Đạo Nhân “nhàn”, không còn lo ngại việc sinh tử ! (xem bài thơ vịnh cái Không của Cư Sĩ Bàng Long Uẩn). Thật ra cái Rõ hay cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” xuất hiện rồi lại mất là do hành giả chưa thật sự ngộ nhập vào cái Rõ (hay cái Vô Vi) mà chỉ mới đứng ngoài cửa, gần sát với nó nên có thể cảm nhận được nó. “Cái Sáng” bao gồm luôn “Cái Rõ” này ở trong Thân lẫn ngoài Thân và trùm khắp, làm cho cả Thân Tâm an lạc lạ thường, Trí Tuệ sáng suốt minh mẫn ! Tuy nhiên vẫn chưa phải là ngộ nhập, mà chỉ “đứng gần ở ngoài cửa”. Nó có thể hiện diện trong nhiều giờ, nhiều ngày hay nhiều tháng…nhưng rồi bỗng nhiên lại mất ! Tại sao mất ? Thiền Sư Lâm Tế chỉ rõ : ‘‘Chỉ vì tình sinh trí cách, tưởng dấy thể sai’’. Tức là vì còn bám víu vào Pháp Trần tạo Nghiệp, chấp ngã hoặc cống cao ngã mạn, chưa đến nơi mà tự cho là ngộ đạo, rồi từ bỏ giới luật, dan díu Pháp Trần nên Sáu Căn bị ô nhiễm, không tiếp tục con đường tu để đạt đến chỗ rốt ráo, cho nên chẳng những mất Đạo mất đi một đời tu mà còn có thể bị đọa vào ba đường ác ! Do đó phải tiếp tục “Chăn Trâu” cho đến lúc “Trâu Đen” trở thành “Trâu Trắng” hoặc đến được “Tào Khê ” mới thực sự là an toàn !
“Một mình giữ một con Trâu Đất
Xỏ mũi đem về chẳng ngớt chăn
Đem đến Tào Khê mà thả quách
Phăng phăng nước cuộn trái cầu lăn”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ).
Tóm lại, chỉ khi “ngộ nhập” được cái Rõ hay cái Vô Vi thì mới đạt đến Vô Sanh mà không còn sợ bị Pháp Trần hay Vô Minh Nghiệp Chướng làm ô nhiễm :
“Minh minh thường tự tại,
Diệc niết mục tác quái.
Kiến quái bất kiến quái,
Kỳ quái tất tự hoại”.
Diệc niết mục tác quái.
Kiến quái bất kiến quái,
Kỳ quái tất tự hoại”.
(Rõ ràng thường tự tại
Cũng dụi mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại).
Cũng dụi mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại).
Đường kiếm “Tuyệt học Vô Vi” của Thiền Sư Huyền Giác quả thật lợi hại, chẳng kém lưỡi kiếm “Vô” sắc bén của Triệu Châu hay thanh gươm “Vô niệm” thần kỳ của Lục Tổ Huệ Năng : múa Kiếm Thần xé nát Hư Không, tịnh Sáu Căn phăng dấu Tổ tìm vết chân Phật, diệt Ngã Sở hòa cùng Biển Lớn, soi Gương Tâm khơi lại đầu nguồn tới cửa Vô Vi. Ngay đây chém đứt Vô Minh, nhảy thẳng vào đất Như Lai mở toang con mắt Huệ thấy Tánh ! Đây là con đường tắt mà Kiếm Khách giang hồ nơi nơi có thể “thao luyện” với Lưỡi Gươm “Bát Nhã” linh diệu, nét Kiếm “Vô Vi” tuyệt vời mà Thiền Sư Huyền Giác đã vẽ từng nét rõ ràng trong Chứng Đạo Ca :
“Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa”.
(Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy,
Một nhảy thẳng liền đất Như Lai).
Trường hợp của Cư Sĩ Triệu Biện là khá đặc biệt, nhưng cũng từ cái cửa Vô Vi ấy nhảy thẳng liền Đất Như Lai. Ông ngồi yên lặng suối lòng không động như nước trong , tất cả Sáu Căn thanh tịnh là tận đầu nguồn Tâm tới cửa Vô Vi . Tiếng sấm nổ cửa lòng chợt mở, tiếng sấm là chất xúc tác là cơ duyên bên ngoài hỗ trợ làm cho cả Thân Tâm Ông nhảy qua khỏi cửa Vô Vi trực nhập Đất Như Lai…Là Cư Sĩ nhưng thật ra còn dính với đời khá nhiều. Ông là một Đại Quan dưới triều Tống, là tục gia, đệ tử của Thiền Sư Tương Sơn Pháp Tuyền. Nhân một hôm quan sự rảnh rỗi, ngồi nghỉ ngơi tại công đường, bỗng nhiên khi nghe tiếng sấm nổ bên tai, tức thì hoát nhiên đại ngộ, Ông liền làm bài kệ:
“Mặc tọa công đường hư ẩn kỷ, (Ngồi lặng công đường luống tựa ghế,
Tâm nguyên bất động trạm như thủy Suối lòng không động như nước trong
Nhất thanh tịnh lịch đỉnh môn khai, Nghe sấm nổ cửa lòng chợt mở
Hoán khởi tùng tiền tự gia để ”. Này, lão đang ngồi ở Quê Nhà).
Đối với Triệu Biện, đã có Tâm Tìm Đạo từ trước. Ông là một vị quan thanh liêm trọng Đạo Lý, có cái Tâm thuần đức, thanh khiết, lại có sẵn tấm bản đồ Đạo Lý trong tay.Tuy làm quan lớn, nhưng danh vọng tiền tài không buộc trói được Ông, làm việc chỉ vì lợi ích cho chúng sinh, chúng sinh đang cần Ông, khó thay thế được. Mặc dù vậy, sự đời vẫn làm Ông bận rộn, là những đám mây Vô Minh che tối “Hang Tâm” của Ông. Tuy nhiên, những đám mây này đôi lúc cũng có “Khe Hở” và cũng lúc đó cả 6 căn của Thân Tâm Ông đang nghỉ ngơi thả lỏng bất động như mặt nước trong, tiếng sấm nổ bất chợt ngay lúc đó như một giọt nước tràn ly, làm cho cả Thân Tâm với 6 căn hổ dụng đồng loạt thức dậy một lượt, tạo một năng lượng siêu việt xuyên qua “ Khe Hở” của tấm màn Vô Minh xé toạc bức màn này ngộ nhập Bát Nhã. Cái “xé toạc” tấm màn Vô Minh nầy để ngộ nhập Bát Nhã cũng giống như cái “vạch tét cửa mặt” nhận ra ngay cái che đậy Càn Khôn tức thì nắm lấy, vượt khỏi cả căn và trần như Thiền Sư Quế Sâm khai thị :
“Tạt phá diện môn (Vạch tét cửa mặt,
Cái phú Càn Khôn Che đậy Càn Khôn.
Quyết tu tiến thủ, Hẳn phải tiến lấy,
Thoát khước căn trần”. Vượt khỏi căn trần).
Thật ra Phật, Tổ và các Thiền Sư không có TU gì cả mà chỉ “ĐI TÌM CHÂN LÝ” và tìm ngay Cái Gốc, ngay tận Đầu Nguồn chứ không tìm nơi Ngọn:
“Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật
Chọn lá tìm cành ta chẳng đương”. (Thiền Sư Huyền Giác).
Các Ngài thương chúng sanh để ở trên đầu, dặn dò cặn kẽ: Đạo ngay trước mặt, không cần phải đi đâu xa, như Thiền Sư Sư Bị đã khai thị:
“Tột 10 phương thế giới là một hòn Minh Châu, ngươi hội để làm gì?”. Ngài chỉ thêm: “ Giống như người ngồi trong biển cả nước ngập lút đầu, còn đưa tay hỏi người xin được nước uống”.
Đạo đang ở trùm khắp, nơi nào cũng có: “Mở mắt ra là thấy Đạt Ma”. Ngay cõi TA BÀ đã là cõi Cực Lạc hay Niết Bàn, chính Đức Phật Thích Ca đã chứng ngộ và thành Phật ngay cõi Ta Bà này, cũng như các vị Tổ và vô số các vị Thiền Sư ngoại hạng…
“Biển sâu nước khỏa cũng bằng
Mây tan gió tịnh Bóng Trăng sáng lòa
Cõi TA BÀ có tòa CỰC LẠC,
Dòng sông MÊ biển GIÁC chẳng xa
Y theo giáo pháp THÍCH CA
Tự nhiên BẢN TÁNH DI ĐÀ phóng quang”.
(Sám Thảo Lư).
Đạo Lớn đang ở trùm khắp cả Hư Không và ở ngay trên sự vật : từ hạt bụi, từ nguyên tử cho đến vũ trụ bao la!!!
“Ba ngàn thế giới tay sờ đụng,
Mắt chẳng nhìn ra bởi Trí Mù”.
TRÍ MÙ bởi vì TÂM MÊ. TÂM MÊ là một cơn ĐẠI MỘNG có đủ sáu ngã luân hồi .TÂM NGỘ là KHÔNG; là VÔ TRỤ NIẾT BÀN; là “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA”.
ĐẠI MỘNG BỌT NƯỚC
Một điểm Viên Quang bỗng hóa Rồng Từ thuở Vô Minh đã có ta,
Âm dương mây khí nổi cuồng phong Mãi mê lãng tử phải xa nhà
Hư Không dậy sóng Càn Khôn xuất Lắc lư Bọt Nước soi Trời Đất
Pháp Pháp tụ hình hiện núi sông Điên đảo thế đời, lạc cảnh Ma
Lục đạo TÂM MÊ ngàn dặm chướng Sinh tử chập chùng bao sóng gió
Luân hồi ĐẠI BỆNH thế gian đồng Tử sinh đưa đón mỗi sát na
Mộng du chư tướng phô trò huyễn Sắc Không Thân Bọt trôi tìm Bến
Chợt tỉnh về nhà SẮC tức KHÔNG. Chợt nhận Biển Nhà : Pháp Thân ta.
(Ngộ Thâm).
NGỘ THÂM
MICHIGAN , August 24th, 2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét