Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

THUYẾT GIẢNG KINH LUẬN-PHẨM BÁT NHÃ THỨ HAI -PHÁP BẢO ĐÀN KINH


 
THUYẾT GIẢNG KINH LUẬN
Hòa Thượng Thích Duy Lực
Thích Đồng Thường Ghi Thành Văn
-o0o-
Giảng giải 
PHẨM BÁT NHÃ THỨ HAI 
PHÁP BẢO ĐÀN KINH

Chánh văn:  
  
Qua ngày sau, Vi Sử Quân xin giảng nữa, Sư thăng tòa bảo đại chúng rằng: “Cần phải tĩnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã La Mật Đa”. Lại nói: “Thiện tri thức, trí bồ đề Bát Nhã của chúng sanh vốn sẵn có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ thiện tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. Phải biết Phật tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, nên mới có kẻ ngu người trí. Nay ta thuyết pháp Bát Nhã Ba La Mật, khiến cho mọi người đều được trí tuệ, hãy chú tâm nghe. 
  
“Thiện trí thức, người đời suốt ngày miệng niệm Bát Nhã, chẳng nhận được Tự Tánh Bát Nhã, cũng như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ thuyết “Không”, muôn kiếp chẳng được Kiến Tánh, rốt cuộc vô ích. 
  
Thiện tri thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng phạn, dịch là đại trí huệ đến bờ bên kia, đây cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm, miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật. 
  
Sao gọi Ma Ha? Ma Ha là đại, tâm lượng như hư không, chẳng có biên giới, cũng chẳng vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài ngắn, cũng chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi. 
  
Các cõi Phật đều đồng như  hư không, diệu tánh con người vốn không, chẳng có một pháp có thể đắc, tự tánh chơn không cũng như thế. 
  
Thiện tri thức, chớ nên nghe ta nói “không” mà liền chấp “không”. Trước nhất chớ chấp “không”, nếu để tâm “không” tĩnh tọa là lọt vào “vô ký không”. 
  
Thiện tri thức, thế giới hư không bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời, mặt trăng, núi sông, đất đai, cây cối, biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp ác pháp thiện, thiên đàng địa ngục, tất cả đều ở trong hư không, “Tánh Không” của con người cũng vậy. 
  
Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là đại, muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người. Nếu thấy điều dữ điều lành của con người, tất cả đều chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi là Đại, nên nói là Ma ha. 
  
Thiện tri thức, kẻ mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có kẻ mê để tâm “không” mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thể nói gì được, vì họ rơi vào tà kiến. 
  
Thiện tri thức, tâm lượng quảng đại cùng khắp pháp giới, dùng thì liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là Bát Nhã.Giảng giải: 
  
Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng, bản dịch Việt văn, nhiều người đều biết. Nhưng tôi thấy chánh văn không đúng ý của Lục Tổ. Có người hỏi tôi: Thiền tông cần có nghi tình, mà trong Pháp Bảo Đàn, không thấy Lục Tổ dạy người khởi nghi tình? 
  
Tôi trả lời: Nếu trong Pháp Bảo Đàn dạy người khởi nghi tình, thì ngài Huệ Năng không có tư cách làm Lục Tổ. 
  
Bởi vì, trước đời nhà Tống, chư Tổ không có dạy người tham công án hay tham thoại đầu, mà dùng thủ đoạn. Thủ đoạn của chư Tổ làm cho người tham thiền mà không biết mình tham thiền, tức là khởi lên chân nghi mà tự mình không biết nghi.
Nếu Lục Tổ nói trắng ra thì ngài không có tư cách làm Lục Tổ. Như Hoài Nhượng gặp Lục Tổ, Lục Tổ hỏi: Vật gì đến thế này? Hoài Nhượng thắc mắc 8 năm sau mới ngộ. Nhưng trong Pháp Bảo Đàn không có nói thắc mắc đến 8 năm, chỉ nói là ngộ hay trả lời được.
Vi Sử Quân là quan địa phương (nay gọi là tỉnh trưởng) ở Tào Khê (nay chùa Nam Hoa) thỉnh Lục Tổ thuyết pháp.
Lục Tổ thăng tòa thuyết với đại chúng rằng: Hãy tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lục Tổ gọi người nghe pháp là thiện tri thức, trí huệ của Bát Nhã, người thế gian người nào cũng có, chỉ vì tâm mê mà không được tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức chỉ dẫn mới được kiến tánh.
Phải biết, Phật tánh của người ngu với người trí không có sai biệt, chỉ vì mê ngộ không giống nhau, nên có ngu có trí. Bây giờ, tôi nói pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa này, để cho quý vị đều được trí tuệ, quý vị để ý nghe.
Thiện tri thức! Suốt ngày miệng niệm Bát Nhã, nhưng sự thật không biết Tự Tánh Bát Nhã, cũng như nói ăn mà không ăn thì không no; miệng nói “không”, nhưng qua muôn kiếp không được kiến tánh, cuối cùng vô ích.
Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là chữ phạn tiếng Aán Độ, dịch ra đại trí huệ, tức đến bờ bên kia, mà cái này thì tâm thực hành, chứ không phải ở miệng niệm. Nếu miệng niệm mà tâm không thực hành giống như huyễn hóa, như lộ như  điển thì không có ích, chẳng thực tế.
Nếu miệng niệm mà tâm thực hành thì tâm và miệng được tương ưng, mới đúng với bổn tánh Phật, vì bổn tánh của mình là Phật. Lìa tánh chẳng có Phật nào khác! Như nói “Tự tâm là Phật, ngoài tâm không có Phật”.
Chữ “đại” là siêu việt số lượng như hư không, chẳng có số cho mình đếm được, không thể suy nghĩ. Cho nên, không biên giới, không vuông tròn, không lớn nhỏ, không màu sắc vàng xanh đỏ trắng, không trên dưới, không dài ngắn, không sân, không vui, không thị phi, không thiện ác, không đầu đuôi, tức là không có tất cả tương đối.
Như tôi giảng Bát Nhã Tâm Kinh, nếu lọt vào tương đối thì không phải Bát Nhã. Bát Nhã là dụng tự tánh automatic, tất cả chư Phật đều như hư không. Diệu tánh của người thế gian vốn  KHÔNG, tức là không có pháp nào cho mình được.
Cho nên, tôi dạy tham thiền là vô sở đắc. Chân tâm tự tánh cũng như thế, không có một pháp nào cho mình đắc được. Nếu có pháp nào đắc được thì không gọi là Bát Nhã, không phải kiến tánh thành Phật. Nhưng Lục Tổ sợ người ta đuổi theo lời nói, hiểu theo lời nói, ở đây giải thích.
Thiện tri thức! Đừng nghe tôi nói không mà chấp không. Nếu ngồi tĩnh tọa để tâm không là lọt vào vô ký không. Vì vậy tôi dạy tham thiền, chẳng thà có nghi tình có vọng tưởng, còn tốt hơn không có nghi tình và không có vọng tưởng. Vì không có nghi tình không có vọng tưởng lọt vào vô ký không là thiền bệnh.
Thế giới hư không bao hàm tất cả vạn vật, mặt trời, mặt trăng, vì sao, sơn hà, đại địa, núi sông, thảo mộc, tòng lâm, người ác, người thiện, pháp ác, pháp thiện, thiên đường, địa ngục... tánh Không của người thế gian cũng như vậy, bao hàm vạn pháp, ấy gọi là đại.
Đại là siêu việt số lượng, tất cả vạn pháp đều ở trong tánh Không, chẳng thiếu sót một pháp nào cả. Nếu mình thấy tất cả pháp ác pháp thiện mà không lấy không bỏ, không nhiễm trước thì tâm như hư không, nên gọi là Đại, tức Ma Ha.
Người mê miệng nói mà tâm không thực hành, người trí miệng nói thì tâm thực hành. Còn có người chấp theo ý của mình, cho rằng trong tâm chẳng suy nghĩ gì hết, rồi tự xưng là Đại; Lục Tổ nói những hạng người này, không thể nói chuyện, vì họ có tà kiến sâu nặng khó phá được.
Tôi thường nói, đối với chữ “Không” của Phật pháp là hiện ra cái dụng, chứ chẳng phải không có gì! Pháp tu của ngoại đạo hay pháp môn khác Tổ Sư thiền, thường thường muốn cho tâm không, tức là không có một niệm gì hết. Nhưng pháp môn Tổ Sư thiền không cho tâm không, tâm nghi phải liên tục, không để niệm dứt.
Cho nên, Lục Tổ nói: “Tâm lượng rộng lớn khắp pháp giới, dụng thì rõ ràng”. Cái không của tự tánh trống rỗng, như căn nhà chẳng có khoảng không thì chẳng thể ở được. Cái tách chẳng có khoảng không thì không thể đựng nước được.
Phàm muốn dùng thì phải “không”, có “không” mới dùng được, bất cứ cái gì cũng vậy, chứ không phải là cái “không” chết! Vì thế, dùng thì rõ ràng, ứng dụng biết tất cả là một, một là tất cả, đi ở tự do. Tâm thể cùng khắp pháp giới, không có cái nào làm chướng ngại, ấy là Bát Nhã.
Chánh văn:
Thiện tri thức! Trí Bát Nhã đều từ tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ dùng lầm ý thức, gọi là chơn tánh tự dụng.
Nhất chơn nhất thiết chơn, tâm lượng là việc lớn. Chẳng nên hành đạo nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói “không” mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như thường dân tự xưng là vua thì không được, hạng người này chẳng phải đệ tử của ta.
Thiện tri thức! Sao gọi là Bát Nhã? Bát Nhã dịch là trí huệ. Bất cứ nơi nào lúc nào, niệm niệm chẳng ngu muội (chẳng chấp thật), thường hành đúng trí huệ, tức là hạnh Bát Nhã. Một niệm ngu muội (chấp thật) thì Bát Nhã tuyệt, một niệm trí huệ thì Bát Nhã sanh. Con người ngu mê chẳng thấy Bát Nhã, miệng nói Bát Nhã mà trong tâm thường ngu muội, tự nói ta tu Bát Nhã, niệm niệm nói “không” mà chẳng biết “Chơn Không”. Bát Nhã không hình tướng, ấy là tâm trí huệ, nếu hiểu thấu như thế gọi là Trí Bát Nhã.
Sao gọi là Ba La Mật? Ba La Mật là tiếng Aán Độ, dịch là đến bờ bên kia, nghĩa là lìa sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi là bờ bên này; lìa cảnh thì chẳng sanh sanh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi là Ba La Mật.
Thiện tri thức! Kẻ mê miệng niệm, đang trong lúc niệm có vọng có sai, niệm niệm nếu hành, gọi là chơn tánh. Kẻ ngộ pháp này là pháp Bát Nhã, kẻ tu hạnh này là hạnh Bát Nhã, chẳng tu tức là phàm phu, một niệm tu hành tự thân bằng Phật.
Thiện tri thức! Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề, niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ Đề.
Thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi  cũng không đến, tam thế chư Phật từ đó ra. Cần phải dùng Đại Trí Huệ phá ngũ uẩn trần lao, tu hành như thế, nhất định thành Phật, đổi tam độc thành giới, định, huệ.
Giảng giải:
Thiện tri thức! Trí Bát Nhã là do tự tánh sanh, không những Bát Nhã mà tất cả vạn pháp đều do tự tánh sanh ra, không phải ở ngoài vào, không dùng ý thức sai lầm, mới gọi là chân tánh tự dùng. Một chân nên tất cả đều chân, một giả thì tất cả đều giả.
Tâm lượng là sự lớn, không hành đường nhỏ. Đừng có suốt ngày nói “không” mà không tu cái hạnh này, cũng như thường dân tự xưng là vua thì không được. Nếu thường dân xưng vua thì ở thời xưa bị chém đầu, nên Lục Tổ nói là “những người này không phải đệ tử của ta”.
Tại sao gọi là Bát Nhã? Bát Nhã dịch là trí huệ, tất cả chỗ và thời gian, niệm không ngu si, thường thực hành niệm trí huệ, tức là hạnh Bát Nhã. Nếu có một niệm ngu si thì Bát Nhã dứt, một niệm trí thì Bát Nhã sanh.
Tại sao một niệm ngu? Nếu mình có chấp trước cái gì là ngu. Vô sở trụ là không chấp trước cái gì, không lọt vào tương đối, không lọt vào tứ cú là trí. Cho nên, Tổ sư nói “không có Bát Nhã không phải Bát Nhã, có Bát Nhã cũng không phải bát Nhã”. Tại sao? Không có Bát Nhã thì không phải Bát Nhã, vậy người ta hiểu; nói có Bát Nhã không phải Bát Nhã thì người ta không hiểu, vì rơi vào tương đối là “có” thì phải có cái “không” để đối đãi.
Người thế gian ngu mê không thấy Bát Nhã, miệng hay nói Bát Nhã, mà trong tâm lại chấp trước, nói rằng “ta tu Bát Nhã”, nên gọi là thường ngu.
Nói “không” là Bát Nhã thì sai lầm, vì Bát Nhã đâu phải “không”, không đối với sắc là tương đối. Nếu ở trong tứ  cú thì Không là cú thứ nhì. Miệng cứ nói không mà chẳng biết chơn không, chơn không là vô sở trụ, không phải trụ nơi không.
Bát Nhã không có hình tướng, tâm trí huệ tức là Bát Nhã, tâm trí huệ thì vô sở trụ, nếu có sở trụ thì không phải Bát Nhã. Giải như thế mới gọi là Bát Nhã trí.
Thế nào là Ba La Mật? Đây là tiếng Aán độ dịch là bờ bên kia, nghĩa là lìa sanh diệt. Nếu chấp trước cảnh gì thì sanh diệt khởi lên, như nước vốn yên tịnh, khi gió thổi thì làn sóng nổi lên, nên gọi là bờ bên này. Nếu lìa cảnh, tức không chấp trước cảnh thì không có sanh diệt khởi lên, như dòng nước lưu thông bình thường, nên gọi là bờ bên kia.
Bờ bên nay có sanh diệt, có phiền não không được tự do tự tại; bờ bên kia không có chấp trước, tức là bệnh chấp đã hết, không có phiền não, không có khổ. Nhưng người mê, lúc miệng niệm, tâm có vọng có quấy, tức là không chấp trước cái này thì chấp trước cái kia.
Nếu niệm vô sở trụ gọi là chơn tánh, ngộ pháp này gọi là pháp Bát Nhã, tu hạnh này gọi là hạnh Bát Nhã, không tu là phàm phu, một niệm tu là tự thân bằng Phật.
Tại sao một niệm tu là tự thân bằng Phật? Cũng như tham thiền là đề lên câu thoại đầu, khởi nghi tình; chính nghi tình không lọt vào tương đối, không lọt vào tứ cú. Niệm niệm tu hành thì lúc ấy nghi tình liên tục, không có sanh diệt nổi lên, không có phiền não, không có đau khổ, mà hiện ra dụng Bát Nhã automatic của tự tánh.
Cho nên, Lục Tổ nói “phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề, niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật”, không có 2 thứ nên gọi là bất nhị, mà ở đây có người y văn giải nghĩa có thể tưởng lầm.
 Vì lời nói nên mới có trước sau, ở trên nói “phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề”, tức là không có 2 thứ để đối đãi. Nếu không có đối đãi thì tại sao nói niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật? Đã nói phiền não tức Bồ Đề, phàm phu tức Phật, mà phàm phu là mê, còn Phật là giác ngộ! Vì bệnh chấp thật của chúng sanh hay phân biệt mê và ngộ, phàm phu và Phật. Nên Lục Tổ mới nói như vậy.
Kỳ thật, niệm không có trước sau, nếu nói có trước sau thì kinh Kim Cang đâu nói “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc!” Có trước sau, mê ngộ là 2.
Đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, khỏi cần nghĩ đến trước sau gì hết, khỏi cần chấp trước cảnh hay lìa cảnh. Vì nghi tình là cây chổi automatic quét sạch tất cả. Cho nên, nói “phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề”, vì nghi tình không biết, nên không có phân biệt.
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tối tôn tối thượng, không trụ, không đi, không lại. Ba đời chư Phật đều trong đó sanh, vì vậy mình trí huệ Bát Nhã đập tan ngũ uẩn trần lao, tu hành như thế sẽ nhất định thành Phật. Nhưng nói đập tan đả phá ngũ uẩn trần lao là không phải mình có nổi ý đả phá, vì có nghi tình thì tự nhiên được đả phá.
Chánh văn:
Thiện tri thức! Pháp môn này từ Bát Nhã mà sanh ra tám mươi bốn ngàn trí huệ. Tại sao vậy? Vì con người có bốn mươi tám ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì trí huệ luôn luôn hiển hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm vô ức (không ghi nhớ), vô nhiễm trước, chẳng khởi cuồng vọng. Đối với tất cả pháp, dùng trí huệ chơn như tự tánh chiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ, tức là Kiến Tánh Thành Phật.
Thiện tri thức! Muốn đi vào pháp giới thâm sâu và Bát Nhã Tam Muội, phải tu hạnh Bát Nhã, thực hành theo kinh Kim Cang thì sẽ được Kiến Tánh. Phải biết cái công đức kinh này vô lượng vô biên, trong kinh rõ ràng tán thán, chẳng thể kể xiết. Pháp môn này là Tối Thượng thừa, vì người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà thuyết, kẻ căn khí nhỏ nghe được khó tin.
Tại sao vậy? Ví như trận mưa bão lụt, thành thị nông thôn đều bị cuốn trôi như cỏ lá, nếu mưa bão trong biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt; như người thượng thừa, người tối thượng thừa nghe kinh Kim Cang, tâm liền khai ngộ.
Nên biết tự tánh vốn có trí Bát Nhã, trí huệ tự tánh thường chiếu soi nên chẳng nhờ văn tự, ví như nước mưa chẳng do trời có, mà do khí trời làm nên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cối, hữu tình vô tình, đều được thấm nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn, hợp thành nhất thể. Trí Tự Tánh Bát Nhã của chúng sanh cũng vậy.
Thiện tri thức! Kẻ tiểu căn nghe được pháp môn đốn giáo này, như cây cỏ mà gặp mưa bão, đều tự gãy đổ chẳng sanh trưởng được, kẻ tiểu căn cũng vậy. Họ vốn có trí Bát Nhã đồng với người đại trí, chẳng có khác biệt, tại sao nghe pháp mà chẳng được tự ngộ? Đó là do tà kiến chướng nặng, phiền não căn sâu, như mây lớn che khuất mặt trời, chẳng được gió thổi nên chẳng hiện ánh sáng.
Trí Bát Nhã vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ tự tánh, tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo, chẳng chấp lấy hình tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng ô nhiễm, tức là kiến tánh.
Giảng giải:
Thiền tông rất chú trọng nghi tình, tu hành phải có nghi tình. Trước đời nhà Tống, chư Tổ dùng thủ đoạn cho người tham học phát khởi nghi tình mà tự mình không biết. Sau đời nhà Tống bắt buộc tham công án  tham thoại đầu mới khởi được nghi tình.
Đời xưa và đời nay có nghi tình mới được ngộ đạo, như Phật Thích Ca ngồi dưới gốc cây bồ đề cũng khởi nghi tình mà ngộ. Chính nghi tình này đầy đủ giới, định, huệ. Cho nên, biến tam độc là tham, sân, si thành giới, định, huệ. 
  
Tại sao nghi tình đầy đủ giới, định, huệ? Vì nghi tình là không biết gì cả, không nghĩ đến thiện ác. Không suy nghĩ là giới, nghi tình miên mật thì vọng tưởng khởi lên không được, tâm không tán loạn là định. Chính nghi tình không lọt vào tương đối, không lọt vào tứ cú thì vô sở trụ là huệ. 
  
Ở đây mặc dầu không có pháp môn nào, nhưng thủ đoạn của Tổ là pháp môn, làm cho người khởi lên nghi tình, mà người tham thiền tự mình không biết, ấy là pháp môn rồi. Chứ không phải đời sau này dạy công án hay thoại đầu là pháp môn! 
  
Pháp môn của ta tức là môn phái của Tổ Sư thiền là từ Bát Nhã sanh ra 84.000 trí huệ. Tại sao? Vì người thế gian có 84.000 trần lao. Nếu không có trần lao thì trí huệ thường hiện ra, tức là cái dụng của tự tánh. Bây giờ trần lao lấp đầy hết, không có cái trống rỗng thì cái dụng automatic của tự tánh không được hiện ra. 
  
Cho nên, quét trống rỗng bao nhiêu thì cái dụng của tự tánh hiện ra bấy nhiêu, quét trống rỗng tích cực thì dụng tích cực là Phật. Cái dụng tức là trí huệ, trí huệ của người thế gian cần phải tác ý. Trí huệ Bát Nhã được dùng thì automatic, không cần tác ý. 
  
Bây giờ có nhiều Phật tử tham thiền đã chứng tỏ, như Trương Quốc Anh, Trì Hằng Thiền và nhiều Phật tử được hiện ra cái dụng của tự tánh phần nào. 
  
Trí huệ không lìa tự tánh, Lục Tổ thuyết pháp không lìa tự tánh, nếu lìa tự tánh thuyết pháp gọi là tướng thuyết, trong kinh này có nói. Ngộ pháp này tức là vô niệm, vô niệm vô trước là tôi thường nói, quá khứ đừng ghi nhớ, hiện tại chẳng trụ, vị lai không sắp đặt, gọi là vô trước, vô niệm. Vô niệm không phải không có niệm nào hết! Không khởi lên cuồng vọng thì cái dụng tự tánh automatic hiện ra, gọi là tánh chân như. 
  
Lấy trí huệ để quán chiếu tất cả pháp. Nói quán chiếu thì người ta có thể tưởng lầm là giáo môn quán chiếu. Nghi tình tự nhiên quán chiếu, tuy lấy tên quán chiếu nhưng không phải quán chiếu. Như Pháp Bảo Đàn nói: “Tọa thiền lấy tâm tọa, chứ không phải lấy thân tọa”. Quán chiếu của nghi tình là không lấy không bỏ thì cuối cùng sẽ kiến tánh thành Phật. 
  
Mình muốn nhập thậm thâm pháp giới. 2 chữ “thậm thâm” này là siêu việt số lượng, nghĩa rộng hơn vũ trụ. Muốn được chánh định Bát Nhã thì phải tu hạnh Bát Nhã. Tham thiền là hành thâm Bát Nhã, tức tu hạnh Bát Nhã, cũng gọi trì kinh Kim Cang. 
  
Thường thường người ta cho tụng kinh là trì kinh  thì sai lầm. Tụng kinh là đọc tụng, trì là theo ý của kinh thực hành, trì và tụng có liên quan với nhau. Trong kinh Kim Cang nói: “Đọc tụng, thọ, trì”, nếu đọc tụng không hiểu nghĩa giống như không đọc tụng. Đọc tụng hiểu ý nghĩa của Phật, rồi mới lãnh thọ thực hành. 
  
Cho nên, cuối cùng của mỗi cuốn kinh đều có “tín, thọ, phụng, hành”. Trì là phụng hành, tham thiền chính là trì kinh thì được kiến tánh, nếu tụng suông không bao giờ kiến tánh. Vì thế công đức kinh này có vô lượng vô biên, trong kinh Kim Cang tán thán nhiều. 
  
Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì người thượng căn mà nói, nếu người tiểu căn nghe không tin. Tại sao? Như trời mưa lớn làm cho cây cỏ bị xối mòn ngả gãy, còn mưa ở nơi biển thấy nước không tăng thêm. 
  
Như người thượng căn nghe kinh Kim Cang tâm lực được ngộ được hiểu, vì bổn tánh của mình có trí Bát Nhã. Nếu mình quyết tử tham thiền thì trí Bát Nhã hiện ra, do thường quán chiếu tức là có nghi tình, khỏi cần văn tự. Nên, Thiền tông nói: “Bất lập văn tự” là vậy. 
  
Theo tập quán của thời Lục Tổ cho rằng con rồng làm mưa, làm cho hữu tình và vô tình đều được lợi ích. Tất cả sông lớn, sông nhỏ đều chảy vào biển lớn hợp thành một thể. Trí của chúng sanh và bổn tánh Bát Nhã cũng như thế. 
  
Người tiểu căn nghe pháp đốn giáo, như cây nhỏ bị mưa lớn xối xuống, không có lợi ích mà lại bị ngả đổ. Trí Bát Nhã của người tiểu căn và trí Bát Nhã của người thượng trí thì không sai biệt. 
  
Tại sao nghe pháp không khai ngộ? Vì bị tà kiến làm chướng ngại, tà kiến nhiều chừng nào thì căn phiền não sâu chừng nấy. Chính tà kiến ấy giống như mây lớn che khuất mặt trời, nếu không có gió thổi thì ánh sáng mặt trời không thể hiện ra. 
  
Trí Bát Nhã không lớn không nhỏ, vì tâm chúng sanh mê ngộ không giống nhau. Người có tâm mê chỉ thấy Phật ở ngoài, không tin tự tâm mình là Phật, nên không ngộ được tự tánh, gọi là tiểu căn. 
  
Phật giáo đồ phần nhiều hướng ở ngoài mà tìm, chứ không tìm ở tự tâm. Nếu ngộ pháp đốn giáo, không chấp ở ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi lên chánh kiến. 
  
Chánh kiến là gì? Có nghi tình là chánh kiến, vì nghi tình không trụ nơi nào thì phiền não trần lao không thể nhiễm được. Nghi tình miên mật nên vọng tưởng khởi lên không được, cuối cùng được kiến tánh.
Chánh văn: 
  
Thiện tri thức! Trong ngoài chẳng trụ đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm thì thông đạt vô ngại. Nếu tu được hạnh này, với kinh Bát Nhã vốn chẳng sai biệt. 
  
Thiện tri thức! Tất cả kinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, 12 bộ kinh đều do người đặt ra, vì có tánh trí mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Nên biết vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả kinh sách là vì con người mà nói. Vì trong con người có kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân, kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy. 
  
Thiẹân tri thức! Khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm, vậy sao chẳng ở nơi tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh? Kinh Phạm Võng nói: “Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được tự tâm, thấy được bản tánh, tức thành Phật đạo”. Kinh Duy Ma Cật nói: “Ngay lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn tâm”. 
  
Thiện tri thức! Ta ở nơi Hòa thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy chơn như bổn tánh, cho nên hoằng dương giáo pháp này, khiến hành giả đốn ngộ Bồ Đề, mọi người tự thấy bổn tâm, tự kiến bản tánh.
Nếu chẳng tự ngộ, phải tìm người đã khai ngộ pháp Tối Thượng thừa, chỉ ngay đường lối chánh pháp, vì thiện tri thức có nhân duyên lớn giáo hóa dẫn dắt, khiến hành giả được Kiến Tánh, tất cả thiện pháp đều do thiện tri thức mà được kiến lập.
Tam thế chư Phật, 12 bộ kinh ở trong tự tánh vốn đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được, nên phải nhờ thiện tri thức chỉ ra mới thấy, kẻ tự ngộ chẳng phải nhờ đến người khác. Nếu cố chấp rằng phải luôn luôn ỷ lại thiện tri thức mới mong được giải thoát thì không bao giờ được.
Tại sao? Vì ở trong tự tâm sẵn có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng điên đảo, dẫu cho gặp thiện tri thức dạy bảo cũng chẳng cứu được. Nếu khởi chơn tánh Bát Nhã tham cứu, trong một sát na vọng tưởng đều tiêu, nhận được Phật tánh, đốn siêu Phật địa.
Thiện tri thức! Dùng trí huệ chiếu soi trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức vốn là giải thoát, được giải thoát tức là Bát Nhã Tam Muội, Bát Nhã Tam Muội tức là vô niệm.
Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp không nhiễm trước gọi là vô niệm, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra cửa lục căn, đối với lục trần mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do, ứng dụng vô ngại, tức là Bát Nhã Tam Muội, tự tại giải thoát, gọi là vô niệm. Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là “trăm điều chẳng nghĩ, chỉ cho niệm tuyệt”, ấy là pháp trói buộc, tức là biên kiến.
Thiện tri thức! Kẻ ngộ pháp Vô Niệm thông đạt vạn pháp, ngộ pháp Vô Niệm thấy được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp Vô Niệm được đến địa vị Phật.
Thiện tri thức! Nếu người đời sau ngộ được pháp này, đem pháp môn đốn giáo này với những người đồng một chánh kiến, chánh hạnh phát nguyện cùng tu, như cúng dường Phật mà suốt đời chẳng thối lui, người ấy nhất định được vào Thánh vị. Nhưng phải truyền thọ, từ trước đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn, chẳng được ẩn giấu chánh pháp.
Nếu chẳng phải đồng môn chánh kiến, chánh hạnh, là người ở trong pháp khác thì chẳng được truyền thọ. Vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng pháp môn này, phá hoại truyền thống Chánh Pháp của Cổ đức, làm cho muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt Phật chủng, cuối cùng vô ích.
Thiện tri thức! Nay ta có một bài Vô Tướng Tụng, mọi người hãy tự giữ lấy, không kể xuất gia, tại gia, nên y theo bài tụng mà tu hành. Nếu chẳng tự tu, mà chỉ ghi nhớ lời ta cũng chẳng ích lợi gì. Bài tụng rằng:
Giảng giải: 
  
Nội tâm và ngoại cảnh là tương đối, Lục Tổ sợ mình chấp vào lời nói của Tổ, nên ngài nói: “Nội ngoại đều không trụ”. Vì bản tánh của mình hoạt bát khứ lai tự do. Nghi tình quét sạch hết chấp tâm thì thông đạt, không có chướng ngại. Nếu tu hành này với kinh Bát Nhã không có sai biệt. 
  
Tham thiền là trì đúng kinh Bát Nhã. Tất cả kinh Đại thừa, Tiểu thừa, 12 bộ kinh đều do người làm ra. Do tánh trí huệ mới kiến lập được, nếu không có người thế gian thì muôn pháp cũng không có. Phải biết muôn pháp của pháp giới vốn từ người làm ra. Tất cả kinh sách đều từ người mới có. 
  
Nhưng có người ngu người trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân. Người ngu hỏi người trí, người trí thuyết pháp cho người ngu nghe. Người ngu thình lình được ngộ, với người trí không có khác biệt. Cho nên không ngộ, Phật tức là chúng sanh; nếu một niệm ngộ rồi, chúng sanh là Phật. Vì Phật và chúng sanh là tương đối. Vạn pháp đều ở trong tự tâm, không phải từ bên ngoài mà có. Tại sao không ở trong tự tâm mà kiến tánh? Vậy muốn kiến tánh thì phải tham thiền. 
  
Đã tin pháp môn, mà không tin tự tâm mình là Phật thì tu không thể kiến tánh. Lục Tổ  dẫn chứng kinh Phạm Võng: “Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được tự tâm, thấy được bản tánh, tức thành Phật đạo”. Lục Tổ lại dẫn chứng kinh Tịnh Danh tức là kinh Ma Cật ý nghĩa cũng như vậy. 
  
Nếu tham thiền, công phu đến thành khối, khi gặp cơ duyên nào, như bị vấp té cũng ngộ, bị đánh bạt tai cũng ngộ, nghe một tiếng hát cũng ngộ,… lúc ngộ thình lình hoát nhiên được bổn tâm (Phật). 
  
Lục Tổ không những lấy kinh nghiệm để dẫn chứng, mà còn lấy kinh nghiệm của mình, nói rằng: “Tôi lúc ở Tổ Hoằng Nhẫn, nghe Tổ giảng câu ‘ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’ của kinh Kim Cang, thình lình hoát nhiên ngộ. Nên tôi mới lấy pháp đốn giáo này để hoằng dương lưu hành, làm cho người được giác ngộ”. 
  
Mình phải nhất tâm tham thiền sẽ được thấy bổn tánh. Nếu không tự ngộ, cần phải tìm thiện tri thức hiểu pháp Tối thượng thừa để chỉ đường lối chánh pháp. Vì thiện tri thức có nhân duyên lớn giáo hóa chỉ đạo, làm cho mình được mau kiến tánh. 
  
Ba đời chư Phật, 12 bộ kinh, ở trong tánh mình đầy đủ, chứ không phải mình học từ cuốn kinh này qua cuốn kia mới biết được. Lục Tổ không biết chữ, khi ngộ rồi, nói ra thành Pháp Bảo Đàn Kinh. Cái học không phải của mình, nếu tự ngộ nên không cần cầu ở ngoài. Cứ chấp rằng phải nhờ thiện tri thức mới được kiến tánh thì không đúng. 
  
Tại sao? Vì ở nơi tự tâm mình có thiện trí thức, tự tánh có đầy đủ thiện tri thức làm cho mình tự ngộ. Nếu tự mình khởi lên tà kiến mê muội, vọng tưởng điên đảo thì thiện tri thức ở ngoài không thể cứu được. 
  
Nếu mình chân chánh khởi lên Bát Nhã (nghi tình) ở trong một sát na thì vọng niệm đều tiêu diệt. Có nhiều Tổ ngộ một lần thấu qua 3 quan, tức là từ địa vị phàm phu chứng lên quả Phật. Trí huệ Bát Nhã được dùng ra trong ngoài sáng tỏ, biết được tự tâm vốn là giải thoát, chứ không phải trước có bó buộc. 
  
Được giải thoát là chánh định, cũng gọi là Bát Nhã tam muội và gọi là vô niệm. Lục Tổ sợ mình hiểu lầm 2 chữ “vô niệm”, ở đây ngài giải thích thêm. Tại sao gọi là vô niệm? Mình thấy tất cả pháp, tâm không nhiễm trước là vô niệm, tức là cái dụng của tự tánh cùng khắp pháp giới. Nếu không chấp trước ở mọi nơi thì bổn tánh thanh tịnh. Như lục căn tiếp xúc lục trần sanh ra lục thức không bị nhiễm trước. 
  
Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp”, tức là không có nhiễm trước. Vì được tự do, không bị chướng ngại, đó gọi là Bát Nhã tam muội. Tất cả các pháp mình không suy nghĩ, làm cho niệm tuyệt, làm cho pháp bị bó buộc, gọi là biên kiến. Vì lọt vào chấp không, biên kiến là 1 trong 5 thứ ác kiến. 
  
Cho nên, Lục Tổ nói đời sau được pháp của ta phải lấy pháp môn đốn giáo này, nói với người đồng kiến đồng hành. Nhưng người đồng kiến đồng hành phải phát nguyện thọ trì như phụng sự Phật mới được, suốt đời không lui sụt, nhất định sẽ nhập vào Thánh vị. 
  
Sự truyền thọ là từ ở trên xuống đây là nói “truyền” không giấu chánh pháp, nếu người không phải đồng kiến đồng hành, ở trong pháp khác thì không được truyền thọ. Vì truyền thọ sẽ hại người đó, rốt cuộc vô ích. Tại sao? Vì người ngu không hiểu, nên phỉ báng pháp môn này, làm cho muôn ngàn kiếp chấm dứt hạt giống Phật. 
  
Lục Tổ có bài Tụng Vô Tướng khuyên những người tham thiền, bất cứ tại gia hay xuất gia đều phải theo đó mà tu hành. Nếu không tự tu, chỉ nhớ lời nói là vô ích.

Chánh văn:
Thuyết thông lại tâm thông, 
Như mặt trời giữa không, 
Chỉ truyền pháp kiến tánh,  
Hoằng pháp phá tà tông. 
Pháp vốn chẳng đốn tiệm, 
Mê ngộ có nhanh chậm, 
Pháp môn  kiến tánh này, 
Kẻ ngu chẳng thể tri, 
Thuyết tuy muôn ngàn lối, 
Đúng lý chỉ là một, 
Nhà phiền não đen tối, 
Thường nên sanh huệ nhựt, 
Tà khởi phiền não tới, 
Chánh đến phiền não trừ, 
Tà chánh đều chẳng chấp,  
Thanh tịnh đến cùng tột. 
Tự tánh vốn Bồ Đề, 
Khởi tâm tức là vọng, 
Tịnh tâm ở trong vọng, 
Niệm chánh chẳng tam chướng, 
Người đời muốn tu đạo, 
Tất cả đều chẳng ngại, 
Thường tự thấy lỗi mình, 
Với đạo tức tương ưng. 
Muôn loài tự có đạo, 
Mỗi mỗi chẳng ngại nhau, 
Ngoài tâm đi tìm đạo, 
Suốt đời chẳng thấy đạo, 
Sau cùng tự áo não. 
Muốn thấy được chơn đạo, 
Hạnh chánh tức là đạo, 
Nếu tự chẳng đạo tâm, 
Đen tối chẳng thấy đạo. 
Nếu là người chơn tu, 
Chẳng thấy lỗi thế gian, 
Nếu thấy lỗi của người, 
Trái lại thành tự quấy, 
Thấy quấy thành tự lỗi. 
Hễ bỏ tâm chấp quấy, 
Phiền não tự tan rã. 
Thương ghét chẳng quan tâm, 
Duỗi thẳng hai chân nằm. 
Muốn hóa độ chúng sanh, 
Tự phải có phương tiện, 
Khiến họ hết nghi ngờ, 
Tức là tự tánh hiện. 
Phật pháp tại thế gian, 
Chẳng rời thế gian giác, 
Lìa thế tìm Bồ Đề, 
Cũng như tìm sừng thỏ. 
Chánh kiến gọi xuất thế, 
Tà kiến gọi thế gian, 
Tà chánh đều quét sạch, 
Tánh Bồ Đề rõ ràng. 
Tụng này là đốn giáo, 
Cũng gọi đại pháp thuyền. 
Lúc mê tu nhiều kiếp. 
Ngộ chỉ một sát na. 
  
Sư lại nói: “Nay ta ở chùa Đại Phạn thuyết pháp đốn giáo này, nguyện cho pháp giới chúng sanh nghe được pháp này liền kiến tánh thành Phật”. Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, đạo tục, nghe Sư thuyết pháp đều được tỉnh ngộ. Đảnh lễ tán thán rằng: “Lành thay, đâu ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật ra đời”.
Giảng giải:
Bài Vô Tướng Tụng này diễn tả hết pháp môn Tổ Sư thiền. 
   
Thuyết thông lại tâm thông, 
   
Như mặt trời giữa không. 
  
Người giảng kinh thuyết pháp thông, có thể là tâm chưa thông. Nhưng tâm thông, tự nhiên thuyết được thông. Thuyết thông và tâm thông như mặt trời ở trên hư không. Tại sao lấy mặt trời để thí dụ? Vì mặt trời không trụ chỗ nào. Nếu có một sợi chỉ treo mặt trời thì sợi chỉ đó làm khuất ánh sáng, nên mặt trời không chiếu khắp. Tự tánh mình như mặt trời ở trong hư không chẳng dính líu gì. 
  
Tông phái Tổ Sư thiền chỉ truyền pháp kiến tánh, chư Tổ ra đời là phá tất cả tà tông. Vì tà tông không đúng với chánh pháp, còn chấp ngã, chấp nhân ngã hoặc chấp pháp ngã. 
  
Pháp không có đốn tiệm, tại sao lại có đốn giáo? Vì có mê ngộ, nên có nhanh ngộ chậm ngộ, vì vậy mới có đốn tiệm. Đốn tiệm do người, không phải do pháp. 
  
Người ngu không thể hiểu được, vì chấp trước nhiều. Theo Phật pháp, người chấp nhiều chừng nào thì hạ căn chừng nấy. Chấp ít chừng nào thì thượng căn chừng nấy. Chứ không phải thông minh lanh lợi là cao, pháp môn này không phân biệt thông minh lanh lợi và dốt nát. 
  
Pháp nói thì nhiều, nhưng hợp lại chỉ có một. Chúng sanh đang ở trong nhà đen tối, nhưng phải thường thường (nghi tình miên mật) sanh ra trí huệ mặt trời. Nếu khởi lên một niệm thì tà kiến phiền não đến, không có biệt niệm mà chỉ có chánh niệm (nghi tình) thì phiền não hết. 
  
Nhưng tà và chánh đều không dùng, mới thanh tịnh đến cùng tột. Tham thiền còn biết tham thiền thì chưa đến chân tham, đến chân tham thì không phân biệt tà chánh, luôn cả tham thiền cũng không biết mình đang tham thiền. 
  
Trước kia thủ đoạn của Tổ làm cho người tham thiền mau đến chỗ chân tham. Nếu khởi một niệm để tìm hay cho rằng Bồ Đề, đó là vọng. Vì Bồ Đề vốn tự tánh sẵn có. 
  
Mặc dầu, tâm mình là vọng, nhưng tự tánh mình thanh tịnh, không bị ô nhiễm của vọng. Cho nên, chỉ cần mình có chánh kiến thì không bị chướng ngại. 
  
Người thế gian tu đạo này không có chướng ngại, nhưng phải phá ngã chấp. Thường thường người ta chỉ thấy lỗi người, chứ không thấy lỗi của mình là do có ngã chấp. Lục Tổ dạy thường thấy lỗi mình mới phá ngã chấp, được tương ưng với đạo. 
  
Các loại chúng sanh đều tự có đạo và không chướng ngại với nhau, nếu lìa đạo ở tự tâm, đi tìm đạo ở ngoài thì suốt đời không được thấy đạo. Như bôn ba để qua một đời, cuối cùng ăn năn đã muộn. 
  
Muốn thấy chân đạo thì cái hạnh phải chánh, ngày đêm giữ được nghi tình miên mật là hạnh chánh. Nếu tự mình không có tâm đạo, đi ở chỗ đen tối thì không thấy đạo, vì đạo do tâm mà có. 
  
Sao biết người chân thật tu hành? Người chân thật tu hành thì không thấy lỗi của người khác, thấy lỗi người khác là có ngã chấp. Thấy quấy của người khác cho là quấy, tức là mình cũng quấy. 
  
Người khác quấy mà mình không quấy, mình quấy lại nói người ta quấy thì mình càng quấy. Chỉ cần bỏ tâm chấp quấy thì tự nhiên phá được phiền não. Yêu và ghét đều không quan tâm đến. 
  
Muốn hóa độ chúng sanh thì tự mình phải có phương tiện, chư Phật chư Tổ giáo hóa chúng sanh đều có phương tiện, không có pháp nào mà không có phương tiện để tu giải thoát! Bây giờ mình đối với vũ trụ vạn vật đều có nghi. 
  
Tại sao có ta? Tại sao ta có lục căn? Tại sao có ngũ tạng lục phủ? Tại sao con mắt lại thấy tai nghe? Tại sao có ghế này? Tại sao có cây cối? Tại sao có trời đất? Tất cả đều nghi. 
  
Muốn giáo hóa người phải có phương tiện, để cho họ tu hết nghi thì được tự tánh hiện, tức là kiến tánh. Tham thiền là khởi lên nghi tình, đến khi nào nghi tình vỡ, Tổ Sư thiền nói là cắt đứt căn nghi được kiến tánh. 
  
Kiến tánh là tự tánh hiện ra, chứ không phải có ta là năng kiến, có người khác là sở kiến. Nếu có năng sở không phải là kiến tánh, cho nên ở đây nói là tự tánh hiện. 
  
Phật pháp trên thế gian không lìa thế gian mà giác ngộ, vì lìa thế gian thì cần gì Phật pháp! Vì vậy lìa thế gian để cầu Bồ Đề như tìm sừng thỏ (con thỏ không có sừng). 
  
Chánh kiến là phá ngã chấp, tà kiến là chấp ngã. Ở trong này nói tà kiến đối với chánh kiến, không phải tà kiến trong 5 thứ ác kiến không có nhân quả. Tham thiền thì tà kiến và chánh kiến đều quét sạch, mới không có đối đãi. Vì tà đối với chánh, chánh đối với tà. 
  
Tà kiến là pháp thế gian, chánh kiến là pháp xuất thế gian, hai pháp đó đều quét sạch thì tánh Bồ Đề rõ ràng. Vậy Vô Tướng Tụng này là pháp môn đốn giáo của Tổ Sư thiền, cũng gọi là Đại Pháp Thuyền, tức là chiếc ghe lớn chở chúng sanh đến bờ bên kia. 
  
Người mê nghe pháp đốn giáo không tin, nên phải chịu khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Khi có lòng tin, tu theo pháp môn này thì ngộ trong sát na, nên gọi là đốn giáo. 
  
Ở trên nói phẩm Bát Nhã, sao Lục Tổ nói là pháp đốn giáo? Vì Ngài muốn giới thiệu cho người ta biết pháp môn Thiền tông là pháp môn đốn giáo, để phổ biến và hy vọng tất cả chúng sanh trong pháp giới nghe rồi, theo đó thực hành được kiến tánh thành Phật. 
  
Lúc ấy, các quan và người khác nghe Lục Tổ giảng được khai ngộ, cùng nhau tán thán: “Ai ngờ, xứ Lãnh Nam có Phật ra đời”.
Hỏi: 
  
Thế nào nghiệp chướng sâu nặng và ngộ lý chơn không?
Đáp: 
  
Ngộ là ngộ vào tự tánh, chứ không phải ngộ lý chân không. Thiền tông là giáo ngoại biệt truyền, tức là ở ngoài giáo lý, quét sạch hết lý mới ngộ tự tánh. Nếu còn lý thì còn nằm trong ý thức, chưa thể lìa ý thức. Ý thức phải có hợp lý hay hợp logic thì không được kiến tánh. 
  
Lai Quả thiền sư quở chúng Tăng rằng: “Các ông chứa đầy bụng kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm; nhưng ở trong Thiền đường này, một chữ dùng cũng không được”. 
  
Vừa rồi nói là nghiệp chướng ăn sâu vào xương tủy, nhưng ở trong Thiền tông không thể nói vậy. Như căn phòng đen tối một ngàn năm, đốt cây đèn lên thì được sáng tỏ, ngàn năm đen tối đều hết. Cho nên, Tổ Sư thiền nói đừng đổ thừa nghiệp chướng nặng, cũng đừng tin La Hán tái lai, Bồ Tát tái thế, ấy là gạt người, chính là Ngài Lai Quả nói. 
  
Tổ Bác Sơn nói trong Tham Thiền Cảnh Ngữ: “Tin tự tâm là Phật tức chánh tín, tin ngoài tâm có Phật là tà tín”. Đừng có đổ thừa nghiệp chướng, trong Từ Bi Thủy Sám có 7 thí dụ: Thí dụ thứ nhất là mình phải biết mắc cở, vì mình với Phật Thích Ca lúc trước đều là chúng sanh, mà Phật Thích Ca thành Phật đã lâu rồi, còn mình làm chúng sanh thì phải biết mắc cở. Vì Phật với mình đâu có khác! 
  
Tại sao cứ đổ thừa nghiệp chướng nặng? Vậy chừng nào mới bằng Phật Thích Ca? Tổ Sư thiền không kể nghiệp chướng nặng, không kể sơ tham hay lão tham, không kể hạ căn hoặc thượng căn, thông minh và ngu si. Vì người nào đều cũng có Phật tánh, nếu mình chấp nghiệp chướng nặng thì bị chướng ngại.
Hỏi: 
  
Pháp Bảo Đàn của Thiền tông có niệm, vậy đó là niệm gì?
Đáp: 
  
Niệm đó là vô niệm, cũng gọi chánh niệm hay ‘nghi tình’. Nghi tình không phải không có niệm, nghi tình không cho dứt, phải liên tục. Nếu nghi tình dứt, không liên tục thì bị gián đoạn.
Hỏi: 
  
Nếu chúng ta dùng cái biết để biết thế gian này là vọng huyễn, như vậy có phải quán chiếu Bát Nhã hay trì kinh Bát Nhã?
Đáp: 
  
Không phải, cái vọng huyễn mình biết là rơi trong tứ cú và cũng lọt vào nghĩa 3 câu của kinh Kim Cang. Biết vọng là huyễn hóa thì lọt vào cú thứ 2, vì cú thứ 1 chấp thật, chưa đến câu thứ 3. Dù đến câu thứ 3, nhưng cũng quét luôn câu thứ 3. Cho nên, biết vọng không phải Bát Nhã.
Hỏi: 
  
Phương pháp biết vọng là quán chiếu Bát Nhã, cũng là phương pháp của Thiền tông. Nếu xử dụng trí đó đẩy được tâm thức đến chỗ cùng cực, nghĩa là thấy được chỗ khởi niệm, vọng niệm rớt xuống, ngay đó sẽ được ngộ đạo. Con nghĩ rằng không biết đúng hay không, xin Thượng tọa giải nghi?
Đáp: 
  
Tự mình bày đặt vậy, đó là niệm gì? Ai đẩy niệm đó? Nếu có đẩy niệm thì cái đẩy là năng, niệm đó là sở. Có năng có sở sao gọi là Bát Nhã! Vừa giảng Bát Nhã, nếu có năng sở không phải Bát Nhã. Quán chiếu không phải Bát Nhã, vì quán chiếu có năng quán và sở quán là tương đối.
Hỏi: 
  
Đến giai đoạn nào mới gọi là Bát Nhã và áp dụng Bát Nhã thế nào được tốt?
Đáp: 
  
Tham thoại đầu là hành thâm Bát Nhã, cũng là trì kinh. Bát Nhã thì vô sở trụ, không có năng sở, không lọt vào tương đối. Bát Nhã không phải Bát Nhã, huống chi có năng sở!
Hỏi: 
  
Nếu chúng ta không dùng phương tiện quán chiếu của Giáo môn, làm sao đạt đến hệ thống?
Đáp: 
  
Giáo môn thì khác, còn kinh Pháp Bảo Đàn là Thiền môn, cũng gọi là giáo ngoại biệt truyền, khác hẳn Giáo môn.
Hỏi: 
  
Đọc kinh cũng có thể ngộ đạo, đâu phải chỉ do tham thiền mới được ngộ đạo?
Đáp: 
  
Phải rồi, vì do có cái nghi nên mới được ngộ. Nếu tham thiền đến chết mà chưa kiến tánh thì kiếp sau tiếp tục tham.
Truyền Đăng Lục có cô gái 15 tuổi là cháu thừa tướng Tô Công Tụng kiến tánh, phá sơ quan. Kiến tánh rồi không nói cho ai biết, cô tưởng ai cũng như vậy. Kiếp trước tu nên cái nghi có sẵn, rồi kiếp này nghi tiếp tục đến ngày chín mùi được ngộ. Vì Bát Nhã đã gieo trồng, nên xuất gia làm Diệu Tổng Thiền sư. 
  
Ngày xưa, tòng lâm ở Trung Quốc, tỉnh trưởng mời người kiến tánh làm trụ trì để hoằng pháp. Diệu Tổng Thiền Sư cũng được tỉnh trưởng mời làm trụ trì một ngôi chùa, thầy cô là Đại Huệ Thiền sư tác giả cuốn Lá Thư Thiền. Thấy cô không tham thiền, nhưng sự thật có tham thiền nên mới ngộ.
Hỏi: 
  
Giáo môn dùng quán chiếu sao không ngộ đạo?
Đáp: 
  
Lai Quả Thiền sư nói: “Quán chiếu tuy có ngộ, nhưng không đến đỉnh núi Niết Bàn”, tức là ngộ không triệt để, nên Như Lai thiền khác Tổ Sư thiền. Như Lai thiền có từng cấp để chứng, như kinh Lăng Nghiêm có 57 cấp, quán chiếu thuộc về Như Lai thiền.
Hỏi: 
  
Thế nào ngài Khuê Phong chủ trương biết vọng là tu?
Đáp: 
  
Ngài Khuê Phong là Tổ thứ 5 của phái Hiền Thủ, không phải Tổ Sư thiền. Ngài nói kinh Viên Giác, câu: “Nhất thiết chúng sanh giai chứng Viên Giác”, dịch chữ “chứng” là sai, phải đổi chữ “cụ” mới đúng. 
  
Ngài ở bên Giáo môn nên cho sai, còn bên Thiền môn biết là đúng. Theo ý ngài Khuê Phong cho tất cả chúng sanh đều đầy đủ tánh Viên Giác, không phải tất cả chúng sanh đều chứng Viên Giác. Vì còn chấp có chúng sanh thật, chấp có Viên Giác thật. Bổn tánh của mình đâu phải là chúng sanh! Bổn tánh của mình đâu phải là Phật! 
  
Nếu lấy trí huệ mình cũng có thể suy ra biết. Bổn tánh mình là Phật thì sao làm chúng sanh được? Bổn tánh mình là chúng sanh, tu hành để thành Phật cũng vô ích! Vì sau này cũng trở lại chúng sanh. Bổn tánh mình là chúng sanh nên tu thế nào cũng không thành Phật. 
  
Ngài Khuê Phong còn chấp thật, nên chỉ làm Tổ bên Giáo môn, không thể làm Tổ bên Thiền môn được.
Hỏi: 
  
Có người nói hết vọng tưởng là kiến tánh, còn thầy nói hết vọng tưởng thì chưa kiến tánh. Kính xin thầy giảng rõ chỗ này?
Đáp: 
  
Nếu không phá ngã chấp mà hết vọng tưởng thì được sanh lên cõi trời Vô Tưởng, cao nhất là cõi trời Phi Phi Tưởng. Nhưng Phật thọ ký cho Uất Đầu Lam Phất hưởng hết ở cõi trời đó, rồi đọa súc sanh làm chồn bay. Đừng nói một đời có mấy chục năm, mà chỗ đó hết vọng tưởng nửa đại kiếp cũng còn đọa súc sanh. 
  
Tôi thường nói, tham thiền không có nghi tình và không có vọng tưởng là thiền bệnh. Tổ Sư thiền nói là “ngâm nước chết”, nếu chấp vào đó vĩnh viễn không được kiến tánh.
Hỏi: 
  
Pháp Bảo Đàn nói: “Tiền niệm bất sanh tức tâm, hậu niệm bất diệt tức Phật”. Xin thầy giảng rõ?
Đáp: 
  
Nếu chấp theo lời nói có trước sau là có thời gian, có mê ngộ đều là tương đối. Tâm niệm mình mỗi giây đều khác, tuy thấy giống nhau, như ngọn đèn giây trước không phải giây sau. 
  
Tham thiền có nghi tình miên mật không để ý trước sau, không để ý mê ngộ, đến giây phút thình lình ngộ, tức là kiến tánh thành Phật. Bây giờ chưa ngộ thì niệm nào cũng mê. Nhưng lúc có nghi tình không phải mê, mặc dầu chưa kiến tánh. 
  
Lai Quả Thiền sư nói: “Nếu công phu ngày đêm 24 giờ không gián đoạn, không kiến tánh cũng không được. Tại sao? Vọng tưởng thì có tướng, Diêm La Vương sai quỷ sứ bắt; còn nghi tình không tướng, Diêm La Vương không thấy, nên không sai quỷ sứ bắt”. 
  
Nhưng sự thật công phu đến mức đó, không kiến tánh cũng không được. Như mình ở Chợ Lớn đi Sài Gòn, Sài Gòn là mục đích đến, đã đến Sài Gòn, còn nói mình chưa đến Sài Gòn sao được! Có đi thì có đến. 
  
Đối với chúng sanh chấp mê thì phải nói ngộ, niệm trước là mê, niệm sau là ngộ. Đến lúc ngộ rồi mới biết là không có ngộ, vì trước đâu có mê mà nói ngộ! Nếu chấp thật vào đó thì không hiểu ý Tổ; lời Phật, Tổ là phương tiện tạm thời.
Đối với căn cơ này thì nói pháp này, đối với căn cơ kia thì nói pháp kia. Thường khi pháp này với pháp kia mâu thuẫn với nhau. Nhưng ý của Phật, Tổ không có mâu thuẫn, vì người chấp nên có mâu thuẫn, thành ra pháp có mâu thuẫn.
Cho nên, bệnh của chúng sanh là bệnh giả, thuốc của Phật, Tổ cũng là thuốc giả. Vì vậy bệnh giả hết rồi thì thuốc giả cũng hết. Nếu chấp thuốc đó thật là sai lầm.
Hỏi: 
  
Nếu tham thoại đầu, có người giận mình lại trù yếm có được không?
Đáp:
Mình sợ thì có thể bị trù yếm, nếu không sợ, đề câu thoại đầu khởi nghi tình liên tục thì không thể bị trù yếm được.
Hỏi: 
  
Thế nào là 5 nhà 7 tông?
Đáp: 
  
Phật pháp chỉ có một, sao chia ra 5 tông 7 phái? Vì trước đời nhà Tống bên Trung Quốc, chư Tổ dùng thủ đoạn đặc biệt riêng của mình, hoặc đánh, hoặc hét, hoặc chửi,… khiến cho người tham học phát lên chân nghi dễ mau kiến tánh. 
  
Đến Truyền Đăng Lục ra đời có ghi lại những thủ đoạn của chư Tổ, làm cho người tham học khó phát chân nghi. Nên chư Tổ bất đắc dĩ phải dạy tham công án hay tham thoại đầu. 
  
-Như Lâm Tế đến hỏi pháp với Hoàng Bá, lại bị Hoàng Bá đánh đập đuổi ra, cho đến 3 lần đánh thật đau. Lâm Tế nghi trong tâm, tại sao mình đến hỏi pháp mà Hòa thượng đánh đuổi ra? Cứ nghi trong tâm mà không biết mình nghi, mới là chân nghi. Rồi sau gặp Đại Ngu được ngộ đạo triệt để. 
  
-Từ Minh đến hỏi pháp thầy của ông là Thiện Chiêu ở Phần Dương, lần nào cũng bị chửi mắng, lời chửi mắng còn ác hơn thế tục. Qua 2 năm cứ như vậy, Từ Minh nghi trong tâm, rồi nói: Đại thiện tri thức, tại sao đến hỏi pháp mà Hòa thượng chửi mắng còn hơn người thế tục? 
  
Thiện Chiêu nói: Ông dám nói vậy sao! 
  
 Rồi Thiện Chiêu mắng chửi thêm và đánh nữa, Từ Minh chịu không nổi, muốn mở miệng cãi thì Thiện Chiêu lấy tay bụm miệng lại, Từ Minh liền ngộ. 
  
-Hội Thông làm thị giả cho Đạo Lâm mấy năm, mà thầy không dạy gì hết, cứ nghi trong tâm là xuất gia để học đạo giải thoát, đến đây mấy năm chẳng biết gì? Không biết mình đang tham thiền, thắc mắc chịu không nổi, liền từ giả thầy ra đi. 
  
Đạo Lâm hỏi: Muốn đi đâu? 
  
Hội Thông đáp: Con muốn đi học thiền để tu. 
  
Đạo Lâm nói: Ở đây, tôi cũng có chút thiền vậy. 
  
Hội Thông hỏi: Thiền của thầy ra sao? 
  
Lúc ấy, Đạo Lâm mặc áo dài có lông, nhổ sợi lông thổi một cái thì Hội Thông liền ngộ.
Hỏi: 
  
Tất cả vọng niệm đều rơi hết, năng và sở không còn phân biệt, vậy có phù hợp với “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh Kim Cang không?
Đáp: 
  
 “Ưng vô sở trụ” là giữ hoạt bát vạn năng của tự tánh. “Nhi sanh kỳ tâm” là dụng của tự tánh được dùng ra. Như cái tay là tự tánh hoạt bát vạn năng, lấy khăn, lấy đĩa, lấy ghế,… đều được.
Nếu tay trụ vào cây viết, không buông thì cái dùng của tay bị mất, lấy mọi thứ gì đều không được. Trụ trong nắm tay không có gì, cũng mất đi cái dùng của cái tay thì lấy thứ gì cũng không được. Nên nắm tay phải buông ra thì cái tay dùng được.
Vì trụ có, không, nên chư Phật, Tổ dạy phải quét hết chấp tâm, mới khôi phục hoạt bát vạn năng tự tánh thì ứng dụng việc gì cũng được.
Hỏi: 
  
Có người giảng “phản văn văn tự tánh là tai chạy theo âm thanh, mình liền cắt đứt, như vậy là trở về tự tánh”. Chẳng những nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn,… 6 căn không chạy theo 6 trần, ngay đó là trở về tự tánh. Như thế có đúng không?
Đáp: 
  
Như vậy làm sao trở về được? Làm sao không chạy theo?
Hỏi: 
  
Người đó nói: Biết nó thì không theo và dẫn trong Viên Giác: 
Biết huyễn liền lìa, 
Chẳng cần phương tiện. 
Lìa huyễn tức giác,  
Không có thứ lớp. 
Như vậy, xin thầy chỉ dạy?
Đáp: 
  
“Chẳng cần phương tiện” này, không phải không cần phương tiện. Nhưng không tác ý dùng phương tiện. Như tham thiền không được tác ý buông bỏ vọng tưởng, không được trừ vọng tưởng, không được đè nén vọng tưởng.
Nếu tác ý không trừ vọng tưởng cũng không được, vì có tác ý là không được. Không phải là không cần phương tiện, cần phương tiện mà không có tác ý. Cho nên, chẳng cần phương tiện mới lìa được. Có tác ý phương tiện thì tác ý đó cũng vọng huyễn là lìa không được.
Dùng phương tiện tham Tổ Sư thiền để lìa, nhưng không nổi ý lìa thì mới được đến chỗ giác. Lìa huyễn được giác phải không có thứ lớp. Nếu có thứ lớp, như vừa nói “nhập lưu vong sở…” đó là pháp tiệm thứ. Lìa huyễn tức giác thì cái giác này không có thứ lớp, nên lìa được huyễn.
Khởi lên nghi tình tức không biết thứ lớp, không biết lìa hay không lìa, không biết có giác hay không giác nên mới được giác. Nếu còn năng lìa và sở lìa, năng giác và sở giác thì có tương đối, có thứ lớp là không được.
Hỏi:
Sơ quan, trùng quan, mạt hậu lao quan, vậy có phải là tiệm thứ không?
Đáp: 
  
Đó là người lập ra, không phải do pháp mà có. Pháp không có đốn tiệm, vì do chấp tâm của người nên sanh ra tiệm thứ. Kinh là nói pháp, không phải nói người. Pháp không có tiệm thứ, còn người mới có tiệm thứ. Nhưng cũng có người ngộ một lần thấu cả 3 quan, không có tiệm thứ là đúng với pháp, vì họ chấp ít. Chấp nhiều chừng nào thì tiệm thứ nhiều chừng nấy. 
  
Nếu nói sống trong hiện tại là chấp vào câu thứ nhất của nghĩa 3 câu. Biết vọng huyễn để lìa thì nằm ở câu thứ nhì của nghĩa 3 câu, chưa đến câu thứ 3. Bởi vậy, câu thứ nhất là chấp thật, câu thứ nhì chấp không phải thật tức là huyễn thì phá được chấp thật.
Ngài Bá Trượng nói: “Pháp sư giảng được 2 câu thì phải bị đọa địa ngục, nếu Pháp sư giảng được nghĩa 3 câu, người nghe hiểu lầm đọa địa ngục, không liên quan đến Pháp sư”. Còn giảng lọt vào câu thứ nhất thì hại người ta biết bao nhiêu! Chấp thật hiện hữu nên còn nằm trong câu thứ nhất.
Hỏi:
Chúng ta làm việc gì thì biết việc đó, như ăn cơm chỉ biết ăn cơm, mặc áo chỉ biết mặc áo hay nghe điện thoại chỉ biết nghe điện thoại và những việc khác cũng vậy. Như thế có tu đúng không?
Đáp:
Y như thế mà tu thì có thể gieo nhân lành để trăm ngàn kiếp sau mới thành Phật, không thể trong hiện tại thành Phật.
Chữ “thiền” là phổ thông, tiếng Aán Độ gọi là thiền na, dịch ra tiếng Hán là tịnh lự. Người thường có tịnh thì không lự, có lự thì không tịnh. Còn thiền thì tịnh lự đồng thời, lúc đang tịnh cũng là lúc đang lự, đang lự cũng là đang tịnh.
Theo câu hỏi trên thì đuổi theo vật chất liên tục. Như lúc uống nước thì đuổi theo uống nước, nằm trên giường thì đuổi theo nằm trên giường, mặc áo thì đuổi theo mặc áo. Vậy làm sao nhập được thiền na? Cứ đuổi theo ngoại cảnh thì sao tâm được tịnh!
Bốn câu kệ trong Pháp Bảo Đàn: 
Thường ứng chư căn dụng, 
Nhi bất khởi dụng tưởng. 
Phân biệt nhất thiết pháp,  
Bất khởi phân biệt tưởng.
 Dịch:
Thường ứng các căn dụng,  
Mà chẳng khởi dụng tưởng. 
Phân biệt tất cả pháp, 
Chẳng khởi phân biệt tưởng
Nếu biết ta mặc áo là dụng tưởng, biết ta uống nước là dụng tưởng, vậy sao nhập môn thiền được!
Hỏi:
Như vậy nhập Như Lai thiền được không?
Đáp:
Cũng không được, vì chữ “thiền” là thiền phổ thông, không phải riêng Tổ Sư thiền. Cho nên, còn nằm câu thứ nhất của nghĩa 3 câu của kinh Kim Cang, cũng là người thường chưa thể gọi là tu hành. Vì câu thứ nhất chấp thật, còn chấp thật cái hiện hữu. Câu thứ nhì là chấp vọng chấp huyễn, nhưng câu thứ nhất không biết đó là vọng huyễn, chấp hiện hữu là thật.
Nhưng niệm một câu chú, một câu Phật thì gieo trồng muôn ngàn kiếp sau sẽ thành Phật, việc ấy cho là được. Tu hành phải phá ngã chấp, trước phá nhân ngã chấp, sau phá pháp ngã chấp.
Hỏi:
Nếu người học đạo mới vào chùa, cứ bắt buộc người đó niệm chú. Vậy việc ấy thế nào?
Đáp: 
  
Không kể căn cơ nào có thích hợp hay không, người nào cũng bắt buộc làm vậy thì có hại. Những người không thích hợp bị oan một đời. Phật, Tổ dạy mình phải chuyên một pháp môn, gọi là nhất môn thâm nhập.
Tham thiền thì ngày đêm cứ hỏi câu thoại đầu, ở trong câu thoại đầu đầy đủ tất cả pháp, trì chú, lễ Phật, niệm Phật, tụng kinh,… vì có thực hành theo ý của Phật, ý của Phật là muốn mình giải thoát, muốn giải thoát thì phải giác ngộ, nên gọi là phát bồ đề tâm.
Nếu mình suốt ngày uống phải trì chú, mặc áo phải trì chú,… đáng lẽ theo thần chú là của Mật tông. Muốn tu Mật tông thì phải tu đúng tông chỉ Mật tông. Có người nói pháp môn nào cũng phải nhờ trì chú để giúp làm trợ duyên, đó là bày đặt sai lầm. Chư Phật chư Tổ muốn mình nhất môn thâm nhập. Như Phật giảng kinh nói kinh này đệ nhất, kinh kia đệ nhất. Vậy kinh nào là đệ nhất? Là muốn mình chuyên môn, chứ không có kinh nào hơn nhau cả.
Nếu mình không theo đúng tông chỉ của pháp môn đó, cứ áp dụng qua lại, vậy lòng tin pháp môn chưa đầy đủ thì không thể tu thành tựu. Như người ta nói “Thiền Tịnh song tu”, nếu đem áp dụng thì không thể được, vì Thiền không tin và Tịnh Độ cũng không tin.
Hỏi:
Đời nhà Minh có Liên Trì đại sư kết tập những luật tiểu (Tỳ Ni, Oai Nghi, Sa Di, Cảnh Sách), rồi ngài Hoằng Tán sớ giải những bộ đó. Vậy như thế nào?
Đáp:
Luật sư Phật giáo Trung Quốc có phê bình Liên Trì không phải luật sư. Ông đối với luật không có nghiên cứu sâu vào, nên ông nói luật có chỗ còn trái ý Phật. 
  
Phật chế luật là khai, giá, trì, phạm rất hoạt bát. Vì giá là tùy theo phong tục của địa phương, tùy theo thời đại mà biến đổi. Như theo giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni ở Aán Độ làm ruộng thì phạm, nhưng ở Trung Quốc làm ruộng là trì. 
  
Vì phong tục Aán Độ, Tu sĩ không được làm ruộng, nếu làm ruộng người ta chê, chướng ngại sự hoằng pháp ở thế gian. Tu sĩ ở Trung quốc đi khất thực, người ta nói là con mọt ăn gạo, nếu tự mình làm ruộng được khen ngợi. Cho nên, Phật chế giới giá để ngăn che, tức là ngăn ngừa người thế gian khỏi phê bình Tăng đoàn, không bị ảnh hưởng sự hoằng pháp. 
  
Phải biết, giới và luật khác nhau. Giới là bảo vệ cá nhân, luật là bảo vệ Tăng đoàn, tức là có luật mới bảo vệ được giới. Bây giờ không có Tăng đoàn, nên giới không có luật để bảo vệ. 
  
Người Tu sĩ phạm giới ba la di, không có ai can thiệp cũng làm trụ trì chùa, Phật tử lễ bái cúng dường bình thường là tại không có luật, không có Tăng đoàn. Cái tệ ở Trung Quốc là không có Tăng đoàn, người có giới luật trang nghiêm thì có lợi ích xung quanh người đó một thời gian. Nếu người đó mất đi thì pháp cũng theo đó mà mất. 
  
Nếu có Tăng đoàn thì không phải vậy, thời gian thọ giới không lâu, nhưng thọ giới rồi phải sống trong Tăng đoàn. Giới ấy có luật của Tăng đoàn bảo vệ, như vậy người nào đâu dám phạm. Như ở bên Nam Vang, nếu người nào phạm giới ba la di thì bị lột áo cà sa, rồi giao cho chính phủ trị tội, nên không ai dám phạm. 
  
 Còn ở đây hay ở Trung Quốc, tự mình có chùa riêng, rồi tự làm trụ trì phạm giới ba la di chẳng ai can thiệp, cũng có cúng dường lễ bái, nhưng sau này phải đọa địa ngục. Vì thế làm cho người ta không sợ, nên nhiều người phạm giới, làm cho giới luật hiện đời không còn tác dụng. 
  
Người ta hiểu lầm các vị Thiền sư ít giữ giới, vì các vị ấy không chú trọng hình thức bên ngoài, nhưng rất giữ gìn giới luật. Như Bác Sơn tác giả Tham Thiền Cảnh Ngữ, ngài chú trọng Thiền Luật đi song song là Tổ của tông Tào Động dạy tham thoại đầu, không dạy mặc chiếu, cũng là Tổ Luật tông. 
  
Gần đây, ngài Lai Quả, ngài Hư Vân cũng vậy, các vị đã ngộ rồi. Như Lục Tổ không biết chữ đã ngộ và Phật Thích Ca ngộ nói ra thành kinh, hành vi là giới luật, tâm là thiền, các Tổ đã ngộ đều như vậy.
Hỏi: 
  
Đắc quả A La Hán có phải kiến tánh và đại tử đại hoạt không?
Đáp: 
  
Đắc quả A La Hán chưa phải kiến tánh, còn nói kiến tánh thì có thể phá được sơ quan. Ngài Nguyệt Khê nói: “Ngoại đạo và A La Hán chưa phá căn bản vô minh”, tức là chưa phá vô thỉ vô minh. Bên Tổ Sư thiền phá căn bản vô minh mới là kiến tánh, cũng là phá thức ấm. Vì thức ấm phá rồi thì lìa được tâm, ý, thức, không còn chấp pháp nữa. 
  
A La Hán còn chấp pháp, chấp pháp tu của mình là thật, chấp quả chứng của mình là thật, nên bị Phật quở. Vì A La Hán phá được nhân ngã chấp ra khỏi phần đoạn sanh tử, nhưng còn biến dịch sanh tử.
Hỏi: 
  
Tham thiền đến đầu sào 100 thước, lìa tâm, ý, thức chưa?
Đáp: 
  
Tham thiền đến đầu sào 100 thước cũng gọi là thoại đầu hay tận cùng ý thức, hoặc đến vô thỉ vô minh. Đến cảnh giới này cần phải tiến thêm một bước nữa, lìa khỏi ý thức mới kiến tánh. 
  
Ngoại đạo và Tiểu thừa chỉ đến đầu sào 100 thước, chỗ này thanh thanh tịnh tịnh, vọng tưởng không còn. Như vô tưởng thiền tới chỗ đó cho là cứu cánh, nhưng chỉ là nguồn gốc của ý thức. Còn dính líu ý thức thì căn bản vô minh chưa phá. 
  
Nếu không tham thiền thì không thể lìa ý thức được. Biết đó là huyễn, muốn lìa huyễn nhưng không thể nào lìa được.
Hỏi: 
  
Có người dẫn trong Pháp Bảo Đàn: “Niệm mê là chúng sanh, niệm giác là Phật”, rồi dẫn chứng lời Tổ: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Vọng tưởng khởi lên mình giác nó, ngay nơi đó là Phật, cứ giác liên tục là Phật. Được một chút giác làm Phật một chút, thành Phật từ chút, nếu giác 100% thì Phật hoàn toàn. Vậy như thế nào?
Đáp: 
  
Có người nói: “Không có vọng tưởng, thấy thanh thanh tịnh tịnh (vô ký không) được 5 phút thì phá sơ quan, được 1 giờ thì kiến tánh triệt để”. Lấy Thiền bệnh cho là kiến tánh. 
  
“Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, lời Phật, Tổ là phương tiện tạm thời tùy cơ thuyết pháp. Như Phật có kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Niệm ác khởi nếu giác chậm thì đi làm ác phải bị tội. Theo giới Tiểu thừa niệm khởi chưa phạm, thân làm mới phạm. Nếu giác khởi ngăn được ác, nên phải nói vậy.  
  
Nhưng Tổ Sư thiền không cho nghĩ thiện ác, còn Giáo môn không cho nghĩ ác, mà cho nghĩ thiện. Ngài Lai Quả nói: “Giáo môn cho sanh tử là vọng nên bỏ, Niết Bàn là chân nên lấy”. Thiền môn thì sanh tử và Niết bàn đều quét sạch.
Hỏi: 
  
Vậy không thể theo cái giác mà tu hành để kiến tánh phải không?
Đáp: 
  
Kinh Duy Ma Cật nói: “Phải y theo kinh liễu nghĩa, không y theo bất liễu nghĩa”. Kinh bất liễu nghĩa cũng là Phật nói, nếu y theo đó để làm căn cứ thì không được. Vì Phật nói ở kinh khác: “Đừng y bất liễu nghĩa, nếu y bất liễu nghĩa là nghịch ý Phật”.
Y liễu nghĩa mà chấp thật cũng không được, y theo ý của Phật, không y theo lời của Phật. Nếu y theo lời của Phật là sai lầm, tức là chấp lời nghịch ý. Cho nên, Phật nhắc nhiều lần trong kinh Kim Cang là sợ chấp lời Phật.
Mục đích phá chấp lời nên Phật nói: “Không có Phật pháp để phát Bồ Đề tâm cao nhất. Không có Phật pháp để Như Lai chứng được. Nếu tôi có giác ngộ cao nhất thì Nhiên Đăng Phật không thọ ký cho tôi hiệu là Thích Ca Mâu Ni”. Vì Phật sợ mình chấp lời nghịch ý Phật.
Phật phải dùng lời nói theo ngôn ngữ thế gian, nếu mình ở trong lời nói thế lưu bố tưởng của Phật, chấp là thật để căn cứ thì làm oan Phật. Vì ý của Phật không phải vậy, nên gọi là “y văn giải nghĩa tam thế Phật oan”.
Rõ ràng kinh Kim Cang là Phật thuyết, mà Phật nói trong kinh Kim Cang: “Nếu người nói Phật có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, cũng là sợ người ta chấp lời Phật. Lời Phật chấp còn không được, huống chi lời của người khác làm sao được!
Có số sách Thiền bán ở ngoài giải thích công án, thoại đầu đều nghịch ý Phật, Tổ. Ý Tổ là muốn mình nghi, muốn mình ngộ; tức là mình nghe lời nói của Tổ, lúc đó ngộ thì ngộ liền, không ngộ thì phải nghi, nghi đó làm nhân cho ngộ, sau này sẽ được ngộ.
Cho nên, Tổ không cho mình hiểu, nếu hiểu rồi hết nghi thì không ngộ. Nhưng bây giờ tự xưng là Thiền sư giải công án, thoại đầu làm cho người hết nghi là nghịch ý Tổ, làm lấp bít cửa ngộ người tham thiền. Theo trong kinh Phật nói thì những người đó có tội.
Hỏi:
Trong nhà lửa làm sao lấy kiến giải để phá kiến giải?
Đáp:
Kinh Pháp Hoa thí dụ: Chúng sanh là con nít ham chơi giỡn trong nhà đang cháy, lửa đó sẽ đốt  cháy mọi người. Nhưng con nít không biết nên không sợ. Ông trưởng giả dụ cho Phật, nói: “Các con mau ra nhà này, khỏi bị lửa đốt cháy”.
 Nhưng các con nít không nghe lời, nên ông trưởng giả mới dùng phương tiện nói rằng: “Ngoài cửa nhà này có nhiều thứ xe, nào là xe dê, xe nai, xe trâu, các con mau ra đây, lấy chơi cho thỏa thích”. Các con nít nghe ông trưởng giả nói, liền trong nhà chạy ra khỏi cửa, đều được chiếc xe trâu lớn (Đại thừa).
Phật dùng phương tiện để cho chúng sanh thoát khổ, kỳ thật không có 3 thừa, nhưng Phật cũng phải nói có 3 thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát).
Pháp Bảo Đàn Kinh phá chấp nhà lửa, sau khi Pháp Đạt ngộ do Lục Tổ khai thị và nói kệ: 
   
Tụng kinh ba ngàn bộ, 
Bị Tổ một lời tiêu. 
Chưa thấu đạo xuất thế, 
Sao dứt lụy kiếp mê. 
Dê, nai, trâu giả thiết, 
Ba đoạn thiện quét sạch. 
Ai ngờ trong nhà lửa, 
Vốn là tự tánh Phật.
Nhiều người hiểu lầm “sơ, trung, hậu thiện dương”, họ lại dịch rằng: “Sơ, trung, hậu khéo hoằng dương”, ấy là sai lầm. Vì đây là nghĩa 3 câu, dịch đúng là “ba đoạn thiện quét sạch”.
Nếu hiểu theo câu: “Sơ, trung, hậu khéo hoằng dương” thì Pháp Đạt chưa ngộ. Cho nên, ai ngờ trong nhà lửa, vốn là tự tánh Phật; khỏi cần ra nhà lửa, tự tánh vốn ở trong đó.
Hỏi:
Xin thầy giảng: Tâm bình hà lao trì giới, hạnh trực hà dụng tu thiền?
Đáp: 
  
Nhiều người theo câu này khỏi cần tu, ấy là sai lầm. Tâm bình hạnh trực đâu phải người nào làm cũng được! Ngài Hư Vân nói: Tâm của ông bình chưa? Khi ông gặp con gái đẹp, nếu tâm giao động thì không được nói câu này. Đây là người kiến tánh tập khí đã hết. 
  
“Bình thường tâm thị đạo”, bình thường tâm là cái dụng automatic của tự tánh, không lọt vào tứ cú, không lọt vào tương đối. Nếu có dính líu một chút chỗ nào thì không phải là bình thường tâm, mình đâu có dễ đạt đến cảnh giới này! 
  
Theo câu này đã kiến tánh, chỉ còn bảo nhậm tập khí dứt hết, tâm mới được bình thường. Tâm bình thường thì hạnh trực, bây giờ có gặp người nào hạnh trực chưa? Chưa có.
Hỏi:
Xin thầy giảng: Sơ, trung, hậu thiện dương?
Đáp: 
  
“Sơ, trung, hậu thiện dương”, dịch là ba đoạn thiện quét đều sạch. Mới phát tâm là sơ thiện, chẳng chấp thiện tâm là trung thiện, không trụ nơi chẳng chấp là hậu thiện, luôn cả tri giải biết về sự “không trụ nơi chẳng chấp” cũng quét sạch.
Tức là nghĩa 3 câu: “Thiện, tức phi thiện, thị danh thiện”. Câu thứ nhất chấp có thiện là thật, câu thứ nhì là dùng “phi thiện” để quét chấp câu thứ nhất, câu thứ 3 là “thị danh thiện”, cũng là giả danh thiện quét chấp câu thứ nhất, quét chấp câu thứ nhì và tự quét bổn thân chấp câu thứ ba.
Đến đây được lìa ý thức, tức là ngộ. Cho nên, có câu: 
   
Ai ngờ trong nhà lửa, 
Vốn là tự tánh Phật.
Như vậy tự tánh mình vốn ở trong nhà lửa, không cần phải tìm ở nơi khác.
Hỏi: 
  
Thế nào là tông chỉ Tịnh Độ?
Đáp: 
  
Tông chỉ Tịnh Độ có Tín, Hạnh, Nguyện làm căn bản.
1- Tin có 3 thứ:
-Tin lời Phật Thích Ca không nói dối. 
-Tin cõi Cực Lạc không già, không bệnh, không chết, muốn gì được nấy. 
-Tin mình kiếp này sẽ được vãng sanh, khỏi cần đến kiếp sau. 
Phải tin 100%, chứ 99% cũng không được.
2- Nguyện gồm có 2 thứ:
-Nếu phát tiểu nguyện không hợp nhân quả, không được vãng sanh. Vì tiểu nguyện chỉ cho mình được vãng sanh, vãng sanh thì không đi đầu thai, không chết làm sao có quả báo! Kiếp này mình có đập chết con muỗi, con kiến không? Có ăn thịt chúng sanh không?
Theo nhân quả là giết một mạng phải trả một mạng, ăn một cục thịt phải trả một cục thịt. Nếu phát nguyện một mình được vãng sanh thì phá hoại nhân quả, vì vãng sanh rồi thì không đi đầu thai không trả nợ mạng nợ thịt, nên phải phát đại nguyện.
-Đại nguyện là mình có tiền mặt để trả, mình phải ký ngân phiếu là hẹn kỳ sau để trả. Như sanh cõi Cực Lạc, rồi tu thành Phật trở lại độ chúng sanh. Phát đại nguyện cần phải thực hành, phát nguyện mà không thực hành là nguyện giả.
Như người tu Tịnh Độ không ăn chay là nguyện giả, vì phát nguyện độ chúng sanh mà ăn thịt chúng sanh. Đã phát nguyện độ chúng sanh thì chỗ nào cũng hồi hướng cho tất cả chúng sanh, tức là ở trong đó có chủ nợ của mình.
Gặp chúng sanh nào mình cũng phải độ, gặp chó độ chó, gặp mèo độ mèo, dù nó có nghe hay không cũng phải phát tâm độ. Vì phát đại nguyện rồi phải thực hành. Bây giờ có ai thực hành được đại nguyện không? Chắc không!
Có người tu Tịnh Độ 30 năm, nói Tín, Nguyện, Hạnh thông suốt. Tôi hỏi phát đại nguyện hay tiểu nuyện, y nói phát đại nguyện, rồi tôi hỏi có thực hành phát đại nguyện không? Hỏi ra thì không có, có thực hành chút ít nhưng không đúng.
3- Hạnh là cách thực hành niệm Phật.
Hỏi:
Chỗ ngộ Như Lai thiền và Tổ Sư thiền như thế nào?
Đáp:
Ngộ của Như Lai thiền có giai cấp, ngộ của Tổ Sư thiền không có giai cấp, từ địa vị phàm phu tu chứng Phật quả. Tất cả Giáo môn đều thuộc Như Lai thiền. Giáo môn Đại thừa ở Trung Quốc có 4 tông: Thai thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức. 
  
Thiền quán của tông Thiên Thai là Thiền Chỉ quán, tông Hiền Thủ là Pháp Giới quán, tông Duy Thức là Tứ Tầm Tư quán, tông Tam Luận là Tánh Không quán. Thiền quán có giai cấp. 
  
Như kinh Lăng Nghiêm có 57 cấp, có chỗ 55 cấp. Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác Và Diệu Giác. Thêm Càn Huệ và Tứ Gia Hạnh, tổng cộng là 57 cấp.
Hỏi:
Thế nào là tham Tổ Sư thiền?
Đáp:
Tham tổ Sư thiền là không phải ngồi thiền, tham thiền khỏi cần ngồi, đi đứng nằm ngồi, đi xe đi bộ, làm công việc bằng tay chân hay việc bằng trí óc đều tham được, đang ăn cơm đang đi cầu, đang ngủ mê cũng tham, không giờ phút nào không tham. Cho nên, nói tham thiền khỏi cần ngồi.
Vì thế, Lục Tổ nói: “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, trong phẩm Tọa Thiền của Pháp Bảo Đàn Kinh nói: “Tâm tọa chứ không phải thân tọa”.
Vậy chữ “tham” là sao? Tham là nghi, nghi tức không hiểu, không hiểu gọi là nghi tình. Tham thiền rất chú trọng nghi tình, bây giờ muốn lấy cái gì cho mình không hiểu? Thiền tông lấy công án hay thoại đầu.
Nhưng công án có chuyện tích phức tạp khó tham, nên tôi không dạy tham công án, mà chỉ dạy tham thoại đầu. Câu thoại đầu có rất nhiều không thể kể hết được. Tôi chỉ đưa ra 5 câu thoại đầu để người tham thiền lựa một câu mà tham. Chỉ chọn một câu, không được chọn hai câu, chọn rồi tham cho đến kiến tánh, không đổi đi đổi lại.
5 câu thoại đầu là:
1. Khi chưa có trời đất ta là cái gì? 
2. Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao? 
3. Muôn pháp về một, một về chỗ nào? 
4. Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu? 
5. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?
Câu thoại đầu là câu hỏi, có hỏi thì phải có đáp. Hỏi thầm trong tâm, như hỏi “khi chưa có trời đất, ta là cái gì?” Không hiểu, đáp không ra thì hỏi tiếp câu thứ hai, cũng đáp không ra thì hỏi tiếp câu thứ ba, cũng đáp không ra, cứ liên tiếp hỏi, đáp không ra, thắc mắc tức là nghi tình, hỏi liên tiếp gọi là miên mật.
Miên là kéo dài, mật là không kẽ hở, tức là câu thứ nhất, câu thứ nhì, câu thứ ba,… liên tiếp không kẽ hở, tối ngày sáng đêm như thế. Bất cứ giờ phút nào, bất cứ nơi nào cũng vậy, đừng cho gián đoạn.
Nhưng ban đầu tất nhiên phải gián đoạn, như ngày đêm 24 giờ, sẽ bị gián đoạn 23 giờ thì sự gián đoạn bớt lại, bớt lại 22 giờ, bớt lại 21 giờ,…bớt dần dần gián đoạn sẽ không còn thì nghi tình được thành khối.
Nghi tình thành khối là ngày đêm 24 giờ không giây phút nào gián đoạn thì đến thoại đầu. Bây giờ mình tham thoại đầu, nhưng chưa đến thoại đầu, không phải ở thoại vỉ, tức là ở giữa đường từ thoại vỉ đi đến thoại đầu. Cho nên, cũng gọi là tham thoại đầu.
Nhiều người coi sách tham thoại đầu, nhưng phần nhiều lọt vào hồ nghi, không phải chánh nghi. Hồ nghi không phải tham thiền. Thế nào là hồ nghi? Hồ nghi là lấy tâm đi tìm hiểu, giải thích câu thoại đầu cho ra đáp án.
Tham thiền là chánh nghi, chỉ cho tâm nghi, không cho tâm đi tìm hiểu. Nghi tình không được lấy tâm đi tìm hiểu, cứ nghi mãi cho đến nghi tình bùng vỡ thì được kiến tánh.
Người coi sách tham thoại đầu gặp đau đầu, tức ngực, khó thở,… thì sợ không dám tham nữa. Sự thật tham thiền đến đau đầu, tức ngực, khó thở,… nhiều chừng nào tốt chừng nấy, không nên sợ và đừng bỏ qua.
Bởi vì, nghi là nhân, ngộ là quả; không có nhân thì không có quả, nên không nghi thì không ngộ; nhân nhỏ thì quả nhỏ, nên tiểu nghi tiểu ngộ; nhân lớn thì quả lớn, nên đại nghi đại ngộ.
Tham đến nhức đầu, tức ngực, khó thở,… là nghi tình nặng. Nghi tình nặng là đại nghi, đại nghi thì sẽ được đại ngộ. Cho nên, tôi nói  nghi tình nặng đau đầu, tức ngực, khó thở,… nhiều chừng nào tốt chừng nấy là vậy.
Nhưng lúc ngồi có tình hình này thì không được. Vậy phải làm sao? Phải mau mau đứng dậy đi kinh hành, hoặc kiếm công việc để làm, không nên ngồi nữa. Nếu không phải ngồi, mà đi hay làm công việc, có nhức chừng nào tốt chừng nấy, không nên sợ.
Tức ngực khó thở mà muốn đứt hơi thở thì càng tốt nữa. Tham thiền không có ai chết đâu! Nhiều người có bệnh nan y, mà tham thiền lại hết. Nhưng nghe nói vậy, lại có ý tham thiền để trị bệnh thì bệnh không hết. Bệnh hết là mình chú ý câu thoại đầu, tất cả tinh thần chú ý nghi tình thì quên thân, nên bệnh được hết.
Tham thiền là muốn liễu thoát sanh tử, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn, không phải lấy tham thiền để trị bệnh. Nhưng người quyết tử tham thiền thì bệnh trong thân cũng hết luôn. Hết bệnh thân không phải là việc chánh, mà muốn hết bệnh tâm.
Nhưng tất cả do tâm tạo, bệnh thân là do bệnh tâm tạo thành. Nên bệnh tâm hết thì bệnh thân cũng hết, bệnh tâm hết vĩnh viễn thì bệnh thân cũng hết vĩnh viễn.
Phải biết trong Phật pháp, từ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối Thượng thừa đều phải phá ngã chấp. Nếu không phá ngã chấp thì không được ra khỏi sanh tử luân hồi. Cho nên, chánh pháp cần phải phá ngã chấp.
Vậy tham thiền lấy gì để phá ngã chấp? Lấy 9 chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” để phá ngã chấp. Nếu mình thấy đắc cái gì hay thấy sợ cái gì hoặc cầu cái gì thì phải nhớ lại vô sở đắc, vô sở sợ, vô sở cầu để quét.
Chính nghi tình là cây chổi automatic quét sạch tất cả. Ma lại nó cũng quét, không có cái gì mà nó không quét. Nhưng không được nổi tâm muốn quét hay nổi tâm không muốn quét.
Thường thường người ta tu hành buông bỏ vọng tưởng, đè nén vọng tưởng, trừ vọng tưởng. Nhưng tham thiền thì ngược lại, không được buông bỏ vọng tưởng, không đè nén vọng tưởng, không trừ vọng tưởng.
Tại sao? Vì nghi tình là cây chổi automatic quét sạch tất cả, vọng tưởng tự nhiên chấm dứt. Nếu buông bỏ vọng tưởng thì vọng tưởng không thể buông được. Vì có ý buông bỏ đó là vọng tưởng, lấy vọng để bỏ vọng thì cái vọng đó làm sao bỏ được!
Cho nên, bà già, con nít, thông minh, dốt nát đều tham thiền được. Trong Truyền Đăng Lục có nhiều Tổ sư dốt nát khờ ngốc, tham thiền được kiến tánh, thành Tổ sư Thiền tông.
Tổ nói: Bất cứ người nào cũng tham thiền được, trừ ra mù, điếc, câm, 3 thứ đủ hết thì tham thiền không được. Vì sao? Vì nói, nó điếc không nghe; lấy tay làm hiệu, nó mù không thấy; hỏi hiểu hay không, nó câm không trả lời được.
Ngoài ra 3 thứ này, người nào cũng tham thiền được. Cho nên, mình phải tin người nào cũng có tư cách thành Phật. Khi quy y Tam Bảo có phát nguyện tứ hoằng thệ:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,  
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.  
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,  
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. 
  
Chữ “Phật” là nghĩa giác ngộ, người nào giác ngộ thì người đó là Phật. Tại sao muốn giác ngộ? Vì không giác ngộ thì không được giải thoát. Giải thoát là đạt đến tự do tự tại, muốn tự do tự tại phải làm chủ chính mình.
Muốn  làm chủ chính mình phải biết mình là cái gì? Tất cả chúng sanh không biết mình là cái gì? Chỉ biết ở ngoài, không biết ở mình, như mắt, tai ở ngoài thấy rõ ràng, nhưng tự mình là cái gì mà chẳng biết.
Sanh không biết từ đâu đến, chết không biết đi về đâu? Nếu mình không biết là cái gì thì không thể làm chủ mình. Không làm chủ cho mình thì sao được tự do tự tại? Vì vậy mình không muốn già mà cũng phải già, không muốn chết cũng phải chết. Cho nên, sanh tử không được tự do.
Giác ngộ biết mình là cái gì làm chủ được mình thì được tự do không còn khổ nữa. Nếu còn một chút khổ thì không được tự do. Phật pháp rất tích cực vô cùng không giới hạn không gian. Tham thiền sẽ đạt đến tự do tự tại, mình phải tin như thế, phải quyết tử mà tham, tự nhiên sẽ đạt đến chỗ đó.
Người thế gian thường gọi Phật là một thần linh để bảo hộ và ban phước cho mình, ấy là sai lầm. Phật là tâm của mình, chứ không phải ở ngoài. Nên nói: “Ngoài tâm không có Phật, ngoài tâm không có pháp”.
Nhiều người quy Tam Bảo đã lâu, không biết Tam bảo là cái gì? Chỉ biết quy y để phù hộ cho mình, không biết Phật phù hộ cho mình không được. Phật chỉ dạy cho mình biết cách tu hành để đạt đến cho mình tự mình phù hộ mình. Phật đại từ đại bi phù hộ được thì nình khỏi tu hành.
Có người hỏi Phật: Ngài là gì? Có phải là Thượng Đế không? 
Phật trả lời: Không phải. 
Người ấy hỏi: Ngài có phải là thần tiên không? 
Phật trả lời: Không phải.  
Người ấy hỏi: Ngài có phải là người có oai quyền không? 
Phật trả lời: Không phải. 
Người ấy hỏi: Cái gì cũng không phải, vậy là cái gì? 
Phật nói:  Ta là người giác ngộ.
Đến bây giờ mọi người không gọi Phật là người giác ngộ, mà cho Phật là một thần linh. Phật muốn chúng sanh giác ngộ, vì giác ngộ được hết tất cả khổ. Nếu người nào không giác ngộ thì không khỏi khổ. Cho nên, quy y Phật là phát thệ nguyện thành Phật, giải thoát hết các khổ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét