Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

Những ước nguyện của Đức Phật


image
Những ước nguyện của Đức Phật cho các hàng đệ tử và giáo pháp của Ngài (Bài giảng nhân ngày lễ Vesākha)
 Đức Phật Từ Bỏ Thọ Hành   
(Thọ hành (āusankhārā) theo Chú Giải biểu thị cho chính tuổi thọ (āyu), một từ được xác nhận là đồng nghĩa với mạng căn (jīvitindriya), có chức năng duy trì sự sống. Xem N.444/MN.) 
 
Mùa hạ (Vassa) cuối cùng, đức Phật trải qua trong ngôi làngVeuna. Thời gian ấy, một cơn đau kịch liệt khởi lên nơi Ngài. Vào ngày trăng tròn tháng Asāha (tháng 6), một cơn đau lưng buốt nhức cực độ bất ngờ tấn công Ngài, do nghiệp đời trước. 
 
Một trong những tiến kiếp của Ngài, đức Phật đã từng là võ sĩ. Có lần Ngài đã đánh ngã một đối thủ và làm gãy lưng người này. Bất thiện nghiệp ấy khi chín muồi đã cho quả của nó, đó là mười tháng trước ngày nhập Vô Dư Niết-bàn của Ngài. Nghiệp quả ấy mạnh đến độ kéo dài cho đến lúc chết. Một thọ khổ như vậy được gọi là "thọ (khổ) chấm dứt vào lúc chết" (maranatikavedanā), tức là nó chỉ dừng lại khi cái chết xảy ra. 
 
Đức Phật đã ngăn không cho thọ khổ đó khởi lên nhờ nhập A-la-hán Thánh quả định (Arahattaphala samāpatti) và thực hiện một quyết định (adhiṭṭhāna). Trước tiên, đức Phật nhập A-la-hán Thánh quả định dựa trên bảy cách quán sắc (rūpa sattaka vipassanā). Sau khi hành những pháp quán ấy xong và ngay trước khi nhập vào A-la-hán Thánh quả định, đức Phật quyết định: "Kể từ hôm nay cho đến ngày Niết-bàn, mong cho những thọ khổ này không khởi lên", sau đó Ngài mới nhập Thánh quả định. A-la-hán Thánh quả định là tâm quả A-la-hán với Niết-bàn làm đối tượng, khởi lên liên tục trong một thời gian dài. Do việc hành vipassanā trước đó kiên trì và mãnh liệt mà A-la-hán Thánh quả định cũng mãnh liệt và kiên trì như vậy. Chính nhờ nỗ lực của minh sát và định lực của Thánh quả mà thọ khổ đã không khởi lên trong mười tháng còn lại cho đến ngày Đại Niết-bàn của đức Phật. Nhưng trong thời gian đó, mỗi ngày đức Phật đều phải nhập Thánh quả đều đặn. 
 
Sau mùa an cư (Vassa), đức Phật vân du từ nơi này đến nơi khác, và cuối cùng đến tại Tỳ - xá - ly (Vesālī). Ba tháng trước ngày trăng tròn tháng Vesāka (rằm tháng Tư), tức là vào ngày rằm tháng Giêng tại ngôi tháp Cāpāla (Cāpāla cetiya), đức Phật quyết định xả bỏ thọ hành (āyusankhāra ossajana), nghĩa là, vào ngày đó Ngài quyết định: 
 
"Temāsamattameva pana samāpatti samāpajjitvā tato para na samāpajjissāmīti citta samāpajjitva cittauppādasi

(Từ hôm nay cho đến trăng tròn tháng Vesākha ta sẽ thực hành Thánh quả định này. Rồi sau đó ta sẽ không hành pháp ấy nữa.) 
 
Đức Phật tuyên bố những ước nguyện của Ngài 
 
Vào ngày đó, trước chúng Tăng tỳ khưu tại đại giảng đường của chùa mahàvana, đức Phật thông báo Ngài xả bỏ thọ hành. Ngài nói với chúng tỳ khưu: 
 
"Tasmātiha bhikkhave ye te mayā dhammā abhiññā desitā, te vo sādhuka uggahetva āsevitabbā bhāvetabbā bahulīkātabbā.
(Này chư tỳ khưu, ta đã giải thích rõ những Chân lý (dhamma) mà ta đã tự mình thắng tri cho các người. Các người cần phải khéo học tập, trau dồi, tu tập và thực hành thường xuyên những pháp ấy). 
 
Như vậy, đức Phật chỉ dạy pháp mà Ngài đã tự chứng. Ở đây đức Phật tuyên bố những ước nguyện của Ngài cho Giáo Pháp và chỉ dạy Tăng chúng: 
 
1. Tăng chúng cần phải nắm vững những lời dạy của Ngài, nhưng nắm vững thôi thì chưa đủ. Đây là ước nguyện thứ nhất của đức Phật. 
 
2. Ngài chỉ dạy Tăng chúng nên trau dồi pháp. Trong i thường gọi là sevitabbā, có nghĩa rằng chúng ta phải cố gắng hiểu pháp này bằng sự thực hành thường xuyên, nên chúng tôi dịch là trau dồi. Đây là ước nguyện thứ hai của đức Phật. 
 
3. Cuối cùng Ngài chỉ dạy Tăng chúng phải tu tập (bhāvetabbā) các pháp. Khi chúng ta trau dồi, nhất thiết phải có sự tăng trưởng và tiến bộ. 
 
Điều đó có nghĩa là gì? Khi chúng ta hành pháp, chỉ có những thiện pháp (kusala dhamma) khởi lên trong tiến trình tâm của chúng ta. Các thiện pháp đó là, giới thiện pháp (sīla kusaladhamma), định thiện pháp (samādhi kusaladhamma) và tuệ thiện pháp (paññā kusaladhamma). Những thiện pháp này phải khởi lên không gián đoạn cho đến quả vị A-la-hán. Nếu một vị Thanh Văn đệ tử (Sāvaka) của đức Phật đắc A-la-hán Thánh quả thì việc thực hành (bhāvanā) của họ kể như hoàn tất. Vì thế, một đệ tử của đức Phật phải thực hành những lời dạy của đức Phật cho đến khi đạt đến cứu cánh, tức là sự trau dồi phải được phát triển cho đến Thánh quả A-la-hán. Để đạt đến A-la-hán Thánh quả chúng ta phải thực hành thường xuyên. Vì lý do đó, đức Phật đã đưa ra lời chỉ dẫn "bahulīkātabba", có nghĩa là chúng ta phải thực hành một cách thường xuyên. Đây là ước nguyện thứ ba của đức Phật. 
 
Những ước nguyện này vì sao lại khởi lên trong tiến trình tâm của đức Phật: 
 
"Yathayida brahmacariya addhaniya assa ciraṭṭhikika."
(Để cho lời dạy thuần tịnh này có thể được an lập và bền lâu). 
 
Đó là, duy trì lời dạy thuần tịnh này sao cho nó có thể bền vững trong một thời gian lâu dài. 
 
Phận Sự Của Chúng Ta Với Tư Cách Là Những Phật Tử. 
 
Duy trì lời dạy này không để cho thất tán là bổn phận hết sức quan trọng của mỗi người Phật tử. Do đó, chúng ta phải cố gắng: 
 
- Nắm vững (hiểu rõ) tất cả những lời dạy của đức Phật.
- Thực hành những lời dạy của đức Phật như thế nào để hiểu được pháp ấy qua kinh nghiệm tự thân.
- Thực hành những lời dạy đó cho đến quả vị A-la-hán. 
 
Đây là những bổn phận của mọi Phật tử. Là một Phât tử, chúng ta phải theo những chỉ dẫn này. Nếu không theo những điều này, chúng ta chỉ là Phật tử trên danh nghĩa chứ không phải người Phật tử chân chánh. Tóm lại, người nào hành theo ba phận sự này một cách triệt để, người ấy là một Phật tử chân chánh. Vì thế, hôm nay quý vị có thể quyết định: 
 
- Ta sẽ cố gắng nắm vững tất cả những lời dạy của đức Phật.
- Ta sẽ cố gắng thực hành những lời dạy ấy để hiểu được chúng qua kinh nghiệm tự thân.
- Ta sẽ thực hành những lời dạy của đức Phật cho đến quả vị A-la-hán. 
 
Chúng Ta Có Thể Làm Lợi Ích Cho Đời Như Thế Nào
 
Nếu chúng ta thực hiện được ba bổn phận đó thì có thể nói rằng chúng ta đang thở theo những chỉ dẫn của đức Phật. Vì sao? 
 
"Tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussāna

(Vì an lạc và lợi ích cho số đông,
 Xuất phát từ lòng bi mẫn cho đời,
Vì sự an lạc và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại.) 
 
Có thực hành theo những chỉ dẫn của đức Phật, chúng ta mới có thể truyền trao Giáo Pháp đến các thế hệ tương lai như một di sản, mới có thể dạy cho các hàng chư Thiên và loài người: 
 
- Hãy cố gắng nắm vững tất cả những lời dạy của đức Phật.
- Hãy thực hành những lời dạy của đức Phật để hiểu được chúng qua kinh nghiệm tự thân.
- Hãy thực hành những lời dạy của đức Phật cho đến quả vị A-la-hán. 
 
Chúng Ta Có Thể Chứng Tỏ Đức Tin Của Mình Như Thế Nào? 
 
Quý vị có đủ niềm tin vững chắc nơi những lời dạy của đức Phật không? 
 
Trong Chú giải Kinh Ghaīkāra có nói: 
 
"Pasanno ca pasannākāra kātu sakkhissati."
(Những người có niềm tin chân chánh đối với Tam Bảo có thể biểu lộ lòng kính tín của họ qua việc thực hành.) 
 
Nếu một người nam hay nữ nào không biểu lộ được lòng tịnh tín của họ (theo cách đó) thì chúng ta không thể nói rằng người ấy có một đức tin trong sạch thật sự. Nếu quý vị có đức tin chân chánh nơi những lời dạy của đức Phật, quý vị phải khéo học những lời dạy ấy, thực hành những lời dạy ấy không ngừng nghỉ khi chưa đắc A-la-hán Thánh quả. Đây là những di huấn quan trọng của đức Phật trước lúc nhập diệt. Nếu chúng ta có niềm tin nơi đức Phật, chúng ta phải tuân theo những di huấn này. Khi chúng ta có niềm tin nơi cha mẹ của mình, chúng ta phải vâng theo những chỉ dẫn của họ. Cũng vậy, "Cha" chúng ta ở đây chính là đức Phật, chúng ta phải vâng theo những di huấn của "Cha" mình giống như vậy.  
 
Chúng Ta Phải Học Và Hành Những Gì?
 
Những lời dạy đó là gì? Đó là: 
 
- Tứ Niệm Xứ (Cattaro Satipaṭṭhānā)
- Tứ Chánh Cần (Cattaro Sammappadhānā)
- Tứ Thần Túc  (Cattaro Iddhipādā)
- Ngũ Căn (Pañcindriyāni)
- Ngũ Lực (Pañca Bala)
- Thất Giác Chi  (Satta Bojjhanga)
- Bát Thánh Đạo  (Ariya Atthangiko Maggo
 
Tất cả có Ba Mươi Bảy Pháp thiết yếu cho Sự Giác Ngộ (Bodhipakkhiyadhamma). Chúng ta sẽ luận bàn một cách tóm tắt những pháp này ở đây. Trong Kinh điển i, đức Phật dạy Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Giác Ngộ theo nhiều cách khác nhau tùy theo khuynh hướng của người nghe. Những lời dạy của đức Phật trong Kinh điển i có thể rút gọn chỉ còn Ba Mươi Bảy pháp này. Nếu cô đọng lại thì chỉ có Bát Chánh Đạo. Và nếu được cô đọng thêm nữa thì chỉ có Tam học: Giới, Định, Tuệ.
  
Căn Bản Cho Việc Thực Hành 
 
Trước tiên chúng ta phải học "giới học" để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao? 
 
Vì thế, để thanh tịnh giới hạnh, để kiểm soát tâm và tu tập tuệ của mình, trước hết chúng ta phải thấu rõ Pháp (dhamma). Thứ đến, chúng ta phải trau dồi và tu tập pháp ấy cho đến A-la-hán Thánh quả. 
 
Trong Kinh Đại Niết-bàn, đức Phật đã khích lệ hàng đệ tử của Ngài nhiều lần:
 
"Iti sila, iti samādhi, iti paññā
Sīlaparibhāvito samādhi mahapphalo hoti mahānisaso,
Samādhiparibhāvitā paññā mahapphalā hoti mahānisa
sā,
Paññāparibhāvita
 cittam sammadeva āsavehi vimucca,
Seyyathida
 kāmāsavā bhavāsavā diṭṭhāsavā avijjāsavā.
 
(Đây là giới, đây là định, đây là tuệ. Định khi được tu tập viên mãn dựa trên giới sẽ đem lại quả lớn, lợi ích lớn.Tuệ khi được tu tập viên mãn dựa trên định sẽ đem lại quả lớn, lợi ích lớn.Tâm khi được tu tập viên mãn với trí tuệ sẽ hoàn toàn giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu.) 
 
Tất cả chúng ta ai cũng có tâm. Nếu chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình, dựa trên giới, thì sức mạnh của tâm có định ấy sẽ vô cùng kỳ diệu. Tâm có thể thâm nhập vào sắc chân đế. Sắc phát sinh dưới dạng các tổng hợp sắc (rūpa kalāpa). Những tổng hợp này nhỏ hơn các nguyên tử (atoms). Thân chúng ta do những rūpa kalāpa này làm thành và tâm có định có thể phân tích được các tổng hợp sắc đó. Tâm định còn có thể thâm nhập vào thực tại cùng tột của danh (danh chân đế), vào các nhân của chúng và vào tính chất sanh diệt của danh - sắc cũng như các nhân ấy. Minh sát trí thâm nhập vào các hiện tượng này gọi là trí tuệ. Tuệ ấy tiến triển nhờ định dựa trên giới. Tâm định và trí tuệ tạo thành năng lực. Năng lực này có thể dẫn đến sự chứng đắc Niết-bàn, diệt tận mọi tham đắm, phiền não và khổ đau. 
 
Mọi người đều có tâm. Khi tâm được tu tập sung mãn nhờ định thì minh sát trí (tuệ) có thể giải phóng con người ra khỏi các cấu uế của dục tham và vòng luân hồi một cách hoàn toàn. Song định đó phải dựa trên giới. Đối với hàng tại gia thì ngũ giới là cần thiết. 
 
Đó là: 
 
- Không sát sanh
- Không trộm cắp
- Không tà dâm
- Không nói dối
- Không uống rượu và các chất say 
 
Năm giới này đối với những Phật tử tại gia là cần thiết. Nếu người nào phạm vào một trong năm điều này, tự nhiên họ không còn là một Phật tử chân chánh nữa. Pháp quy Tam bảo của người ấy cũng không còn giá trị. Ngoài ra, người Phật tử còn phải tránh những cách sinh nhai không chân chánh (tà mạng), tức là không sử dụng những tài sản có được do sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đâm thọc, nói lời thô ác hoặc nói chuyện vô ích. Người Phật tử cũng không can dự vào năm loại nghề bất chánh là mua bán vũ khí, người, súc vật để mổ thịt, các chất say và các chất độc. 
 
Như vậy, đối với người Phật tử, giới rất quan trọng. Ngoài sự hỗ trợ cho việc chứng đắc Niết-bàn, giới giúp người Phật tử có được trạng thái an vui lúc cận tử - nhân tố cần thiết cho cảnh giới tái sanh. Nếu hành nghiệp của một người không trong sạch thì không dễ gì có được một thú tướng tốt đẹp, bởi vì vào lúc lâm chung, những bất thiện nghiệp ấy thường bám vào tâm họ, xuất hiện trong tâm họ. Và do bắt lấy một trong những bất thiện nghiệp đó làm đối tượng của tâm, họ thường đi đến những khổ cảnh sau khi chết. 
 
Giới cũng quan trọng không kém trong việc mưu tìm hạnh phúc và an lạc trong kiếp hiện tại. Không trong sạch giới hạnh, con người không thể tìm thấy hạnh phúc và an lạc. Thông thường, một người có nhiều ác nghiệp, tự nhiên sẽ ít có thiện hữu. Mà người ít có bạn tốt thì khó có được an vui hạnh phúc trong cuộc đời.

 Thiền Chỉ Và Thiền Quán  
Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật dạy: 
 
"Yo ca vassasata jīve, dussilo asamāhito,
 Ekāha
 jīvita seyyo, sīlavantassa jhāyino." 
 
(Dầu sống cả trăm năm
 Không giới, không thiền định,
 Cuộc đời người như vậy
 Không có gì đáng khen.
 Tốt hơn sống chỉ một ngày
 Mà biết hành giới, tu thiền định tâm.) 
 
Vì sao? Vì tâm khi được tu tập sung mãn qua thiền định có thể phát sinh trí tuệ thâm sâu, tức có thể thấy Niết-bàn, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi, hủy diệt mọi phiền não và khổ đau. 
 
Vì thế chúng ta phải hành thiền chỉ và thiền quán dựa trên giới. Khi chúng ta hành Chỉ-Quán, chúng ta phải hành Tứ Niệm Xứ (Cattaro satipaṭṭhāna): 
 
- Niệm thân (Kāyānupassanā satipaṭṭhāna)
- Niệm thọ (Vedanānupassanā satipaṭṭhāna)
- Niệm tâm (Cittānupassanā satipaṭṭhāna)
- Niệm pháp (Dhammānupassanā satipaṭṭhāna
 
Cái gì là "thân" (kāya)? Trong thiền minh sát có hai loại thân: sắc thân (rūpakāya) và danh thân (nāmakāya). Sắc thân là một tổng hợp hai mươi tám loại sắc. Danh thân là một nhóm các tâm và tâm sở của chúng. Nói cách khác, hai thân ở đây là năm uẩn (khandha) - sắc, thọ, tưởng, hành và thức. 
 
Nhưng những đối tượng của thiền chỉ (samatha) như là hơi thở, ba mươi hai thể trược (asubha) và tứ đại cũng được gọi là thân. Vì sao? Chúng cũng là nguyên khối sắc. Chẳng hạn, hơi thở là một nhóm các tổng hợp sắc do tâm tạo. Nếu chúng ta phân tích các tổng hợp sắc ấy, chúng ta sẽ thấy có chín loại sắc trong mỗi tổng hợp: đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, dưỡng chất và (âm) thanh (sắc cảnh thinh). Bộ xương cũng là nguyên khối của các tổng hợp sắc. Nếu là một cơ thể sống thì có tổng cộng năm loại tổng hợp sắc. Nếu phân tích các tổng hợp sắc ấy, chúng ta thấy có bốn mươi bốn loại sắc. 
 
Trong phần niệm thân, đức Phật dạy hai loại thiền: chỉ và quán. Trong mục quán thân, Ngài gồm luôn niệm hơi thở (ānāpānasati) và ba mươi hai thể trược v.v... Vì thế, nếu hành giả đang hành niệm hơi thở, hành giả cũng đang hành quán thân. Tất cả những pháp thiền chỉ ấy đều đi vào phần quán thân. Sau khi hành giả đã thành công trong việc hành thiền chỉ, hành giả chuyển sang thiền minh sát và thấy hai mươi tám loại sắc. Như thế cũng là đang hành quán thân. Vào lúc hành phân biệt danh (nāmakammaṭṭhāna), khi hành giả phân biệt các cảm thọ, thì đó là quán thọ; khi phân biệt tâm, là quán tâm; khi phân biệt xúc, là quán pháp. Nhưng chỉ phân biệt thọ, tâm và xúc thôi thì chưa đủ để đắc các tuệ minh sát. Vì thế, chúng ta phải phân biệt các tâm sở còn lại. Sau khi đã phân biệt xong danh và sắc, chúng ta còn phải phân biệt các nhân của chúng trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là tuệ phân biệt Nhân Duyên (paccaya pariggaha ñāa). Sau tuệ phân biệt Nhân Duyên, tức là khi hành giả đã đạt đến giai đoạn minh sát (vipassanā), hành giả có thể nhấn mạnh vào sắc, hoặc thọ, tâm hay xúc. "Nhấn mạnh" ở đây không có nghĩa là hành giả chỉ phân biệt duy nhất một trạng thái. Hành giả có thể nhấn mạnh sắc nhưng cũng không bỏ quên danh. Tức là, hành giả cũng phải phân biệt thọ, tâm và pháp nữa.
 
Hành giả có thể nhấn mạnh các cảm thọ. Nhưng các cảm thọ thôi chưa đủ. Hành giả còn phải phân biệt các tâm hành đồng sanh với chúng, các căn của chúng và các đối tượng của chúng. Năm căn và các đối tượng của chúng là sắc. Đối với các tâm và pháp cũng như vậy. 
 
Vì thế ở đây, vipassanā là quán tính vô thường, khổ và vô ngã của danh - sắc và các nhân của chúng. Các pháp ấy diệt ngay khi chúng vừa sanh lên, đó là vô thường. Chúng bị đàn áp với bởi sự sanh diệt liên tục, đó là khổ. Trong các pháp ấy không có tự ngã, không có gì bền vững, thường hằng và bất tử, đó là vô ngã. Sự phân biệt tính vô thường, khổ và vô ngã của danh - sắc và các nhân, các quả của chúng được gọi là thiền minh sát. Khi một hành giả hành thiền chỉ và quán, có thể nói là hành giả ấy đang hành Tứ Niệm Xứ. 
 
Khi hành giả hành Tứ Niệm Xứ, hành giả phải đề khởi đủ Tứ Chánh Cần. Đó là: 
 
- Tinh tấn ngăn không cho những bất thiện pháp khởi sanh
- Tinh tấn trừ diệt các bất thiện pháp đã sanh
- Tinh tấn phát khởi những thiện pháp chưa sanh (định thiện pháp, minh sát thiện pháp, Thánh đạo thiện pháp v.v...)
- Tinh tấn tu tập các thiện pháp cho đến A-la-hán Thánh quả. 
 
Hành giả phải hành như thế nào? Hành giả phải hành theo Tứ Niệm Xứ . Khi hành cần phải đề khởi đủ bốn loại tinh tấn vừa đề cập, "dù cho thịt và máu ta có khô cạn chỉ còn lại xương và gân, ta cũng không từ bỏ thiền này." 
 
Khi hành, hành giả phải có Tứ Thần Túc: 
 
- Dục (chanda): lòng mong mỏi kiên trì và mãnh liệt muốn đạt đến Niết-bàn.
- Cần (vīriya): tinh tấn kiên trì và mãnh liệt để đạt đến Niết-bàn.
- Tâm (citta): tâm kiên trì và mãnh liệt để đạt đến Niết-bàn.
- Thẩm (vimasa): minh sát tuệ kiên trì và mãnh liệt để đạt đến Niết-bàn. 
 
Nếu có lòng mong mỏi mạnh mẽ như vậy, chúng ta sẽ đạt đến mục đích. Không có điều gì không thể thành tựu nếu có đủ hoài bão. Với tinh tấn, tâm và thẩm, không có gì không thể thành tựu. 
 
Khi hành chỉ và quán dựa trên giới, chúng ta cũng phải có ngũ căn. Đó là: 
 
- Tín (saddha): niềm tin kiên cố nơi đức Phật và những lời dạy của Ngài.
- Tấn (vīriya): vận dụng tinh tấn đủ mạnh.
- Niệm (sati): phải có niệm đủ mạnh trên đối tượng thiền. Nếu là thiền chỉ, nó phải là một đối tượng như tướng hơi thở (ānāpāna nimitta) hoặc tướng kasiṇa (kasia nimitta).
 
Nếu là minh sát (quán), nó phải là danh, sắc và các nhân của chúng. 

- Định (samādhi): phải có định đủ mạnh trên các đối tượng chỉ và minh sát.
- Tuệ (paññāa): phải có sự hiểu biết đầy đủ về các đối tượng thiền chỉ và thiền minh sát. 
 
Năm căn tinh thần này sẽ kiểm soát tâm của hành giả, nhờ vậy nó không đi chệch ra khỏi con đường Bát Chánh, đưa đến Niết-bàn. Nếu hành giả không có một trong những căn này, hành giả không thể đạt đến mục tiêu của mình được. Hành giả không thể kiểm soát được tâm của mình. Năm căn này có sức mạnh kiểm soát được tâm hành giả, nhờ vậy nó không rời khỏi đối tượng thiền của hành giả. Sức mạnh này cũng được gọi là ý lực (bala). Trên ý nghĩa của ý lực, năm căn tinh thần được gọi là ngũ lực (pañcabalāni). 
 
Ngoài Tứ Niệm Xứ ra, Thất Giác Chi (satta bojjhaga) cũng rất quan trọng. Đó là: 
 
- Niệm (sati)
- Trạch pháp (dhammavicaya). Đây là minh sát tuệ.
- Tinh tấn (vīriya)
- Hỷ (pīti)
- An tịnh (passadhi)
- Định (samādhi)
- Xả (upekkhā
 
Cuối cùng, có Bát Chánh Đạo (Ariyo aṭṭhangiko maggo): 
 
- Chánh Kiến (sammā diṭṭhi)
- Chánh Tư Duy (sammā sankappa)
- Chánh Ngữ (sammā vācā)
- Chánh Nghiệp (sammā kammanta)
- Chánh Mạng (sammā ājīva)
- Chánh Tinh Tấn (sammā vāyāma)
- Chánh Niệm (sammā sati)
- Chánh Định (sammā samādhi). 
 
Nói cách khác, đó là Giới, Định và Tuệ - Tam Học. Chúng ta phải hành Tam Học này một cách hệ thống.
  
Tất cả có 37 Pháp Trợ Giác Ngộ. Ước nguyện của đức Phật là các đệ tử của Ngài phải nắm vững 37 Pháp này và thực hành các pháp ấy cho đến quả vị A-la-hán. Nếu làm được điều đó, chúng ta có thể truyền trao cho các thế hệ tương lai di sản này. Như vậy, chúng ta và các thế hệ tương lai sẽ nhận được những lợi ích trong đời này cho đến khi chứng đắc Niết-bàn. 
 
Những Lời Khuyên Của Đức Phật Cho Tăng Chúng.
  
Trong Kinh Đại Niết-bàn, đức Phật nói thêm: 
 
"Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo,
vayadhammā sankhārā appamādena sampādetha
."
  
(Này các tỳ khưu, tất cả hành (pháp hữu vi) phải chịu sự tan hoại,
Do đó hãy phấn đấu chớ nên dễ duôi.)
  
Tất cả danh - sắc và các nhân của chúng được gọi chung là các hành (sankhāra) vì chúng được tạo ra bởi các nhân tương ứng của chúng. Các hành luôn luôn vô thường. 
 
Hành giả không nên quên về tính vô thường này. Chính do quên tính vô thường (của các pháp) mà quý vị khao khát cho bản thân mình, cho con cái, cho gia đình, v.v... Nếu biết được mọi vật đều mang tính vô thường thì trong suốt cuộc đời, chúng ta sẽ cố gắng thoát khỏi nó. Vì thế, quý vị không nên quên lời khích lệ của đức Phật: "Tất cả các hành phải tan hoại, do đó, hãy phấn đấu chớ nên dễ duôi!" 
 
Đức Phật dạy tiếp: 
 
"Na cira Tathāgatassa Parinibbāna bhavissati.
Ito tinna
 māsāna accayena Tathāgato parinibbāyissati".
  
(Giờ diệt độ của Như Lai sắp đến,
Ba tháng nữa, kể từ hôm nay, Như Lai sẽ nhập Đại Niết-bàn.) 
 
Điều đó có nghĩa là Ngài sẽ diệt độ hoàn toàn. Quả thực là đau buồn khi nghe những lời đó. Đức Phật cũng nói: 
 
"Paripakko vayo mayha, paritta mama jīvita.

(Tuổi ta giờ đã quá già, thọ mạng chỉ còn ngắn ngủi.) 
 
Rồi Ngài đã mô tả tuổi già của Ngài cho Tôn giả Ānanda: 
 
"Này Ānanda, Ta nay đã già yếu, đã vượt qua năm tháng,
Năm nay ta đã tám mươi, đã trải qua cuộc đời. 
 
Như một chiếc xe cũ kỹ, này Ānanda, được ràng giữ lại với nhau với nhiều khó khăn, thân của Như Lai cũng vậy, chỉ khi được hỗ trợ mới tiếp tục tồn tại. 
 
Đó là, này Ānanda, chỉ khi Như Lai không tác ý đến các đối tượng bên ngoài, với sự diệt trừ một cảm thọ, chứng và trú Vô Tướng Tâm Định, thân ta mới được thoải mái." 
 
"Pahāya vo gamissāmi, kata me saraamattano.

(Từ biệt các người ta ra đi, chỉ nương tựa vào chính mình mà thôi.) 
 
Điều đó có nghĩa Ngài sẽ nhập Đại Niết-bàn và rời bỏ tất cả. Ngài đã tạo dựng nơi nương tựa cho chính Ngài bằng quả vị A-la-hán. 
 
"Do vậy, này Ānanda, hãy là hòn đảo cho chính mình, hãy nương tựa vào chính mình, đừng tìm sự nương tựa ở bên ngoài; hãy lấy Pháp làm hòn đảo, lấy Pháp làm nơi nương tựa, chớ tìm sự nương tựa nào khác.  
 
Và này Ānanda, một vị tỳ khưu là hòn đảo cho chính mình, là nơi nương tựa cho chính mình, không tìm nơi nương tựa bên ngoài, lấy Pháp làm hòn đảo, lấy Pháp làm nơi nương tựa, không tìm sự nương tựa nào khác, là thế nào?"  
 
Câu trả lời của đức Phật như sau: 
 
"Appamattā satimanto susīlā hotha bhikkhavo
Susamāhitasankappā sacittamanurakkhatha
." 
 
(Như vậy, này chư tỳ khưu, hãy chuyên cần chánh niệm và giới hạnh trong sạch.
Với quyết tâm vững chắc, canh giữ tâm của các người.) 
 
"Susīlā hotha bhikkhavo", có nghĩa, "Này các tỳ khưu, các người phải cố gắng thanh tịnh giới hạnh của mình. Các người phải cố gắng là những vị tỳ khưu có giới hạnh hoàn toàn trong sạch." Điều này muốn nói chúng ta phải trau dồi giới học, đó là, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. 
 
"Susamāhita" nghĩa là, chúng ta phải thực hành định học, tức chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. "Sankappā", nghĩa là tuệ học, tức chánh kiến và chánh tư duy. 
 
"Appamattā" nghĩa là để thấy, với minh sát trí, tính vô thường, khổ và vô ngã trong các hành. 
 
"Satimato" có nghĩa khi chúng ta thực hành Tam Học - Giới, Định, Tuệ - chúng ta phải có đủ chánh niệm. 
 
Vì thế chúng ta cần phải chánh niệm và chuyên cần. Chánh niệm về những gì? Chánh niệm về Tứ Niệm Xứ, danh và sắc, hay nói khác hơn, chúng ta phải chánh niệm trên các hành. 
 
Cuối cùng, đức Phật nói:
  
"Yo masmi dhamma vinaye appamatto vihessati
pahāya jātasamsāra
 dukkhassanta karissati.
 
(Bất cứ người nào nhiệt tâm theo đuổi Pháp và Luật (dhamma - vinaya) này sẽ vượt qua vòng tử sanh luân hồi, đoạn tận mọi khổ đau.)
 
 
Như vậy, nếu muốn chấm dứt tử sanh luân hồi, chúng ta phải theo những lời dạy của đức Phật, tức là Bát Thánh Đạo. Chúng ta hãy phấn đấu nỗ lực trước khi cái chết xảy ra.
  
Cầu mong tất cả chúng sinh được an vui hạnh phúc. 
 
Ghi chú:
 
Đức Phật Gotama có ba loại Thánh quả định:
 
1. A-la-hán Thánh Quả Định sau Đạo (maggānantra phala samāpatti). Đây là A-la-hán Thánh Quả Định đến liền sau thiện nghiệp A-la-hán Thánh đạo (Noble Arahant-Path wholesome kamma). Nó có đặc tính của vô gián quả và được đề cập đến như sát-na quả định (khaika phala samāpatti). Ba sát-na tâm quả sanh liền sau A-la-hán Thánh đạo tâm của đức Phật thuộc về loại này.
 
2. A-la-hán Thánh Quả Định vãng lai (valañjana phala samāpatti). Đây là A-la-hán Thánh Quả Định kéo dài mà một vị A-la-hán có thể nhập vào lúc nào cũng được. Thiền quả này được xem là sự thọ hưởng an lạc tịch tịnh của Niết-bàn và cũng đề cập đến như một loại sát-na quả định. Đức Phật thường xuyên nhập vào định chứng này, ngay cả trong lúc Ngài đang thuyết pháp, khi mà thính chúng đang hoan hỷ nói lên lời "sādhu, sādhu" (lành thay, lành thay). Ở đây phải hiểu là, chỉ cần một thời khắc ngắn ngủi giữa thời pháp, lúc mọi người đang hoan hỷ nói lời "sādhu", đức Phật đã nhập vào định chứng này, rồi xuất liền để tiếp tục thuyết pháp.
 
3. A-la-hán Thánh Quả Định duy trì thọ mạng (āyusankhāra phala samāpatti). Thánh quả này luôn luôn theo sau vipassanā (minh sát) với bảy cách quán sắc và bảy cách quán danh. Các pháp này được đức Bồ tát thực hành ở ngưỡng Giác Ngộ dưới cội bồ đề và hàng ngày từ khi chứng đau lưng của Ngài xuất hiện ở ngôi làng Veluna cho đến ngày Bát Niết-bàn của Ngài. Lúc sắp hoàn tất công việc minh sát và nhập A-la-hán Thánh Quả Định, đức Phật quyết định: "Kể từ hôm nay cho đến ngày Bát Niết-bàn, thọ khổ này sẽ không khởi lên". Rồi Ngài tiếp tục hành vipassanā trở lại để sau đó nhập A-la-hán Thánh Quả Định.
 
Cái khác giữa sát-na Thánh quả định và Thánh quả định duy trì thọ mạng là ở chỗ minh sát đi trước. Sát-na A-la-hán Thánh Quả Định chỉ là sự thọ hưởng an lạc tịch tịnh của Niết-bàn được đi trước bởi một phương thức nhập vào minh sát bình thường. Trong khi đó A-la-hán Thánh Quả Định duy trì thọ mạng lại được đi trước bởi một phương thức hành minh sát cao hơn đòi hỏi phải có nỗ lực lớn, đó là thực hành theo bảy cách quán sắc (rūpusattaka) và bảy cách quán danh (arūpusattaka). Cái khác trên phương diện kết quả là sát-na A-la-hán Thánh Quả Định chỉ đè nén được một thọ khổ trong thời gian nhập định chứng ấy, như một viên đá rơi vào nước chỉ xuyên qua nước bao lâu còn tác động của nó, sau đó đám bèo lại phủ lại. Còn A-la-hán Thánh Quả Định duy trì thọ mạng có thể đè nén cơn đau trong một thời hạn đã định (như ở đây đức Phật quyết định 10 tháng), tựa như một người khỏe mạnh lao vào hồ nước và vẹt sạch đám bèo ấy, nhờ vậy đám bèo sẽ không phủ lại trong một thời gian đáng kể.

Giáo huấn cao thượng của Đức Phật

Giáo huấn cao thượng của Đức Phật
Hòa Thượng Mahāsi
image
Đức Phật là nơi nương tựa của mọi Phật tử chúng ta. Ngài là người tự mình chứng nghiệm Giáo Pháp cao thượng bao gồm Giới, Định, Huệ và giải thoát. Sau khi khám phá ra chân lý, chứng nghiệm Niết Bàn, Đức Phật đem những điều mình thực chứng ra giảng dạy trong suốt bốn mươi lăm năm cho những ai muốn tìm đường giải thoát như Ngài. Người nào tinh tấn thực hành giáo pháp của Ngài sẽ thoát khỏi khổ đau.
Trước khi  thành Phật, Ngài hành hạnh Bồ Tát trong một thời gian dài đến bốn A Tăng Kỳ và một trăm ngàn Đại Kiếp. Từ lúc đảnh lễ dưới chân Đức Phật Nhiên Đăng nguyện trở thành một Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác cho đến khi Ngài hoàn toàn giác ngộ, Bồ Tát đã tu tập thuần thục và tròn đủ mười hạnh Ba La Mật (bố thí, trì giới, xuất gia, trí huệ, tinh tấn, nhẫn nại, chơn thật, quyết định, tâm từ và tâm xả). Đến kiếp cuối cùng, cách đây trên 2500 năm, Ngài là con của vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Māyā. Vua cha đặt tên cho Ngài là Sĩ Đạt Ta. Năm mười sáu tuổi, Ngài thành hôn với Công Chúa Da Du Đà La và tiếp tục hưởng thú giàu sang phú quí. Năm hai mươi chín tuổi, ý thức được nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh, Ngài quyết định từ giả cuộc đời thế tục, tìm đường thoát khỏi cảnh già đau chết.

Đầu tiên Bồ Tát đến học đạo với thầy Alārā, người đã đạt được tầng thiền vắng lặng thứ bảy. Sau đó lại tu tập dưới sự chỉ dẫn của Udaka, người đã đạt đến tầng thiền vắng lặng thứ tám, tầng thiền vắng lặng cao nhất. Sau một thời gian thực hành không lâu, Bồ Tát đã tự mình đạt được thầng thiền thứ bảy và tám như thầy. Mặc dầu đã theo kịp thầy nhưng Ngài thấy rằng: "Hai tầng thiền này không có đủ khả năng giúp ta thoát khỏi cảnh già, đau, chết mà chỉ đưa ta đến cõi vô sắc, có thể sống một đời sống lâu dài... Nhưng sau khi hưởng tuổi thọ lâu dài bằng sáu chục ngàn hay tám mươi bốn ngàn lần của trái đất, ta cũng phải thác sanh trở lại cõi người và tiếp tục chịu già, đau, chết. Lại cũng có thể tái sanh vào bốn đường ác: (Súc Sanh, Ngạ Quỷ, A Tu La, Địa Ngục). Vậy thì dù đạt được tầng thiền cao tột bực vẫn không thoát khỏi luân hồi đau khổ trong sáu đường (Trời, Người, A Tu La, Ngạ Quỉ, Súc Sanh, Địa Ngục)." [*]

Ý thức như thế nên Bồ Tát từ bỏ những tầng thiền thế tục, tiếp tục tìm kiếm con đường giải thoát già, đau, chết. Vào thời bấy giờ người ta hay chọn lối tu khổ hạnh, thế là Bồ Tát bắt đầu tu khổ hạnh. Mỗi ngày Ngài chỉ dùng một ít thức ăn, có lúc chỉ là một nắm đậu nhỏ. Trong sáu năm liền kham khổ, Ngài cố gắng hành cho đến mức tận cùng của phương pháp khổ hạnh. Nhưng phương pháp khổ hạnh không đem lại kết quả: Thân thể ngày càng kiệt quệ mà trí tuệ không phát triển thêm chút nào. Cuối cùng, Ngài bỏ phương pháp tu khổ hạnh và thực hành phép thiền định về hơi thở, quán sát hơi thở ra vào, và đạt đến tầng thiền hữu sắc thứ tư. Sau đó, Ngài tiến đến những mức độ phát triển tinh thần cao hơn.

Cuối cùng Ngài khám phá ra rằng: có già, chết vì có tái sinh và tái sinh là kết quả của tham ái, và nghiệp. Tham ái có nguyên nhân là cảm thọ. Nếu thấy bằng một nhãn quan đúng đắn thì sẽ nhận rõ thực trạng của cảm thọ, đó chỉ một chuỗi tiến trình sinh diệt. Khi nhận thức được rằng cảm thọ sinh ra rồi diệt ngay thì lòng ham muốn không khởi dậy nữa. Khi lòng ham muốn chấm dứt thì chấp thủ và nghiệp tạo ra để thỏa mãn dục lạc cũng chấm dứt. Khi nghiệp lực chấm dứt thì tái sinh không còn, đau khổ của già, chết cũng chấm dứt.
Nhận thức được điều này, Bồ Tát gia công quán sát sự sanh diệt của ngũ uẩn thủ [**] hay Vật Chất và Tâm. Quán sát như vậy tham ái không có cơ hội dấy lên.
Những tập hợp luyến ái (uẩn thủ) là những hiện tượng tâm vật lý phát sinh ra mỗi khi ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm và suy nghĩ. Chẳng hạn: trong mỗi sự thấy đều có ba yếu tố:

- Cơ quan thâu nhận: mắt (nhãn căn)
- Cơ quan kích thích: vật được thấy (nhãn trần)
- Cơ quan nhận biết: sự biết của mắt (nhãn thức)

Khi Sự Biết của mắt phát sinh thì Cảm Thọ phát sinh; Tri Giác về vật được thấy phát sinh; Phản ứng Của Tâm trước đối tượng được thấy phát sinh.

Mắt và vật thấy là những tập hợp vật chất (sắc uẩn). Các tập hợp Vật Chất này được chúng ta chấp lấy và xem chúng là trường cửu, đáng yêu và là của ta thật sự.

Cái biết của măt (Thức) cùng các hiện tượng của tâm như: Cảm giác (thọ), Tri giác (Tưởng) Phản ứng của tâm (Hành) là những tập hợp của Tâm (Nāma). Các tập hợp của tâm này cũng được chúng ta xem là trường cửu, đáng yêu và là sỡ hữu của ta.
Tóm lại, mắt và vật thấy là những tập hợp của Vật Chất (Sắc) và sự biết của mắt, là Tâm (Nāma). Chỉ có hai đặc tính vật chất và tâm linh này mà thôi; chẳng có gì khác nữa. Các hiện tượng tâm-vật lý này sẽ phát sinh mỗi khi ta nhìn. Và mỗi tác động nhìn, sinh ra rồi diệt ngay tức khắc. Tuy nhiên, nếu chúng ta không ghi nhận kịp thời mỗi khi thấy thì vật thấy sẽ được chúng ta chấp giữ và xem là cái gì trường cửu bất biến. Sự chấp giữ và nghiệp tạo ra để thỏa mản dục lạc là nguyên nhân của tái sinh. Vì có tái sinh nên có đau khổ của già, chết.

Nếu mỗi một sự thấy đều được ghi nhận kỹ càng thì ta sẽ nhận ra được sự sinh diệt của năm nhóm tập hợp (Ngũ Uẩn hay Danh Sắc); nhờ đó, sự luyến ái sẽ không phát sinh. Nghiệp tạo ra bởi sự chấp thủ, ao ước một kiếp sống mới cũng ngừng nghỉ. Kết quả là khổ già, đau, chết chấm dứt.

Tương tự như vậy, nếu mọi hiện tượng phát sinh lúc ta nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ không được ghi nhận và ý thức sáng suốt kịp thời thì Chấp Thủ và Hữu (muốn có một kiếp sống mới) sẽ phát sinh; và khổ già, đau, chết sẽ nối liền theo đó. Ngược lại, nếu các hiện tượng tâm vật lý mỗi khi xuất hiện đều được ghi nhận kịp thời và với ý thức sáng suốt thì Chấp Thủ và Hữu sẽ chấm dứt và khổ già đau chết cũng không phát sinh.

Nhờ quán chiếu sự sinh diệt của ngũ uẩn thủ, nên chẳng bao lâu Bồ Tát thoát ra khỏi các Lậu Hoặc (Àsava-kilesa): Dục lậu, Hữu lậu và Vô Minh lậu và thành Phật.

Trên đây là sơ lược những điều thực hành của Bồ Tát để loại bỏ: sanh, già, bệnh, chết và thành đạt Đạo Quả, chứng nghiệm Giáo Pháp cao thượng bao gồm Giới, Định, Huệ và giải thoát. Và với tình thương rộng lớn, Đức Phật đã đem Giáo Pháp Cao Thượng, con đường thoát khổ ra giảng dạy cho những ai muốn tìm đường giải thoát như Ngài .
Sau khi Giác Ngộ, Đức Phật đến vườn Lộc Uyển ở rừng Migadaya để thuyết pháp độ năm thầy Kiều Trần Như, đó là: Kondañña, Vappa, Bhaddiya, Mahā nāma và Assaji.

Đây là năm người học trò đã theo Bồ tát trong thời gian Ngài hành các pháp khổ hạnh. Bồ Tát đã tích cực hành pháp khổ hạnh đến nỗi thân thể chỉ còn da bọc xương. Về sau, thấy phương pháp khổ hạnh chỉ đem lại đau khổ mà trí tuệ chẳng hề tăng trưởng, nên Ngài quyết định dùng lại thức ăn để có đủ sức hành thiền quán niệm hơi thở. Thấy Ngài không còn tu khổ hạnh, năm thầy Kiều Trần Như lấy làm thất vọng và bỏ Ngài ra đi. Họ đến trú tại Lộc Uyển (vườn nai) gần Bénares, cách Bodhigaya một trăm bốn mươi dặm. Từ Bodhigaya Đức Phật đi bộ đến Lộc Uyển. Sau khi đến vườn nai, ngồi vào chỗ dọn sẵn, Đức Phật nói với năm thầy:

- Ta đã tìm thấy chánh pháp bất diệt, nếu các thầy thực hành theo Giáo Pháp các thầy sẽ đạt được pháp cao thượng mà các thầy muốn tìm kiếm. Hãy nghe!

Năm thầy Kiều Trần Như trả lời:

- Này hiền giả Gotama, trong thời gian hiền giả hành khổ hạnh tích cực như thế mà hiền giả còn chưa đạt được sự sáng suốt, huống hồ bây giờ hiền giả đã bỏ lối tu cao thượng này thì làm sao đạt được kết quả.

Đức Phật, với tình thương, lập đi lập lại ba lần, khuyên các thầy hãy lắng nghe giáo pháp, nhưng cả ba lần các thầy vẫn không tin tưởng. Cuối cùng Đức Phật nói với họ:

- Các thầy thân mến, không phải đây là lần đầu tiên ta gặp các thầy. Các thầy đã sống với ta trong sáu năm lúc ta tu khổ hạnh. Từ trước đến nay có bao giờ các thầy từng nghe ta nói rằng ta đã đạt pháp cao thượng chưa?

Nghe Đức Phật nói thế, các thầy đặt lòng tin tưởng và lắng nghe lời dạy của Đức Phật. Bài pháp đầu tiên này có tên là Kinh Chuyển Pháp Luân. Kinh khởi đầu như sau: " Sau khi tự mình chứng ngộ giáo pháp cao thượng, Đức Thế Tôn dạy cho năm thầy Kiều Trần Như giáo pháp mà Ngài đã chứng ngộ để họ có thể thấy được chân pháp như Ngài".

Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu một vài đoạn chính trong kinh này.

Từ năm mười sáu cho đến năm hai mươi chín tuổi, Bồ Tát Sĩ Đạt Ta hưởng thụ lạc thú ngũ trần bên cạnh người vợ xinh đẹp và đoàn cung nữ mỹ miều. Đối với người bình thường thì lạc thú thế gian là nguồn hạnh phúc lớn lao mà họ cố công tìm kiếm và hưởng thụ. Vì si mê đưa đến hiểu biết sai lầm, mục tiêu để tìm kiếm hạnh phúc của họ là ngũ dục thế gian nên họ không thoát khỏi khổ đau do tham lam sân hận đem lại. Họ bị tràn ngập bởi phiền não, ô nhiễm sinh ra từ lòng ham muốn được hiện hữu, luôn luôn dính liền với già, đau, chết. Nhưng dưới cặp mắt của bậc trí giả, mọi lạc thú thế gian đều tạm bợ, không thể nào thỏa mãn ước vọng con người; chỉ có thoát ra khỏi vòng sanh tử mới là hạnh phúc trường cửu. Nhưng muốn thoát ra khỏi vòng sanh tử, đạt chân hạnh phúc phải thoát khỏi thế gian này, và hạnh phúc cuối cùng này chỉ có thể thành tựu trọn vẹn nhờ vượt ra khỏi mọi bất tịnh của tham lam, sân hận. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy chư tăng phải cố gắng giải thoát ra khỏi mọi phiền não, bằng cách tránh xa mọi lạc thú ngũ trần qua phương pháp hành thiền tích cực. Đó cũng là điều Bồ Tát đã ý thức khi Ngài từ giã vợ con, rời bỏ mọi thú vui cuộc đời, ra đi tìm chân lý.
Từ bỏ tu khổ hạnh, không phải Bồ Tát muốn trở về con đường hưởng thụ dục lạc mà để có đủ sức khỏe thực hành phép luyện tâm. Bồ Tát thấy rõ khổ hạnh chỉ làm cho cơ thể hao mòn mà chẳng gặt hái được Giáo Pháp cao thượng. Trung đạo chỉ được tìm thấy sau khi Ngài đã từ bỏ hai thái cực "lợi dưỡng" và "khổ hạnh" mà thôi.  Con đường trung dung này gồm có:

Chánh Kiến: Có cái nhìn đúng.
Chánh Tư Duy: Suy tư đúng, hướng tâm đúng.
Chánh ngữ: Nói lời đúng.
Chánh Nghiệp: Hành động đúng.
Chánh Mạng: Sự nuôi mạng chân chánh.
Chánh Tinh Tấn: Nỗ lực đúng.
Chánh Niệm: Ghi nhớ, biết mình đúng.
Chánh Định: Thiền định chân chánh.

Trong tám chi của Bát Chánh Đạo thì Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc phần Giới. Đối với người cư sĩ, nếu Ngũ Giới được thận trọng giữ gìn thì phần giới đã đạt mức khả quan. Nhưng giới được gọi là trọn vẹn khi đắc quả Tu Đà Huờn. Bởi thế bậc Tu Đà Huờn được gọi là bậc đã tròn đủ giới hạnh. Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định thuộc phần Định. Định chỉ đạt được mức khả quan khi hành giả đạt các tầng định. Nhưng Định chỉ được tròn đủ khi đắc quả A-Na-Hàm. Bởi thế A-Na-Hàm được gọi là bậc đã tròn đủ định lực. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thuộc phần Huệ. Trong khi nghi nhận các hiện tượng tâm vật lý tiềm tàng trong mỗi động tác nghe, thấy v.v... và trong khi nhận biết được sự sinh diệt của chúng thì Huệ sẽ được khai triển cùng lúc với Giới và Định. Huệ được tròn đủ khi đắc quả A-La-Hán. Bởi thế A-La-Hán được gọi là bậc đã tròn đủ Huệ lực. Khi đạt quả A La Hán Bồ Tát thoát khỏi mọi Hoặc Lậu, Phiền Não.

Bồ Tát đạt đạo quả A-La-Hán và thành Phật nhờ quan sát sự sanh diệt của Ngũ Uẩn Thủ và khai triển Bát Chánh Đạo. Đức Phật tìm thấy Trung Đạo khi Ngài từ bỏ hai thái cực Lợi Dưỡng và Khổ Hạnh. Ngài dạy chúng ta thực hành Bát Chánh Đạo để đạt huệ nhãn và tự mình thành tựu Thánh Trí.

Huệ nhãn ở đây là sự hiểu biết, được gọi là con mắt trí tuệ, vì Huệ nhãn thấy rõ như thấy bằng mắt. Huệ nhãn thấy rõ rằng mọi tác động, mọi kinh nghiệm: thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và hiểu biết gì cũng chỉ là những hiện tượng tâm vật lý cùng nhân quả mà thôi. Huệ nhãn cũng đồng thời tự kinh nghiệm, tự nhận biết rằng chẳng có một cái ta trường tồn vĩnh cữu, tất cả chỉ là sự biến đổi liên tục của hiện tượng tâm vật lý vô bản thể. Tất cả những ý thức trên đều do tự mình chứng nghiệm, chứ không phải chỉ là sự tin tưởng mù quáng thâu nhận từ một vị thầy nào, cũng không phải là sự nhắm mắt tin càng những lời dạy của Đức Phật. Bởi thế lời dạy của Đức Phật được tán dương là Sanditthiko có nghĩa là "Pháp tự mình ngộ lấy qua thực hành".

Bát Chánh Đạo được gọi là Trung Đạo, có khả năng giúp người hành trì có được tuệ nhãn để thấy rõ chân tướng của sự vật, tiêu diệt phiền não, chứng quả Niết Bàn. Bất cứ ai quyết tâm hành trì Bát Chánh Đạo đều có thể đạt tuệ giác, loại trừ phiền não, chứng quả Niết Bàn.

Sau khi lắng nghe lời giảng dạy của Đức Phật qua bài pháp đầu tiên, Kiều Trần Như là người đầu tiên đắc quả Tu Đà Huờn. Trong khi đó có một trăm tám chục triệu vị chư Phạm Thiên thường được gọi là các vị Thượng Đế cai quản các cõi trời Phạm Thiên đắc đạo quả. Vô số các vị Chúa Trời và các vị trời khác chứng nghiệm giáo pháp vi diệu.

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu cách thực hành Bát Chánh Đạo.

Khi ngồi thiền, thiền sinh ngồi theo nhiều cách khác nhau. Có thể ngồi theo lối kiết già: hai chân tréo nhau, hai bàn chân đặt lên hai vế;có thể theo lối bán già: chân này đặt lên chân kia hoặc ngồi theo lối tự nhiên thoải mái, hai chân rời nhau không chân nào chồng lên chân nào, chân này để trước chân kia . Để có thể ngồi lâu, ngày nay một số nơi trên thế giới, thiền sinh có thể ngồi trên ghế. Nhưng dầu ngồi xếp bằng hay ngồi trên ghế lưng cũng phải giử thẳng. Mục đích giử thẳng lưng là để sự tinh tấn không bị suy yếu. Thiền sinh cũng không được dựa vào vách hay thành ghế. Tâm phải chú vào đề mục thiền. Dầu thiền Kasina (dùng đối tượng bên ngoài như đất, nước, màu sắc v.v...), quán sát thân bất tịnh hay niệm hơi thở, tâm cũng phải dán chặt vào đối tượng thiền.
Thiền Minh Sát (vipassana) là quán sát các hiện tượng xảy ra ở sáu cửa giác quan. Thoạt đầu, thiền sinh khó có thể quán sát tất cả các hiện tượng xảy ra ở sáu cửa, do đó chỉ cần chú tâm đến một ít hiện tượng mà thôi. Đó là lý do tại sao thiền sinh được đề nghị chú tâm vào chuyển động phồng xẹp của bụng, theo dõi sự chuyển động của bụng. Thiền sinh dùng tâm để quán sát các chuyển động ở bụng chứ không phải dùng mắt, do đó khi ngồi thiền, thiền sinh nên nhắm mắt lại.

Khi bụng phồng lên, ghi nhận "phồng"; và khi bụng xẹp xuống, ghi nhận "xẹp".
Không cần phải niệm ra miệng. Chỉ ghi nhận thầm trong tâm mà thôi. Nhớ là chú tâm vào chuyển động phồng xẹp chứ không chú tâm vào chữ phồng xẹp.
Phải theo dõi chuyển động phồng xẹp từ lúc phồng bắt đầu cho đến lúc phồng chấm dứt, từ lúc xẹp bắt đầu cho đến lúc xẹp chấm dứt. Đây là sự quán sát yếu tố chuyển động hay yếu tố gió của bụng biểu hiện qua sự căng cứng, sự bành trướng, sự rung chuyển của bụng.
Trong khi đang ghi nhận các chuyển biến của bụng, nếu có tư tưởng gì đến phải cẩn thận ghi nhận. Sự ghi nhận này gọi là Niệm Tâm. Sau khi ghi nhận "suy nghĩ", hãy trở về với đề mục chuyển động "phồng" hoặc "xẹp".

Trong khi đang theo dõi chuyển động phồng xẹp, nếu có sự đau, nhức phát sinh, hãy ghi nhận "đau, đau" hay "nhức, nhức". Đó là niệm Thọ (niệm cảm giác) rồi lại trở về với chuyển động phồng xẹp.

Khi đang theo dõi chuyển động của bụng, nếu tai nghe gì hãy ghi nhận "nghe, nghe" rồi trở về với chuyển động phồng xẹp. Đó là niệm Pháp.

Trên đây là sơ lượt về cách hành thiền minh sát. Bây giờ các bạn hãy hành thiền trong hai phút.

Giải Thích


Hai phút đã trôi qua. Trong mỗi phút, bạn ghi nhận khoảng năm mươi hay sáu mươi lần. Trong mỗi sự ghi nhận bạn đã thực hành Bát Chánh Đạo. Các bạn thử xem Bát Chánh Đạo thể hiện như thế nào.

Cố gắng ghi nhận chuyển động phồng xẹp của bụng là Chánh Tinh Tấn.

Theo dõi, ghi nhận đề mục là Chánh Niệm.

Tâm không rời đề mục, luôn luôn chú tâm trên đề mục là Chánh Định.

Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định là Định Đạo.

Biết rõ đề mục ghi nhận là Chánh Kiến.

(Lúc mới bắt đầu thực tập ghi nhận, Chánh Kiến chưa rõ ràng. Nhưng dần dần bạn sẽ thấy rõ rằng chỉ có thân và tâm trong mọi tác động ghi nhận, ngoài ra chẳng có gì nữa cả. Vì có ý muốn di chuyển nên tác động di chuyển mới xảy ra. Vì có vật để nhìn nên mới có tâm nhìn. Thiền sinh sẽ phân biệt được nhân và quả trong mỗi tác động. Mọi vật hiện ra một cách thật mới mẻ rồi lại biến mất ngay. Đây cũng là một sự thật hiển nhiên. Sự ghi nhận này cho ta thấy một luồng sinh diệt, sinh diệt diễn ra khiến thiền sinh ý thức được sự biến chuyển hay đặc tính Vô Thường của vạn pháp. Một cái thân tâm cũ chết đi, một cái thân tâm mới lại sinh ra. Thân tâm mới sinh ra lại chết đi, để một thân tâm khác sinh ra. Sinh sinh diệt diệt không ngừng. Cái chết đến từng khoảnh khắc một. Cuộc sống này thật đau thương sợ hãi làm sao. Thiền sinh lại nhận thức ra rằng mọi vật diễn biến theo chiều hướng riêng, không ai có thể kiểm soát được chúng; chẳng có linh hồn hay bản ngã gì cả. Tất cả mọi hiểu biết trên là Chánh Kiến).

Khi hành thiền, tâm không suy nghĩ đến đến các điều bất thiện, tâm hướng vào đề mục, đó là Chánh Tư Duy.

Chánh Kiến và Chánh Tư Duy lập thành Tuệ Đạo.

Ba Định Đạo và hai Tuệ Đạo được bản chú giải gọi là năm Kanaka Maggangas (Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định, Chánh Kiến và Chánh Tư Duy). Chúng hoạt động như một nhóm thợ năm người, mỗi người giữ một nhiệm vụ riêng, công việc chỉ hoàn thành được do sự hợp lực của cả năm người. Cùng thế ấy năm Định Tuệ Đạo này phải hoạt động hài hòa trong mỗi tác động ghi nhận và ý thức. Sự hài hòa của Năm Định Tuệ Đạo này là sức mạnh kỳ diệu để triển khai trí tuệ minh sát.

Giữ giới không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh là Chánh Nghiệp.

Giữ giới không nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời vô ích là Chánh Ngữ.

Nuôi mạng sống chân chánh, tránh xa các nghề nghiệp bất thiện là Chánh Mạng.

Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng tạo thành Giới Đạo. Giới Đạo được trọn vẹn khi thiền sinh biết giữ gìn giới luật.

Lúc hành thiền mỗi tác động ghi nhận đều bao gồm Bát Chánh Đạo trong đó. Mỗi lần chánh niệm ghi nhận, Bát Chánh Đạo sẽ được khai triển, và đường đến Niết Bàn nhân đó sẽ được thâu ngắn dần. Mỗi một niệm đưa ta đến gần Niết Bàn hơn. Niệm cuối cùng là bước cuối cùng đưa đến nơi giải thoát.

Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm. Nhưng dần dần, sau khi đã thiền được bốn năm mươi giờ, tâm định của bạn sẽ lớn mạnh. Tâm không còn vọng động nhiều nữa mà dính chặt vào đề mục hành thiền của bạn. Lúc bấy giờ, khi quán sát chuyển động phồng xẹp của bụng bạn sẽ phân biệt được rằng phồng là một chuyện, tâm ghi nhận là một chuyện khác. Khi ghi nhận sự xẹp thì bạn cũng thấy được xẹp là một chuyện và tâm ghi nhận xẹp là một chuyện khác. Khi ghi nhận "chuyển động" hay "đi", bạn sẽ phân biệt được sự chuyển động hay đi là một chuyện và tâm ghi nhận chúng là một chuyện khác. Khi ghi nhận "thấy", bạn sẽ phân biệt rõ mắt và vật thấy là một chuyện, tâm ghi nhận là một chuyện khác. Khi ghi nhận "nghe" bạn sẽ phân biệt được tai và âm thanh một chuyện, tâm ghi nhận là một chuyện khác. Phân biệt được đối tượng ghi nhận và tâm chi nhận là bạn đã khai triển được "Tuệ Phân Biệt Vật Chất Và Tâm". Ở tuệ này, bạn biết rõ và phân biệt rõ thế nào là vật chất, thế nào là Tâm.

Đến mức độ tiến bộ này, nếu tâm định và trí tuệ bạn phát triển mạnh hơn, bạn sẽ tự mình thấy rõ rằng: Vì có thở mới có sự phồng và xẹp. Vì có sự phồng và xẹp nên mới có sự ghi nhận "phồng", "xẹp". Vì có ý định đi nên bạn mới đi. Vì bạn di chuyển và đi nên mới có sự ghi nhận "di chuyển" và "đi". Vì có vật để thấy nên bạn thấy. Vì bạn thấy nên có sự ghi nhận "thấy, thấy". Vì có tiếng động nên bạn nghe. Vì có nghe nên bạn mới có ghi nhận "nghe, nghe" v.v... ở giai đoạn này, bạn tự mình thấy rõ Nhân và Quả. Vậy là bạn đã có "Tuệ Thấy Nhân Quả".

Lại nữa, nếu bạn không ghi nhận mỗi khi có sự thấy nghe thì bạn sẽ bị đắm mình trong ảo tưởng rằng tất cả sự vật đều trường tồn, đáng yêu, hạnh phúc, và có tự ngã. ảo tưởng này khiến bạn đắm say vào sự vật và cố gắng nắm giữ những gì mà mình ưa thích. Sự luyến ái này tạo ra nghiệp lực khiến bạn phải tái sanh nhiều lần. Vì có sự tái sanh nên có già, đau, chết. Bao lâu còn tái sanh thì tinh thần và thể xác còn chịu đau khổ. Bởi thế bạn phải luôn luôn chú tâm ghi nhận bất kỳ thứ gì diễn ra ở sáu cửa giác quan. Chú tâm ghi nhận, thì trí tuệ bạn ngày càng khai mở để tiến đến những tuệ giác cao hơn. Khi sự tinh tấn và trí tuệ phát triển mạnh mẽ, bạn sẽ thấy rõ rằng "đối tượng thiền" và "tâm ghi nhận đối tượng" vừa mới sinh ra lại biến mất đi ngay. Nghĩa là bạn sẽ thấy rõ "đối tượng mà bạn chú tâm vào" và "sự chú tâm ghi nhận đối tượng" sinh ra rồi diệt ngay lúc bạn ghi nhận. Lúc ấy bạn sẽ tự ý thức rằng cái gì sinh ra liền diệt ngay thì cái đó là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Có được trực giác kinh nghiệm này là bạn đã đạt được "Tuệ Tri Kiến", thấy rõ mọi sự vật đều mang đặc tướng Vô Thường, Khổ và Vô Ngã.

Khi tuệ tri kiến ngày một mạnh, bạn lại thấy rõ sự sinh diệt của các hiện tượng nhanh chóng hơn, bạn thấy rõ cách thức các pháp sinh ra và diệt ngay tức khắc, là có được "Tuệ Sinh Diệt". Khi được Tuệ Sinh Diệt bạn sẽ thấy ánh sáng bao phủ khắp mình, toàn thân và tâm đều có phỉ lạc, hạnh phúc tràn ngập. Càng chú tâm chánh niệm ghi nhận đề mục bạn càng thấy sự sinh diệt diễn ra nhanh chóng hơn.

Trước đây, bạn thấy sự vật sinh rồi diệt, nay sự sinh diệt quá nhanh khiến bạn chỉ thấy diệt mà không thấy sanh nữa, thế là bạn có được Tuệ Diệt. Khi có Tuệ Diệt bạn sẽ thấy tay chân, thân thể hay bất cứ cái gì bạn chú tâm vào đều giả tạm, tất cả đều là một chuỗi hủy diệt, bạn sẽ thấy rằng vật được ghi nhận và tâm ghi nhận đều bị diệt đi ngay một cách nhanh chóng.

Khi đạt được "Tuệ Xã" thì ý thức sáng suốt và chánh niệm sẽ nội tại trong bạn, một cách tự nhiên, bạn không cần cố gắng vẫn có chánh niệm như thường. Lúc bấy giờ chỉ có chánh niệm và tâm xả mà thôi. Thiền sinh sẽ nhận thấy rằng chuyện ngồi thiền, một giờ, hai giờ, hay ba giờ... đối với mình là chuyện dễ dàng. Cứ ngồi xuống là dính vào đề mục ngay, không gặp chút trở ngại nào. Đến giai đoạn này, không những lúc ngồi thiền, mà trong mọi tư thế, bạn đều có chánh niệm tốt đẹp. Chẳng hạn như lúc thay đổi tư thế từ ngồi sang đứng tâm vẫn luôn luôn có ý thức sáng suốt và chánh niệm. Đây là một trạng thái thật tốt đẹp vì mỗi động tác đều được ghi nhận một cách chánh niệm, giúp phát triển Bát Chánh Đạo, đường đến Niết Bàn.

Vậy thì, hãy bắt đầu bằng sự chánh niệm ghi nhận chuyển động phồng xẹp của bụng. Hãy tinh tấn chú tâm quán sát mọi sự xuất hiện của các hiện tượng vật chất và tâm càng nhiều càng tốt.

Với sự quán sát chánh niệm liên tục như thế này, cầu mong các bạn sẽ khai triển được tuệ giác và chóng đạt được đạo quả và Niết Bàn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

* Chú thích:

[*] Phạm Thiên, Thượng Đế, Chúa Trời:  Theo Kinh Phạm Võng, một số các vị Phạm Thiên và các vị Chúa của các cõi trời cao, do phước báu đã tích tụ từ các đời trước, nên tuổi thọ rất dài. Nhiều vị có tuổi thọ dài đến trăm ngàn lần tuổi thọ của trái đất. Họ có như ý tâm (có thể tạo các nhu cầu theo ý mình). Khi muốn có chúng sanh khác đến ở với mình, họ chỉ cần khởi sinh ý muốn là tức khắc có chúng sanh khác theo nghiệp lực thọ sanh vào cõi của họ. Điều này khiến họ tưởng lầm rằng họ có thể tạo ra được chúng sanh khác. Các chúng sanh mới được hóa sanh này có tuổi thọ thấp hơn, nghĩ rằng mình sinh ra là do ý muốn của các vị này, nên xem các vị này là cha, là chúa tể của mình và tin rằng các vị Phạm Thiên các vị Chúa Trời này là Thượng Đế, tạo ra tất cả mọi sự và bất tử. Vì có tuổi thọ quá dài, nên các vị Phạm Thiên và và các vị Chúa Trời cũng tưởng lầm mình bất tử, tưởng mình là Thượng Đế. Thật ra khi hết tuổi thọ các vị Phạm Thiên, các vị Chúa trời này cũng phải chết và thọ sinh vào các cõi tốt xấu trong thế gian tùy theo nghiệp lực mà họ đã tạo.

[**] Ngũ Uẩn, Ngũ Uẩn Thủ:

Ngũ uẩn: là năm nhóm tập hợp của "vật chất và tâm" gồm: Sắc (Vật Chất), Thọ (Cảm Thọ), Tưởng (Tri Giác), Hành (Những Phản ứng của Tâm) và Thức (Sự biết). Ngũ uẩn bao gồm các hiện tượng tâm vật lý này. Các sự vật dù ở trong quá khứ, hiện tại hay vị lai, bên trong, bên ngoài, thô thiển hay vi tế đều nằm trong năm uẩn. Như vậy, có thể nói: Khi một vật được nhận biết trong trong quá khứ, hiện tại hay vị lai, bên trong, bên ngoài, thô hay tế thì vật đó được xem là thuộc về ngũ uẩn. Như vậy, toàn thể mọi vật trên thế gian này là tập hợp của năm uẩn.

Thủ: là tham ái mạnh mẽ hay tham muốn mạnh mẽ. Có hai loại tham. Một loại tham nhẹ nhàng gọi là tham ái hay dính mắc. Một loại tham mạnh mẽ gọi là thủ hay chấp giữ. Thủ ở đây có nghĩa là "nắm giữ thật chặt". Thủ là một từ để chỉ tâm chấp giữ chứ không phải hành động chấp giữ bằng cơ thể. Do đó, sự chấp giữ có nghĩa là sự bám níu chặt chẽ vào các đối tượng về phương diện tinh thần.

Ngũ uẩn thủ: là năm nhóm tập hợp làm đối tượng cho sự chấp thủ. Mọi sự vật trên thế gian này được chia làm hai nhóm: Vật Chất và Tâm. Chúng sanh tham luyến, dính mắc vào ngũ uẩn. Ngũ uẩn là đối tượng để chúng sanh dính mắc vào. Về vật chất, các biểu hiện kích thích sự tham ái dính mắc là hình sắc, âm thanh, mùi, vị, vật xúc chạm; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân... Về tâm, các biểu hiện kích thích sự tham ái dính mắc là các cảm thọ, tri giác, phản ứng của tâm và sự nhận biết. Ngũ uẩn là đối tượng của sự chấp giữ, toàn thể sự vật trên thế gian này là tập hợp của ngũ uẩn, như vậy toàn thể sự vật trên thế gian này là đối tượng của chấp thủ, dính mắc.

Trong lúc hành thiền, quán sát ngũ uẩn (tức là quán sát thân tâm) bạn chỉ cần đơn thuần ghi nhận những gì đang xảy ra nơi sáu căn để thấy chúng sinh diệt mau chóng chứ đừng định danh hay phân biệt uẩn nào đang xuất hiện. Thiền sinh không được tìm kiếm ngũ uẩn, khi có uẩn nào xuất hiện thiền sinh chỉ cần ghi nhận và ý thức uẩn đó mà thôi, đối tượng ghi nhận có thể là vật chất, có thể là cảm thọ có thể là tri giác, có thể là thức. Tóm lại trong lúc hành thiền đối tượng nào xuất hiện thì ghi nhận đối tượng đó, đừng tìm kiếm gì cả.

Dịch giả: Tỳ khưu Khánh Hỷ, Hòa Thượng Kim Triệu hiệu đính
Nguồn: buddhanet.net