Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Mười điều cần biết trong quan hệ vợ chồng

Đối với Nam giới, giữ tinh khí, thu dưỡng tinh thần, uống các thứ bổ dưỡng là các phương pháp chính để giúp khả năng tình dục được kéo dài. Tuy nhiên, nếu có cả ba thứ trên mà không biết cách giao hợp cho phải phép thì cũng vô ích. Khi quá 30 thân thể đã yếu đi, cần phải luyện tập thuật phòng trung để giữ gìn sức khoẻ, tạo lập và gìn giữ hạnh phúc gia đình.

1. Luyện tập như thế nào để tránh xuất tinh sớm?

·                                 Tập Phép hô hấp đan điền: Tập luyện hít thở sâu bằng mũi. Cát Hồng (đời Đông Tấn) khuyên: sau khi hít vào phải đếm đến 120 tiếng mới từ từ thở ra. Người siêng năng luyện tập có thể kéo dài thời gian giữ hơi trong bụng đếm đến 1000 mới phải thở ra. Áp dụng trong việc phòng sự để giữ cho tinh không xuất bằng cách hít hơi thật dài vào phổi, nín hơi thật lâu rồi mới thở từ từ. Làm như vậy nhiều lần lúc thấy mình sắp bắn tinh sẽ giúp kiềm chế xuất tinh.
·                                 Tập hô hấp bụng: Hít sâu, vừa hít vừa phồng bụng, nín thở đếm đến 30 rồi từ từ thở ra. Khi giao hợp, muốn chống lại sự xuất tinh sớm chỉ cần hít hơi dài vào đan điền (rốn) – tức là hít bụng, đếm từ 1 đến 30 mới thay hơi khác. Phối hợp với phương pháp “sống ra chết vào”(khi cương cứng quá phải rút ra, đợi hơi sìu xuống mới tiến hành lại thì chắc chắn kiểm soát được xuất tinh sớm.
·                                 Luyện tập “Tiểu châu thiên” là một bài luyện khí công: Ngồi yên tĩnh toạ dương khí từ đan điền (rốn) tiến đến hội âm (giữa cơ quan sinh dục và bàng quang) xuyên qua giáp suy (giữa xương sống) vào ngọc chẩm (sau gáy) tới nê hoàn (đại não) xuống đài trung (giữa 2 vú) trở lại về đan điền (rốn) là xong một quá trình. Nếu người chồng khi giao hợp mà tiến hành được “Tiểu châu thiên” thì sẽ làm tăng thêm phần khoái lạc cho cả hai mà không xa nhau được nữa mà vẫn đạt được mục đích hoàn tinh.
·                                 Tập “Bát đoạn cẩm” để tập trung ý chí, thống nhất tinh thần để điều hòa hô hấp, toàn thân vận động nhưng vẫn điều hòa giữ nhịp thở tự nhiên, nhẹ và sâu.
·                                 Đạo dẫn: Thể thao, thể dục, thái cực quyền, các hoạt động để thư giãn gân cốt, bắp thịt được cứng rắn, thân thể được kiện toàn.

2. Tiết dục là gì? Tại sao phải tiết dục?

Sách Tố Nữ kinh: Không nên xuất tinh nhiều hơn các mức dưới đây:
·                                     Tuổi 20: Mạnh mẽ thì ngày xuất 2 lần. Không được khoẻ thì ngày xuất 1 lần.
·                                     Tuổi 30: Khoẻ thì ngày xuất 1 lần. Người yếu 2-3 ngày xuất 1 lần.
·                                     Tuổi 40: Khoẻ mạnh thì 3 ngày xuất 1 lần. Người yếu 4 ngày xuất 1 lần.
·                                     Tuổi 50: Khoẻ mạnh thì 5 ngày xuất 1 lần, ốm yếu thì 10 ngày xuất 1 lần.
·                                     Tuổi 60: Khoẻ mạnh thì 10 ngày xuất 1 lần, ốm yếu thì 20 ngày xuất 1 lần.
·                                     Tuổi 70: Khoẻ thì 1 tháng 1 xuất lần, ốm yếu thì không nên xuất tinh
Tiết dục không có nghĩa là tuyệt đối không xuất tinh, mà là hạn chế xuất tinh nếu phòng sự quá nhiều mà vẫn giữ sức khoẻ. Tiết dục không mất cảm hứng mà còn gia tăng cảm hứng do không bị mất quá nhiều sinh lực. Tồn trữ tinh lực, tăng cường khả năng di động của tinh trùng, luyện tập ý chí, duy trì trí lực, điều khiển được cơ thể làm tăng tự tin, thanh tâm, lợi ích cả về thể chất và tinh thần. Người không biết quí khí, trọng tinh, có bao nhiêu cũng trút thì không thể nào tráng kiện được. Ham mê mà không biết kiềm chế đó là tự mình hại mình. Tối cao của nghệ thuật tình dục lại chính là nghệ thuật TỰ KIỀM CHẾ.Tố Nữ Kinh

3. Phương pháp kiềm chế xuất tinh (tiết dục)

Sách Ngọc phòng: Lúc sắp xuất tinh mà không muốn xuất: Không cử động nữa, thở ra một hơi thật dài, cắn chặt răng lại, ngước đầu nhìn nơi khác, không nhìn vợ, hít vào một hơi thật dài, phồng bụng lên, tập trung tinh thần vào việc hít thở, khi nghe thấy tiếng ù ù trong tai thì thót bụng lại, thả hết hơi ra.

4. Hậu quả của việc phòng sự không đúng cách?

·                                 Tuyệt khí: là chứng bệnh người chồng thiếu khí, mồ hôi nhiều, tâm nhiệt, mắt hoa, do cố gắng giao hợp khiên cưỡng nhiều lần sinh ra.
·                                 Dật tinh: Tức là sự ham muốn quá độ, do âm dương không thuận, không vừa ý, phòng sự lúc cơm no, say rượu gây loạn khí, tổn hại phế tạng, gây nên nóng giận bất thường. càng ngày khí càng bị thiêu đốt gây nên mắt hoa, bụng trướng, hen suyễn,... Để lâu dẫn đến bất lực.
·                                 Đoạt mạch: Toàn thể kinh mạch ở trạng thái lộn xộn, không điều hoà, gây nên quá cương dương, xuất tinh sớm ngay ở ngoài. Để lâu thành bất lực do tinh khí bị khô kiệt. Nếu cứ kéo dài sẽ tổn hại tỳ, hại tiêu hoá.
·                                 Giao hợp quá độ mà không tiết chế việc xuất tinh gây ra bất lực.
·                                 Huyết khuyết: Thiếu máu nguyên nhân do vừa đi về đang có nhiều mồ hôi mà giao hợp ngay. Tham lam nhiều lần liên tục,... Tinh khí sẽ tiêu hao nên nội tạng yếu ớt. Triệu chứng là tinh khí rỉ ra không ngừng (di tinh), gây thiếu máu, da dẻ có màu tái xạm,..
·                                 Biểu hiện khác: Khi tinh dịch bị loãng thì cơ nhục bị thương tổn, người bải hoải, bần thần khó chịu; Khi tinh dịch có mùi hôi hám thì gân cốt bị thương tổn, sự bần thần trầm trọng hơn và kéo dài hơn; Khi xuất tinh nhưng tinh không thể bắn ra thì xương cốt bị thương tổn; Khi tinh lực suy nhược đến nỗi không hứng nổi thì toàn thân đã bị thương tổn.

5. Sinh hoạt như thế nào thì tốt cho sức khoẻ?

Chỉ giao hợp khi: Tình tự tự nhiên, không bộp chộp, hấp tấp, từ từ chuyển động để chủ động điều khiển việc cương cứng và xuất tinh. Tinh thần thong dong tự tin giúp cảm hứng vợ chồng được đồng điệu, sẽ làm tăng sự sướng khoái, khoẻ thận, sống lâu.Các tư thế nên biết trong sinh hoạt vợ chồng nên hài hoà áp dụng tuỳ sở thích nhưng nên biến đổi cho phù hợp sức khoẻ, thường được đặt tên dựa theo tư thế của các loài sinh vật: Thế rồng uốn khúc: 8 lần cạn 2 lần sâu; Thế hổ rình mồi: 5 lần cạn 3 lần sâu; Thế vượn leo cây: 9 lần cạn 6 lần sâu; Thế ve sầu: 10 lần cạn 4 lần sâu; Thế thỏ: 4 lần cạn 1 lần sâu; Thế hạc: 10 lần cạn 7 lần sâu.

6. Tại sao trong sinh hoạt vợ chồng cần phải có sự “đồng điệu”?

Các biểu hiện của hiện tượng khi quan hệ vợ chồng thiếu đồng điệu (không cùng đạt khoái cảm) gây nên giảm ham muốn, suy kiệt khí huyết làm giảm cương dương, lãnh cảm,... đều do âm dương không điều hoà mà sinh ra. Âm dương không điều hoà vì sinh hoạt phòng sự không đúng cách. Nếu tinh lực của người vợ át người chồng thì chẳng khác như nước dội vào ngọn đuốc, đuốc sẽ tắt, người chồng sẽ không còn hứng thú được nữa. Ngược lại, nếu người chồng quá thô bạo, không biết cách chiều chuộng, chăm sóc người vợ hoặc khi cao trào tuyệt hứng của đôi bên so le: Người chồng sau khi xuất tinh xong mệt quá lăn ra ngủ, trong khi đó người vợ chưa cao trào, còn đầy cảm hứng thì hậu quả sẽ dẫn đến lãnh cảm, chán sợ chuyện ái ân.

7. Làm thế nào để cả hai vợ chồng cùng đạt được khoái cảm (đồng điệu)?

Một số kỹ thuật giúp vợ chồng cùng hưởng khoái lạc và trường sinh (Tố Nữ kinh):.
·                                 Chín lần cạn lần mười sâu (Cửu thiển nhất thâm) hoặc Tám lần cạn hai lần sâu (Bát thiển nhị thâm),...tùy mong muốn của người vợ
·                                 Người chồng vuốt ve, chiều chuộng người vợ trước: Từ các ngón tay (bắt đầu từ ngón giữa tới ngón cái, lên cánh tay, lên bả vai. Từ ngón chân cái, sang ngón bên cạnh, lên mu bàn chân, lên tới phía trong đùi. Từ phần eo lưng, đến các vùng nhạy cảm khác. Phối hợp với động tác hôn từ cổ, lên trán, gáy, cắn nhẹ dái tai và đầu vú.
·                                 Ba lần bên trái, ba lần bên phải (Hữu tam tả tam).
·                                  Khi “chết” đi vào, khi “sống” đi ra (Tử nhập cường xuất).
·                                 Khi sinh hoạt vợ chồng, người vợ dùng thuật “bế khí chỉ tức” nín thở một hơi thật lâu, co rút, bóp mở âm hộ khiến cho người chồng sẽ được sướng khoái tuyệt đỉnh. Sách “Hương muội” nói rõ ràng hơn về phương pháp co bóp này như sau: Khi người chồng vào, âm hộ mở ra đón chào, khi vào đến nơi thì đột nhiên đóng lại, ôm chặt như mừng rỡ. Vợ chồng cùng phối hợp: Chồng cứng rút ra - vợ khép bóp chặt, chồng mềm đưa vào – vợ mở ra.
Như thế cả hai sẽ cùng hưởng cuộc vui dài, không mệt mà hòa thuận vợ chồng vì kéo được lúc cực khoái của cả hai người về được cùng thời điểm tạo được sự hòa hợp âm dương, nhờ đó vợ chồng hòa thuận mãi mãi.

8. Yếu tố căn bản giúp tăng hứng thú là gì?

Vợ chồng nếu muốn hưởng hạnh phúc đời đời thì phải tự tạo tinh thần vui vẻ (bớt lo lắng), một thân thể khỏe khoắn (ít bắn khí), hưởng tuổi xuân và sự vui vẻ của vợ/chồng. Khi thân thể khoẻ khoắn, tình tự tự nhiên nổi lên. Khi giao tình phải từ từ mà tiến hành thì tinh lực sẽ không suy kiệt, vợ chồng thêm khoẻ mạnh, hoà thuận.

Về tâm lý:
·                                 Đối với người chồng, chỉ cần tưởng tượng cũng gợi được hứng thú. Nhưng ngược lại đối với người vợ, thường lại cần có mắt thấy, tai nghe (lời thì thầm, yêu thương), tiếp xúc (vuốt ve, xoa nắn). Bởi vậy, trước khi giao hợp, người chồng cần nhớ mà giúp người vợ cùng đồng điệu với mình. Người chồng vui vẻ trọng sự gợi xúc cảm, người vợ chải chuốt trang điểm tạo thêm vẻ thanh xuân cho chính mình và cho sự giao hợp.
·                                 Đôi khi sự hứng tình của vợ chồng không đồng bộ với nhau về thời gian, bởi vậy cần hiểu và tạo lập hoàn cảnh để đạt được sự đồng thuận. Người vợ thường trước hoặc sau chu kỳ kinh nguyệt mấy ngày là giai đoạn hứng tình quyết liệt. Người chồng thì chu kỳ hứng tình thường là 28 ngày, đỉnh điểm là vào đầu tháng và các ngày 18, 19 trong tháng.
·                                 Người vợ khi chưa có cảm hứng thường có hiện tượng nửa chống cự, nửa mong muốn, nên người chồng nếu có cảm hứng cần chủ động: điều chỉnh ánh sáng, nựng nịu, vuốt ve,... để bồi dưỡng khí thế tạo nên sự hài hoà âm dương, sẽ không có trục trặc nữa. Người vợ cần người chồng quan tâm đến mình nhiều lần, lúc đầu âu yếm kéo dài, cuối cùng lại thích mạnh mẽ và dứt khoát.
·                                 Yếu tố có thể làm người vợ lãnh cảm là: Đèn bật sáng, trong khi người chồng lại thường thích bật đèn để ngắm nhìn người vợ. Người chồng có thể làm lại khi bị ngoại cảnh ngắt quãng (có điện thoại, con khóc,..), nhưng người vợ lại khó có hứng lại được nữa.

9. Người vợ cần phải làm gì?

·                                 Theo Triệu Phi Yến (đời Hán) truyền lại, nàng luyện tập bằng cách lấy dây lụa cột ngang lưng rồi chuyển động từ eo xuống mà phần trên không cần chuyển động. Hàng ngày luyện tập hít thở đan điền. Luyện tập co bóp cơ vòng vùng hậu môn, âm đạo, cơ mông kèm hít thở sâu để khi vào cuộc có thể co bóp (vào mở – ra đóng) khiến tăng cảm hứng cho chồng.
·                                 Nếu người chồng có các chứng trạng suy sinh lý, thì cần sự giúp đỡ của người vợ, nguyên tắc dựa trên sự chủ động di chuyển của người vợ phù hợp để chữa trị cho người chồng. Các món ăn và thuốc bổ là rất cần thiết để giúp chồng trở lại mạnh mẽ.

10. Giao hợp thế nào để có con thông minh khoẻ mạnh nhất?

·                                 Thân thể phải khoẻ mạnh, tâm lý nhẹ nhàng, bình thản, không lo âu, tiến hành giao hợp phải cùng nhau, không miễn cưỡng, thúc ép
·                                  Khi xuất tinh xong, người chồng phải ngâm một lúc, không được rút ra ngay tránh tinh trùng bị hút theo
·                                  Giờ thụ thai lý tưởng là giờ Tý (từ 23h đến 1h sáng) hay giờ sử (từ 1h -3h sáng) do can mạch hoạt động tốt làm cho sự giao hợp được thoải mái và lâu hơn. Can mạch hoạt động mạnh vào 2h sáng, nên xuất vào giờ này là rất tốt.
·                                  Cả chồng cả vợ đều nên ở tuổi sung mãn (23-33). Nếu cao tuổi quá, dẫu có thụ thai thì con cũng không thể khoẻ mạnh, sống lâu được. Nếu 1 người quá tuổi, nhưng người kia còn trẻ và khoẻ mạnh thì vẫn có thể sinh con khoẻ mạnh

·                                 Thân thể không khoẻ thì con sinh ra cũng hay ốm. Người say rượu mà giao hợp thì con sinh ra nhiều bệnh tật.

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

Kỹ thuật chiết xuất

Quá trình điều chế cao thuốc thường bao gồm những giai đoạn sau:
- Chuẩn bị dược liệu, dung môi.
- Chiết xuất hoạt chất.
- Loại bớt tạp chất.
- Cô đặc, sấy khô.
- Điều chỉnh hàm lượng hoạt chất
- Hoàn chỉnh chế phẩm.

3.1. Chuẩn bị dược liệu, dung môi

Dượcliệu phải đạt tiêu chuẩn qui định. Để đảm bảo chất lượng cao thuốc cần lưu ý những vấn đề sau:
- Bộ phận dùng có phù hợp theo qui định.
- Tỉ lệ tạp chất trong dược liệu.
- Mức độ nhiễm vi sinh vật.
- Giới hạn chất diệt côn trùng, chất bảo quản.
- Giới hạn tro sulfat, kim loại nặng.
Dược liệu thường được sấy khô và chia nhỏ tới độ mịn thích hợp. Mức độ chia nhỏ dược liệu phụ thuộc vào cấu trúc vật lý của dược liệu, khả năng khuếch tán của dung môi, tỉ lệ dung môi sử dụng và thời gian qui định để chiết kiệt dược liệu. Ví dụ nếu cần chiết kiệt nhanh hoạt chất trong dược liệu có cấu trúc rắn chắc, dược liệu đó phải được nghiền mịn. Dược liệu mềm, xốp và dễ thấm dung môi có thể được chiết ở dạng bột thô. Tuỳ theo bộ phận dùng, mức độ chia nhỏ có thể áp dụng như sau:
Lá, hoa, cây thảo: tán nhỏ (4 mm)
Thân gỗ, vỏ cây, rễ: tán nhỏ (2,8 mm)
Quả và hạt: tán nhỏ (2 mm)
Dược liệu chứa alcaloid: tán mịn (0,7 mm)
Một số dược liệu đặc biệt có thể phải diệt men hoặc loại chất béo. Các bột dược liệu khác nhau có thể được trộn lẫn trước khi chiết.
Dung môi để điều chế cao thuốc thường là nước, ethanol, ete ethylic. Có thể dùng hỗn hợp ethanol - nước hoặc ethanol - ete. Nước là dung môi thông dụng và rẻ tiền, nhưng có nhược điểm hoà tan nhiều tạp chất, cao khó bảo quản. Ethanol hoà tan được nhiều loại hoạt chất, hoà tan ít tạp chất nên được dùng rộng rãi hơn, cao thuốc dễ bảo quản hơn. Ete ít dùng vì đắt tiền và dễ cháy nổ. Dùng ete trong trường hợp hoạt chất chỉ tan trong ete, hoặc dùng để loại tạp chất dầu, mỡ, sáp trong dịch chiết.
Để tăng độ tan của hoạt chất, có thể acid hoá hoặc kiềm hoá dung môi bằng acid hydrocloric, acid acetic, amoniac, natri hydroxyd
Dung môi chiết xuất phải đạt tiêu chuẩn Dược điển qui định. Nước dùng để chiết xuất phải là nước tinh khiết đạt tiêu chuẩn Dược điển hoặc nước uống được.

3.2. Chiết xuất hoạt chất

Tuỳ theo bản chất của dược liệu và dung môi, tiêu chuẩn chất lượng thành phẩm cũng như điều kiện trang thiết bị và qui mô sản xuất, có thể sử dụng các phương pháp: ngâm, ngấm kiệt, chiết xuất ngược dòng hay các phương pháp thích hợp khác.
Nếu dung môi là nước thường dùng phương pháp ngâm phân đoạn (ngâm lạnh, hầm, hãm, sắc), ít khi dùng phương pháp ngấm kiệt. Lượng nước thường gấp 8-12 lần lượng dược liệu. Dung môi là ethanol, ete thường áp dụng phương pháp ngấm kiệt. Lựa chọn độ cồn tuỳ theo thành phần của dược liệu. Dược liệu chứa hoạt chất dễ tan trong nước dùng ethanol 30o-60o; dược liệu chứa alcaloid, glycosid dùng ethanol 70o; dược liệu chứa tinh dầu, nhựa thơm dùng ethanol 80o-900; dược liệu có hoạt chất dễ bị thuỷ phân dùng ethanol 90o-95o.
Lượng dung môi thường dùng gấp 6 lần lượng dược liệu.

3.2.1. Phương pháp ngâm lạnh

Cho dược liệu đã chia nhỏ tới độ mịn thích hợp (thường là bột thô) và dung môi vào một bình kín để ở nhiệt độ phòng. Ngâm trong thời gian xác định; thỉnh thoảng có khuấy trộn hoặc lắc. Sau đó gạn, ép bã lấy dịch chiết. Để lắng 2-4 ngày ở nơi mát để loại tạp chất lơ lửng. Gạn, lọc lấy dịch trong. Có thể ngâm đơn giản hoặc ngâm phân đoạn.
- Ngâm đơn giản: ngâm một lần với toàn bộ lượng dung môi.
- Ngâm phân đoạn: chia dung môi ra nhiều phần rồi ngâm làm nhiều lần. Sau mỗi lần ngâm, gạn lấy dịch chiết, ép bã, lại cho dung môi mới vào ngâm và làm tiếp như trên. Cuối cùng tập trung các dịch chiết lại. Cùng lượng dung môi, ngâm phân đoạn rút được nhiều hoạt chất hơn ngâm đơn giản.
Phương pháp ngâm lạnh dùng cho các dược liệu chứa hoạt chất dễ tan hoặc dễ bị phân huỷ ở nhiệt độ cao.

3.2.2. Phương pháp ngâm nhỏ giọt (ngấm kiệt)

Ngâm nhỏ giọt là phương pháp chiết xuất bằng cách cho dung môi chảy rất chậm qua khối dược liệu đựng trong một dụng cụ đặc biệt gọi là bình ngấm kiệt. Quá trình chiết xuất không có khuấy trộn.
Nguyên tắc của phương pháp:
Khi cho dung môi vào bột dược liệu, do trọng lực dung môi chảy xuống các khe hở. Trong thời gian dung môi được giữ lại và tiếp xúc với dược liệu, hoạt chất được hoà tan. Sau đó thêm dung môi mới lên mặt khối dược liệu, lớp dung môi này ngấm vào trong khối dược liệu và đẩy dịch chiết (lớp dung môi cũ đã hoà tan dược chất) ra ngoài. Lớp dung môi mới tiếp tục hoà tan hoạt chất còn trong tế bào dược liệu. Quá trình tiếp diễn cho đến khi không thêm dung môi nữa. Như vậy được liệu luôn được tiếp xúc với dung môi mới nên có thể chiết kiệt hoạt chất.
Ngâm nhỏ giọt bao gồm các giai đoạn sau:
• Chuẩn bị dược liệu:
Dược liệu cần phải khô và được chia nhỏ đến độ mịn thích hợp. Cũng như trong phương pháp ngâm, cần hạn chế tối đa tỉ lệ bột mịn khi chia nhỏ dược liệu. Dược liệu quá mịn dễ lẫn vào dịch chiết và dễ gây tắc bình chiết.
• Làm ẩm dược liệu:
Mục đích của giai đoạn này để dược liệu khô hút dung môi và trương nở hoàn toàn trước khi được chuyển vào bình chiết. Nếu dược liệu không được làm ẩm và trương nở hoàn toàn, chúng sẽ tiếp tục trương nở trong bình chiết, tạo ra khối nén chắc cản trở dung môi thấm qua. Hơn nữa nếu dược liệu không được làm ẩm từ trước, khi chuyển vào bình chiết sẽ khó đuổi hết không khí ra khỏi dược liệu, tạo ra các khoảng trống làm cản trở dược liệu tiếp xúc với dung môi, giảm hiệu suất chiết xuất.
Trong một dụng cụ thích hợp, trộn dược liệu với một lượng dung môi cho vừa đủ ẩm. Lượng dung môi làm ẩm tuỳ theo khả năng hút dung môi và trương nở của bột dược liệu, thường 50 - 100% lượng dược liệu đem chiết.
Trộn đều dược liệu với dung môi, đậy kín để yên khoảng 2 - 4 giờ sau đó rây qua rây có kích thước mắt rây to để bột tơi đều. Cũng có thể làm ẩm dược liệu ngay trong bình ngấm kiệt nếu dược liệu ít trương nở và bình chiết có thiết kế thích hợp.
• Ngâm trung gian:
Cho từ từ bột dược liệu đã làm ẩm vào bình từng lớp một, nén nhẹ nhàng và san bằng mặt trên khối bột. Cho dược liệu không đều sẽ tạo ra các kênh, dung môi chảy theo các kênh đó mà không thấm đều qua toàn bộ khối bột. Đặt một tấm giấy lọc và các vật đè lên trên, mục đích để dung môi phân bố đều và tránh xáo trộn dược liệu. Sau đó mở van dưới đáy bình, thêm dung môi đến khi không khí thoát ra hết và dịch chiết bắt đầu chảy ra. Khoá van lại và thêm tiếp dung môi cho ngập dược liệu, để ngâm trong khoảng 24 giờ hoặc lâu hơn tuỳ loại dược liệu.
• Rút dịch chiết:
Mở khoá cho dịch chiết chảy từng giọt vào bình hứng. Chú ý thường xuyên thêm dung môi để ngập mặt dược liệu 2 - 3 cm. Tốc độ rút dịch chiết phụ thuộc vào khối lượng và tính chất dược liệu sử dụng. Rút dịch quá nhanh sẽ không chiết kiệt hoạt chất; rút dịch quá chậm, thời gian chiết kéo dài và hao phí dung môi do bay hơi. Với mẻ chiết 1000 g dược liệu, tốc độ rút dịch chậm khoảng 1 ml/phút, trung bình 1 - 3 ml/phút và nhanh là 5 ml/phút.
Phương pháp ngấm kiệt thường được dùng để chiết xuất dược liệu có hoạt chất độc mạnh. Dung môi chiết thường là cồn hoặc ete. Dược liệu chứa nhiều chất keo, tinh bột, chất nhầy không nên áp dụng phương pháp ngấm kiệt với dung môi có nước. Phương pháp có ưu điểm tốn ít dung môi và chiết kiệt được hoạt chất.
• Ngấm kiệt phân đoạn:
Phương pháp ngấm kiệt như trên được gọi là ngấm kiệt đơn giản, trong đó luôn sử dụng dung môi mới để chiết đến kiệt hoạt chất. Phương pháp ngấm kiệt phân đoạn có sử dụng dịch chiết loãng để chiết dược liệu mới.
Dược liệu được chia ra nhiều bình, lượng đều nhau hoặc nhỏ dần (ví dụ 1000 g dược liệu chia làm ba bình 500 g, 300 g, 200 g). Tiến hành chiết xuất như đã nói ở trên, nhưng dịch chiết lần thứ nhất của bình I (bằng 80% lượng dược liệu) để riêng; dịch chiết lần sau dùng làm ẩm và chiết phần dược liệu ở bình II. Dịch chiết lần thứ nhất của bình II bằng lượng dược liệu trong bình để riêng; dịch chiết lần sau của bình II lại dùng làm dung môi chiết xuất bình III, tiếp tục như trên cho đến hết.
Phương pháp này có ưu điểm tốn ít dung môi và thu được dịch chiết đậm đặc, nhưng nhược điểm là không chiết kiệt hoạt chất.

3.3. Loại bớt tạp chất

Khi chiết bằng dung môi nước hay ethanol, dịch chiết thường chứa nhiều tạp chất. Cần phải loại tạp chất vì chúng thường dễ phân huỷ ảnh hưởng đến chất lượng cao thuốc. Cao sẽ không ổn định, có mùi lạ, khi hoà cao vào nước, dung dịch sẽ không trong. Trường hợp điều chế cao đặc, cao khô, nếu hàm lượng hoạt chất chưa đủ qui định cũng có thể phải tiến hành loại bớt tạp chất.
Phương pháp loại tạp phụ thuộc vào bản chất tạp chất có trong dịch chiết, tức là phụ thuộc vào bản chất dược liệu, loại dung môi và phương pháp chiết. Tuy nhiên có một số phương pháp chung như sau:
• Loại tạp chất tan trong nước (thường là protein, gôm, chất nhầy, pectin, tinh bột)
Phương pháp dùng nhiệt: cô đặc dịch chiết còn 1/2 - 1/4 thể tích ban đầu, để lắng chỗ mát sau đó gạn lọc. Nếu dịch chiết còn vẩn đục, có thể thêm bột giấy lọc nghiền nhỏ hoặc bột talc vào nước chiết, đun sôi và lọc. Cách này có thể loại được protein, chất nhày và các chất khác dễ bị đông vón do nhiệt.
Phương pháp dùng ethanol: cô dịch chiết đến khi đạt tỉ lệ khoảng 2 kg nguyên liệu/1 lít nước chiết, thêm 2-3 lần thể tích ethanol 95o, khuấy trộn đều, để lắng chỗ mát sau đó gạn lọc. Cất thu hồi ethanol rồi cô đặc đến thể tích qui định. Phương pháp này có thể loại được chất nhầy, albumin, gôm.
Phương pháp điều chỉnh pH: dịch chiết đã cô đặc được điều chỉnh đến pH ≈ 12, phần lớn các hoạt chất và tạp chất sẽ tủa, khi cho acid vào để có pH = 5 - 6 thì một số hoạt chất tan trở lại còn hầu hết các tạp chất không tan. Phương pháp này thường áp dụng đối với dịch chiết chứa hoạt chất flavonoid, alcaloid.
• Loại tạp chất tan trong ethanol (nhựa, chất béo).
- Cô đặc dịch chiết để hạ thấp độ cồn, nhựa và chất béo sẽ kết tủa. Để loại chúng triệt để hơn, có thể pha loãng gấp đôi bằng nước (hoặc nước acid nếu hoạt chất là alcaloid), hoặc thêm 2% bột talc để hấp phụ tạp chất và tạo điều kiện cho nó kết tủa.
- Dùng parafin: dịch chiết được cô đặc còn lại 1/2 - 1/4 thể tích ban đầu, thêm parafin vào dịch chiết nóng, khuấy kỹ và để nguội. Vớt lớp parafin đã hoà tan tạp chất.
- Ngoài ra, có thể dùng ether để chiết chất béo và nhựa ra khỏi dịch chiết nước.

3.4. Cô đặc và sấy khô

Để điều chế cao thuốc, thường phải tiến hành bốc hơi dung môi. Với cao lỏng thì cô đặc dịch chiết đến tỉ lệ qui định (1 ml cao lỏng tương ứng với 1 g dược liệu). Khi chiết bằng phương pháp ngược dòng hay ngấm kiệt, để tránh tác động của nhiệt nên để riêng phần dịch chiết đầu đậm đặc (phần này chứa lượng lớn hoạt chất chiết được). Sau đó cô đặc các phần dịch chiết tiếp theo rồi phối hợp với dịch chiết đầu.
Để điều chế cao đặc, cô dịch chiết đến độ ẩm không quá 20%. Trường hợp chế cao khô, tiếp tục sấy khô đến độ ẩm không quá 5%.
Có thể dùng nhiều thiết bị cô, sấy khác nhau, nhưng tốt nhất là tiến hành ở áp suất giảm và ở nhiệt độ sao cho sự phân huỷ hoạt chất là tối thiểu (thường không quá 600C). Tránh cô hoặc sấy kéo dài ở nhiệt độ cao.

3.5. Xác định và điều chỉnh tỷ lệ hoạt chất

Đối với cao thuốc có qui định hàm lượng, sau khi điều chế phải định lượng hoạt chất, nếu chưa đạt phải điều chỉnh để cao có tỉ lệ hoạt chất đúng qui định.
Trường hợp cao lỏng có tỷ lệ hoạt chất thấp hơn quy định, thì tiến hành cô tiếp để loại bớt dung môi. Nếu hàm lượng hoạt chất cao hơn quy định, có thể pha loãng bằng dung môi thích hợp.
Cao đặc và cao khô có hàm lượng hoạt chất thấp hơn qui định, phải cô tiếp dung môi hoặc loại bớt tạp chất. Nếu cao hơn qui định có thể dùng các tá dược độn trơ như dextrin, lactose, tinh bột hay bã dược liệu nghiền mịn. Lượng tá dược độn tính theo công thức sau:
x = (100-R).a/b - T
Trong đó:
a : lượng hoạt chất (g) có trong cao
b: hàm lượng hoạt chất qui định (%)
R: hàm ẩm cho phép (%)
T: khối lượng cắn khô của tổng lượng cao (g)
x: khối lượng tá dược độn cần thêm (g)
Để đảm bảo tính đồng nhất khi thêm tá dược độn, có thể tiến hành như sau:
- Cô dịch chiết đến thể cao mềm. Cân và xác định tỉ lệ cắn khô và hàm lượng hoạt chất. Từ đó tính được lượng tá dược độn cần dùng. Sau khi đã thêm tá dược độn, cao mềm được làm khô đến khi đạt hàm ẩm mong muốn.
- Trường hợp cao khô đã đạt hàm ẩm qui định, có thể thêm tá dược độn bằng cách nghiền cùng với cao khô.
Ngoài ra để điều chỉnh hàm lượng hoạt chất trong cao thuốc có thể thực hiện bằng cách phối hợp các mẻ cao có hàm lượng hoạt chất khác nhau.

3.6. Hoàn chỉnh chế phẩm

- Cao lỏng để uống có thể thêm các chất điều hương vị như sirô đơn, menthol, tinh dầu, vanilin...
- Thêm các chất bảo quản chống nấm mốc như: acid boric, acid benzoic, natri benzoat, nipagin, nipasol. Việc thêm các chất bảo quản vào cao thường được thực hiện ở cuối giai đoạn cô đặc.

TÓM TẮT CÁC NGUYÊN TẮC CỦA TRỒNG của Đạo giáo ENERGY TÌNH DỤC

TÓM TẮT CÁC NGUYÊN TẮC CỦA TRỒNG của Đạo giáo ENERGY TÌNH DỤC 

Trích từ "Bí mật của Đạo giáo Love" của Mantak Chia. 

1. Vũ trụ được lấp đầy với các loại khác nhau của ergy động en-, hoặc "chi." The Tao, hoặc "con đường", cho mỗi người đàn ông là để sáng tạo chuyển đổi năng lượng của mình qua một khóa học của một đời trở lại trạng thái ban đầu của
sự cân bằng hài hòa.Bản chất tình dục, hoặc "ching," là một mạnh mẽ, quan trọng ener gy được tạo ra liên tục trong cơ thể con người. Ổ tình dục đẩy quá trình tiến hóa của con người sinh học bằng cách truyền các dòng di truyền. Về mặt tình cảm nó thu hoạch monizes tình yêu giữa người đàn ông và người phụ nữ, và tinh thần cung cấp một liên kết hữu hình giữa các "bình thường" lực sáng tạo của con người và quá trình sáng tạo vĩnh cửu của vũ trụ.Tinh chỉnh nhận thức của một người về tình dục năng lượng có hoặc không có một đối tác là một trong những cách simplist của con người để trở về với ý thức tinh khiết và trải nghiệm những giai điệu sâu xa nhất của cuộc sống.

2. Tinh trùng là kho năng lượng tình dục nam. Một xuất tinh duy nhất có 200-500,000,000 tế bào tinh trùng, mỗi một con người tiềm năng. Có đủ spermotozoa mất trong một cực khoái duy nhất để cư toàn bộ Hoa Kỳ nếu mỗi tế bào là để thụ tinh cho trứng. Việc sản xuất của một chất lỏng tinh trùng có khả năng siêu mạnh tâm linh như vậy tiêu thụ lên đến một phần ba sản lượng năng lượng hàng ngày của một người đàn ông và đặc biệt là thuế trên các hệ thống nological tuyến / miễn dịch của nam giới.

3. Bảo tồn năng lượng tình dục là nguyên tắc đầu tiên của trồng trọt. Xuất tinh của các hạt giống nam cho các mục đích khác ngoài việc có con là một mất mát lãng phí của một trea- cực kỳ quý báu chắc chắn. Sự mất mát năng lượng trong thời gian dài làm suy yếu sức khỏe thể chất của nam giới, có thể dẫn đến sự tức giận cảm xúc vô thức đối với phụ nữ và dần dần cướp nam cao tâm / tinh thần của nó là sức mạnh để trẻ hóa bản thân. Vì lý do này, nhiều đơn đặt hàng tinh thần truyền thống trên thế giới đòi hỏi sự độc thân nam. Đạo giáo chấp nhận tình yêu tình dục là tự nhiên và lành mạnh, nhưng biết thời plea- chắc chắn của cực khoái sinh dục có xuất tinh là hời hợt so với thuốc lắc sâu sắc có thể có khi tình yêu được hưởng nếu không có sự mất mát của các hạt giống nam mạnh mẽ. Đó là quyền bẩm sinh của mỗi người để có toàn quyền kiểm soát chức năng cơ thể của mình và ngăn chặn sự mất mát này.

4. Chuyển đổi năng lượng tình dục là nguyên tắc thứ hai tu luyện. Trong thời gian kích thích tình dục, các "ching" hay bản chất tình dục được lưu trữ ở tinh hoàn mở rộng nhanh chóng và gây ra một số năng lượng để tự nhiên tăng lên trung tâm cao hơn trong trái tim, não, tuyến, và hệ thần kinh. Xu hướng tăng này được cắt ngắn bởi xuất tinh ra ngoài, vì vậy hầu hết những người đàn ông không bao giờ nhận thức được đầy đủ sức mạnh của tình dục của họ. Phương pháp Đạo hoàn thiện chuyển đổi tăng lên này của năng lượng tình dục bằng cách mở kênh tinh tế từ bộ phận sinh dục lên cột sống cho người đứng đầu và quay trở lại cột sống đến rốn. Năng lượng tình dục mở rộng được chanelled vào "quỹ đạo vi mô" để nó chảy qua tất cả các cơ quan nội tạng quan trọng và hài hòa các phức hợp năng lượng etheric trong cơ thể, được gọi là "Tân Tiens" của Đạo giáo (hay "luân xa" của người Hindu).

5 . Cân bằng sự phân cực của nữ-nam lực lượng (âm dương) là nguyên tắc thứ ba trồng Đạo giáo. Một khi năng lượng tình dục đã được bảo tồn và chuyển lên, một người đàn ông duy nhất có thể sử dụng thiền định để cân bằng các cực nam và nữ mà tồn tại bên trong mỗi cơ thể nam giới. Trong việc thực hành tu luyện "kép", một vài cân lĩnh vực này của năng lượng giữa chúng bằng cách chia sẻ và lưu thông năng lượng vi tế của họ.Các mối quan hệ sẽ trở thành một bàn đạp để biến đổi sự hấp dẫn tình dục vào tình yêu cá nhân và sau đó vào nhận thức tâm linh và dịch vụ. Cuộc đấu tranh quyền lực giữa hai giới dần dần giảm bớt và cân bằng sự khác biệt của họ trong công việc, gia đình, tình yêu, và mục đích của sự tồn tại, dẫn đưa họ vào sự hòa hợp sâu hơn. Cân bằng cực tình dục cốt lõi này trong một vài là đúng tâm lý sâu sắc, vì nó nuôi dưỡng người đàn ông và phụ nữ ở gốc sâu xa của họ. Chương 9 Các chi tiết về phương pháp "thung lũng cực khoái" trao đổi năng lượng âm và dương trong khi giao hợp. Một mức độ cao hơn của thực hành này bao gồm việc trao đổi năng lượng mà không quan hệ tình dục, hoặc có cực khoái trong chính mình, và phải được học từ một bậc thầy.

6. Không quá nhấn mạnh quan hệ tình dục thể chất trong thực tế hàng ngày của bạn, vì nó rất dễ dàng để có được bị mắc kẹt trên niềm vui mà không cần trải qua năng lượng vi tế cao hơn. Tinh tình dục thích hợp là chỉ có một phần nhỏ của các rộng lớn và bao gồm tất cả Tao. Nếu hỗn hợp của các chi của bạn (Eral gen- năng lượng quan trọng), ching (bản chất quan hệ tình dục) và Shien (tinh thần) là trọng cân bằng, nó sẽ được khó khăn để đoàn kết thân và cảm thấy toàn và yên bình. Nuôi dưỡng năng lượng tình dục là quan trọng trong việc nuôi dưỡng tinh thần của bạn, nhưng không có chế độ ăn uống thích hợp, tập thể dục, thiền định, hành vi đạo đức đạo đức và tình yêu, canh tác đúng là không thể. Tương tự như vậy, đừng bỏ qua quan hệ tình dục và tập trung quá nhiều vào các trung tâm tâm linh cao hơn; mái nhà sẽ dễ dàng rơi mà không có một nền tảng vững chắc bên dưới. Tao là sự nguyên vẹn của trời và đất, sự hòa hợp đúng với con người là con đường trung đạo giữa chúng, được tìm thấy trong hội nhập cân bằng năng lượng tinh tế của họ.

7. Tránh quan hệ tình dục mà không có tình yêu. Nó tạo ra sự mất cân bằng trong cơ thể vật chất, tinh thần và tâm linh của bạn và sẽ làm chậm tăng trưởng thực sự của bạn.Các kỹ thuật Đạo giáo có nghĩa là để được thực tế, không khí. Một người phụ nữ tìm cách dịu dàng của cảm giác ở người yêu của mình và sẽ bực bội một người đàn ông là quá cưỡng hoặc bận tâm với chủ cơ khí của mình về phương pháp tình yêu bí truyền.Canh kép là không thể không có sự tham gia đầy đủ của phụ nữ, những người phải chuyển lên bản chất âm của mình được lưu trữ trong buồng trứng. Về người phụ nữ bạn yêu nhiều hơn một máy phát điện mạnh mẽ của năng lượng âm; cô là trước hết là một con người xứng đáng với tình yêu và sự tôn trọng đầy đủ của bạn.

8. Bạn không cần một người vợ hoặc bạn gái để trau dồi năng lượng tình dục của bạn.Ban đầu nó là dễ dàng hơn để thực hành việc kiểm soát xuất tinh của bạn một mình, mà không cần sự phấn khích mất tập trung và nhiệt của một người phụ nữ. Ở bất kỳ giai đoạn đó là cần thiết để nói với người yêu của bạn chính xác những gì bạn đang làm và yêu cầu hợp tác của cô. Các nguyên tắc giống trồng trọt Đạo áp dụng đối với phụ nữ, với bản chất tình dục rút ra từ buồng trứng và điều này "ching" chuyển lên vào tâm trí cao hơn và tim. Nhiều phụ nữ đã có một cảm nhận trực quan cho quá trình này. Bản chất tiếp nhận của phụ nữ cho phép họ nhanh chóng tìm hiểu Đạo của tình yêu, đặc biệt là nếu người đàn ông đã làm chủ được quá trình trong cơ thể của mình.