Thứ Năm, 16 tháng 4, 2015

ĐỐI CHIẾU VẬT LÝ VŨ TRỤ VÀ PHẬT PHÁP

Năm 2003, tại Học viện Tịnh Tông bang Queensland, đông bắc Australia, tiến sĩ Chung Mậu Sâm có buổi thuyết giảng, đối chiếu Vật lý Vũ trụ và Phật pháp, tìm thấy nhiều điểm tương đồng giữa một bên là khoa học hiện đại, một bên là tông giáo đã có mấy ngàn năm lịch sử. Buổi thuyết giảng được trình bày lại dưới dạng video và có phụ đề Hoa ngữ tạo thuận lợi cho người xem. Tuy video đã ra đời hơn 10 năm, nhưng những điều trình bày trong đó có thể vẫn còn là mới mẻ, có khi vẫn còn là lạ lẫm với nhiều người, mặt khác có trích dẫn để đối chiếu với nhiều đoạn Kinh Phật, rất hữu ích để Phật tử hiểu thêm về Phật pháp. Nhận thấy video có thể có ích lợi cho việc học Phật, chúng tôi xin mạn phép dịch và giới thiệu lại cho Phật tử người Việt xem để hiểu rõ thêm và tăng cường lòng tin đối với việc tu học Phật pháp. Toàn bộ video như sau :
Vì video khá dài, vấn đề được trình bày cũng không phải dễ hiểu, tác giả cũng có tổng kết ở phần cuối để cho mọi người dễ nắm bắt hơn, xin trích riêng ra phần tổng kết rất ngắn gọn sau đây để nhớ :
Từ năm 2003 đến nay, tuy chỉ mới hơn 10 năm, nhưng vật lý học lượng tử đã phát hiện thêm nhiều điều rất quan trọng về thế giới vật chất, tôi xin phép được trình bày bổ sung để cho việc đối chiếu được đầy đủ hơn.
Trình bày tóm tắt thuyết tương đối của Einstein có bổ sung những kết luận mới của vật lý lượng tử
Trong video trình bày lại thuyết tương đối của Einstein, nói khá rõ về tính khả biến của không gian và thời gian, trong đó rút ra những kết luận mới, một vật theo lý thuyết có thể đồng thời xuất hiện ở hai nơi khác nhau và khi một vật di chuyển với tốc độ lớn gần bằng ánh sáng, độ dài thời gian dãn ra rất lớn, còn số đếm thời gian thì rút lại rất nhỏ. Điển hình là thí nghiệm tưởng tượng về một cặp anh em song sinh, đứa anh ở trên phi thuyền đi ngao du trong không gian với vận tốc lớn, sau một thời gian trở về địa cầu, đứa em đã trở thành chàng thanh niên 20 tuổi trong khi đứa anh mới 3 tuổi. Như vậy số đếm thời gian trên phi thuyền là 3 năm nhưng độ dài thời gian của 3 năm đó đã dãn ra bằng với 20 năm trên địa cầu. Nhưng đó chỉ là thí nghiệm tưởng tượng, chưa có giá trị hiện thực. Do đó chúng ta nên biết thêm.
Trong lịch sử Thiền tông Trung Hoa có ghi nhận trường hợp rất hi hữu của pháp sư Huệ Trì. Ông vào ngồi nhập định trong một bọng cây ở tỉnh Tứ Xuyên. Trong trạng thái hoàn toàn vô niệm, thời gian cũng chậm lại, chứ không nhất thiết phải di chuyển với vận tốc gần bằng ánh sáng. Khi người ta phát hiện ông, đưa về triều đình nhà Tống ở Biện Kinh (nay là Khai Phong tỉnh Hà Nam) và làm cho ông xuất định. Ông cảm thấy nhập định không bao lâu nhưng anh ruột của ông là đại sư Huệ Viễn, Tổ sư sáng lập Tịnh Độ Tông Trung Quốc, thì đã viên tịch mấy chục đời rồi, vì thế gian đã trải qua hơn 700 năm.
HueTri-nhapdinh
Pháp sư Huệ Trì (em ruột Tổ sư Huệ Viễn)
Năm 2008, Nicolas Gisin và các đồng sự tại đại học Geneva Thụy Sĩ đã làm một thí nghiệm thực tế, họ đã thấy rõ ràng một hạt vật chất là photon xuất hiện đồng thời tại hai vị trí cách xa nhau 18km. Khoảng cách 18km thực tế đã rút lại bằng 0 và số đếm thời gian cũng đã rút lại bằng 0. Khi họ thay đổi một đặc tính của hạt photon ở vị trí này thì ngay tức khắc hạt photon ở vị trí kia biến đổi theo không mất chút thời gian nào, nghĩa là khoảng cách 18km không có thật, tín hiệu không cần truyền đi 18 km. Khoảng cách 18km chỉ là vọng tưởng của con người. Hiện tượng này gọi là vướng víu lượng tử (quantum entanglement). Tuy năm 1982 Alain Aspect đã làm thí nghiệm về vướng víu lượng tử tại Paris, lần đầu tiên áp dụng bất đẳng thức của John Bell, xác định được những tính chất kỳ bí của lượng tử như phi hiện thực (non realism), bất định xứ (non locality), nhưng thí nghiệm năm 2008 của Nicolas Gisin hoàn hảo hơn nhờ có sự hỗ trợ đắc lực của tin học hiện đại.
Bổ sung cần thiết về số lượng tương đối (có tính chất nền tảng cao hơn khối lượng)
Trong video, chủ yếu dựa vào thuyết tương đối của Einstein, thuyết này nêu ra 3 đại lượng khả biến là không gian, thời gian và khối lượng vật chất. Khối lượng vật chất có thể biến thành năng lượng và ngược lại. Chính vì vậy khối lượng vật chất có thể tăng hay giảm. Khi một vật di chuyển nhanh gần bằng vận tốc ánh sáng, khối lượng của nó tăng lên rất đáng kể do động năng đã chuyển hóa thành khối lượng. Những electron tương đối tính quan sát thấy trong những  máy gia tốc synchrotron dùng trong  ngành vật lý hạt nhân có tốc độ bằng 99,9999875 phần trăm tốc độ ánh sáng. Lúc đó khối lượng electron tăng  gấp 2000 lần so với khối lượng nghỉ của electron. Một điểm cần nêu ra là giữa khối lượng vật chất và số lượng, đại lượng nào mới thật sự là cơ bản hơn trong vật lý vũ trụ. Phật pháp nói rằng số lượng mới là một đại lượng quan trọng sánh ngang tầm với không gian và thời gian chứ không phải khối lượng vật chất. Tại sao ? Có những vật không có khối lượng như photon hay các bit thông tin nhưng vẫn có số lượng, như vậy số lượng mới thực sự là cơ bản, có tính phổ quát cao hơn khối lượng vật chất.
Trong video chưa đề cập tới số lượng, một trong 3 trụ cột xây dựng nên vũ trụ là không gian, thời gian và số lượng, số lượng cũng là giả tướng, cũng giống như không gian và thời gian, nghĩa là số lượng cũng không có thật, điều đó có nghĩa là nền toán học của nhân loại xây dựng lâu đài trên cát, chẳng có gì vững chắc cả. Có thực tế nào chứng tỏ số lượng không có thật ? Năm 2012 Maria Chekhova của đại học Mat-xcơ-va đã thực hiện được thí nghiệm cho một photon xuất hiện tại 100.000 vị trí khác nhau trong không gian, tất cả đều vướng víu (entangled)
Bản tin Vật lý tháng 11-2012.
Nhng xung ánh sáng gm khong 100.000 photon vướng víu đã được to ra bi các nhà vt lí  Đc và Nga. Nhng xung ánh sáng đó được to ra trong mt trng thái “chân không nén” và đi nghiên cu tìm thy s vướng víu tr nên mnh hơn khi s lượng photon có trong xung tăng lên. Nhng xung sáng như vy có th ng dng trong nhng công ngh như mt mã hc lượng t hoc đo lường hc. S vướng víu là mt hing lượng t cho phép các ht như photon có mi liên h cht ch hơn so vi vt lí c đin tiên đoán. Chng hn, người ta có th to ra hai photon trên thc nghim, sao cho nếu mt ht được đo là b phân cc theo phương thng đng, thì phép đo trên ht kia s cho trng thái phân cc ging như vy. Hing này xy ra bt chp thc tế là mt phép đo trên mtphoton đơn đc s cho biết mt giá tr ngu nhiên ca s phân cc. Trong khi mt mi tương quan như thế có th xy ra trong thế gii phi lượng t, nhưng cơ hc lượng t cng c nó vượt ngoài cái được trông đi t vt lí c đin. S không tương thích này gia thếgii lượng t và thế gii c đin đã được mô t súc tích bi nhà vt lí người Bc Ireland John Bell vào năm 1964 và đã được xác nhn bi mt lot thí nghim thc hin hi thp niên 1970 và 1980, và gn đây hơn là ca Nicolas Gisin năm 2008. Nay Maria Chekhova và các đng s ti Vin Khoa hc Ánh sáng Max Planck và Đi hc Moscow va to ra nhng trng thái lượng t cha ti 100.000 photon, và tt c chúng đu b vướng víu vi nhau.
Maria Chekhova copy
Maria Vladimirovna Chekhova, Tiến sĩ Khoa học Đại học Moscow
100.000 photon  trng thái vướng víu (entangled) nghĩa là gì ? Nghĩa là mt photon xut hin đng th 100.000 v trí khác nhau trong không gian. S lượng v trí xut hin có gii hn không ? Câu tr li là không. Bng chng  đâu ? Bng chng là thuyết Big Bang. Theo thuyết này, sau v n, thi gian và không gian đu tiên xut hin như sau : thi gian bng 10-43 (mười lũy tha tr 43) giây, vũ tr ch là mt ht lượng t có kích thước bng 10-33(mười lũy tha tr 33) cm. Còn trước đó là bc tường Planck, không có không gian, không có thi gian, không có s lượng vt cht gì c. Người ta tưởng tượng ti bc tường, thi gian là 10-44 (mười lũy tha tr 44) giây, đó ch là suy lun thôi, thc tếlà không có gì c, vũ tr chưa bt đu hình thành. Sau v n, vũ tr mi bt đu xut hin, bt đu có không gian, thi gian và s lượng vt cht, s lượng bt đu vi ch mt ht lượng t, sau đó xut hin khp vũ tr vi vô lượng vô biên v trí khác nhau, hình thành nên thiên hà, ngôi sao, mt tri, hành tinh, trái đt, mt trăng, vn vt, con người.
Số lượng 100.000 là không có thật vì thực tế chỉ là một photon mà thôi. Những con số biểu diễn số lượng chỉ là ảo giác của con người mà thôi. Chính ảo giác này tạo ra cảnh giới thế gian.
Giải thích về việc trong video nói Đức Phật đã ra đời hơn 3000 năm
Trong video có đề cập đến sự kiện quá khứ, hiện tại, vị lai, đồng thời hiện hữu và có nói đến việc Phật Thích Ca ra đời cách nay hơn 3000 năm, hai sự việc này có liên quan nên tôi có nhận xét chung như sau :
Trong các sách lịch sử về Đức Phật đại khái nói rằng Đức Phật đản sinh vào khoảng năm 623 trước CN và nhập diệt vào năm 543 TCN thọ 80 tuổi. Năm Phật nhập diệt được lấy làm năm đầu của Phật lịch. Như vậy Phật lịch hiện nay (Dương lịch 2015) là 2559 (1+543+2015=2559) Còn từ lúc Thích Ca ra đời đến nay là 1+623+2015 = 2639 năm. Vậy tại sao nhiều người Trung Quốc lại cho rằng Phật ra đời đã hơn 3000 năm ? Vì họ căn cứ trên một bia đá khắc vào đời Chu Chiêu Vương cũng như dựa vào sách Chu Thư Dị Ký 周書異記(Ghi chép chuyện lạ trong sách lịch sử đời Chu) và Bạch Mã Tự Bi Ký 白馬寺碑記 (Ghi chép trên bia đá tại chùa Bạch Mã). Chúng ta hãy xem bài sau đây thì sẽ rõ :
Sự thật là bia đá của Chu Chiêu Vương tuy đã hơn 3000 năm, nhưng lúc khắc bia đá thì tại Thiên Trúc (Ấn Độ) Tất Đạt Đa Cồ Đàm chưa ra đời, đó chỉ là tiên đoán dựa vào cái thấy siêu việt. Sở dĩ có cái thấy đó là vì quá khứ, hiện tại, vị lai, đồng thời hiện hữu. Nhiều tiên đoán thần sầu trong lịch sử chứng tỏ điều đó. Mặt khác điều đó hoàn toàn có cơ sở khoa học.
Những phát hiện mới của vật lý lượng tử và vật lý vũ trụ
Trong video nêu ý kiến của Tịnh Không pháp sư đáng tiếc rằng các nhà vật lý không có học tập Phật pháp, điều này có lẽ đúng với số đông nhưng cũng không hoàn toàn đúng. Bằng chứng là Einstein rất hiểu Phật pháp nên ông cho rằng Phật giáo có thể đáp ứng yêu cầu của khoa học hiện đại. Mặt khác nhiều nhà vật lý học nổi tiếng khác cũng hiểu nhiều về Phật pháp. Ví dụ David Bhom, ông là bạn của Đức Đạt Lại Lạt Ma hiện tại, hai người từng trao đổi nhiều về khoa học và Phật pháp. Một nhà vật lý khác, tiến sĩ Amit Goswami sinh năm 1936, người Mỹ gốc Ấn, ông không xa lạ gì với truyền thống tâm linh phương Đông trong đó có Phật pháp.
Amit Goswami
Tiến sĩ Vật lý Amit Goswami
Ông có viết cuốn sách nhan đề Dalai Lama Renaissance (sự phục sinh của Đạt Lại Lạt Ma)nói về truyền thống tìm hậu thân của Đạt Lại Lạt Ma, chứng tỏ ông am hiểu Phật giáo. Đỉnh cao trong những công trình riêng của Goswami là cuốn sách của ông, The Self-Aware Universe: How Consciousness Creates the Material World (Vũ Trụ Tự Thức: Làm Thế Nào Ý Thức Tạo Ra Thế Giới Vật Chất). Bắt nguồn từ những diễn giải về các dữ liệu thực nghiệm trong vật lý lượng tử (vật lý của các hạt cơ bản), cuốn sách đan xen lại với nhau vô số các phát hiện và giả thuyết trong các lĩnh vực, từ trí tuệ nhân tạo đến thiên văn học đến truyền thống đạo Hindu huyền bí, trong một nỗ lực để chứng minh rằng những khám phá của khoa học hiện đại phù hợp hoàn hảo với các chân lý huyền nhiệm sâu xa nhất.
Những khám phá mới về hố đen (black hole) vũ trụ cho thấy rằng một vật thể 3 chiều khi rơi vào hố đen sẽ biến mất, nhưng toàn bộ thông tin của nó vẫn còn lưu lại tại nơi gọi là chân trời sự kiện (event horizon) là bề mặt hai chiều của hố đen. Và từ thông tin này có thể phục hồi hoàn toàn vật thể 3 chiều theo nguyên tắc toàn ảnh (holographic principle).
Loden1
Thông tin của một vật thể được lưu lại tại chân trời sự kiện (event horizon)
Năm 2012 giới vật lý vũ trụ phát hiện ra tiếng ồn toàn ảnh là một bằng chứng cho thấy vũ trụ là số (digital), là thông tin, điều đó rất phù hợp với Duy Thức học Phật giáo từ lâu đã nói rằng vạn pháp duy thức. Thức cũng chính là Tâm, là chánh biến tri, là thông tin, là số (digital). Nhiều khoa học gia ở các trường đại học lớn trên thế giới xác nhận thức chính là miền tần số (frequency domain), hay trường (field), là một dạng sóng phi vật chất, vô hình, vô lượng, vô biên chứa tất cả mọi thông tin, hoàn toàn giống như A-lại-da thức của Duy Thức học. Nguyên lý toàn ảnh là cơ chế để biến Thức, vốn là thông tin chứa trên mặt phẳng 2 chiều, thành vật thể 3 chiều trong không gian .

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Đức Phật A-Di-Đà là ai?

Đức Phật A-Di-Đà là ai?

Trong cuộc sống hàng ngày của dân gian, chúng ta rất quen thuộc với nhóm từ “Nam mô A Di Đà Phật” Vậy nhóm từ đó có ý nghĩa là gì ? Muốn hiểu tường tận ý nghĩa nhóm từ đó, chúng ta phải có một trình độ khá cao về khoa học.

A Di Đà (zh. 阿彌陀) là danh từ phiên âm có gốc từ hai chữ trong tiếng Phạn: amitābha và amitāyus. Amitābha dịch nghĩa là “vô lượng quang” – “ánh sáng vô lượng”; amitāyus có nghĩa là “vô lượng thọ” –“thọ mệnh vô lượng”.
 

 
Trong cuộc sống hàng ngày của dân gian, chúng ta rất quen thuộc với nhóm từ “Nam mô A Di Đà Phật” Vậy nhóm từ đó có ý nghĩa là gì ? Muốn hiểu tường tận ý nghĩa nhóm từ đó, chúng ta phải có một trình độ khá cao về khoa học.
Nam mô có nguồn gốc là từ Namah (tiếng Phạn) hoặc  Namo (tiếng Pali) có nghĩa quy y, kính lạy, quy phục, đem mình về với. Nam mô A Di Đà Phật (南 無 阿 彌 陀 佛, chú ý chữ 無 phải đọc là mô chứ không phải vô) là Hán dịch từ tiếng Phạn Namah Amitabhàya buddhàya  có nghĩa là quy y Đức Phật A Di Đà.
A Di Đà (zh. 阿彌陀) là danh từ phiên âm có gốc từ hai chữ trong tiếng Phạn: amitābha và amitāyus. Amitābha dịch nghĩa là “vô lượng quang” – “ánh sáng vô lượng”; amitāyus có nghĩa là “vô lượng thọ” – “thọ mệnh vô lượng”.
A Di Đà được thế gian hình tượng hóa thành vị Phật của thế giới Tây phương cực lạc, nơi chỉ có vui mà không có khổ.
Vô lượng quang biểu hiện ý nghĩa không gian vô tận, cùng khắp không gian. Vô lượng thọ biểu hiện thời gian vô cùng, thời gian không giới hạn. Các ý nghĩa này là muốn hiển thị Tâm linh bất nhị của Đạo Phật. Bất nhị cũng không phải là một, mà là không có số lượng.

Cùng khắp không gian, cùng khắp thời gian và không có số lượng, đó mới là ý nghĩa thực sự của danh xưng A-Di Đà tức là vô lượng quang, vô lượng thọ. Cùng khắp không gian, cùng khắp thời gian, không có số lượng cũng có nghĩa là không có không gian, không có thời gian, không có số lượng, đó là vì Tâm như hư không vô sở hữu hay Phật tánh bất nhị, bất biến, bất sinh bất diệt, cũng có nghĩa là Niết Bàn (Nirvana).
Phật (Buddhàya) không phải là một vị thần linh, mà chỉ là một người giác ngộ, tự mình thân chứng bản tâm bất nhị là bản thể của vũ trụ vạn vật. Kinh điển Phật giáo nói rằng khi Đức Phật Thích Ca ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề, thì các thần thông, là những thuộc tính vốn có của tâm giác ngộ, hiện ra đầy đủ, nên:

 Về mặt không gian Ngài nhìn thấy suốt cả Tam thiên đại thiên thế giới, còn gọi là Tam giới tức là Ba cõi thế giới, bao gồm Dục giới [欲 界 sa.(tiếng sanskrit) kāmaloka,  thế giới mà chúng ta đang sống]; Sắc giới [色界, sa. rūpaloka thế giới cõi trời nơi chúng sinh có thọ mạng lâu dài hơn cõi thế gian]  và Vô Sắc giới [無色界, sa. arūpaloka, thế giới nơi chúng sinh không còn thân thể vật chất mà chỉ còn tinh thần, ý thức]. Về mặt thời gian, Ngài nhìn thấy suốt cả quá khứ vị lai không có bắt đầu, không có kết thúc. Về mặt số lượng, Ngài nhìn thấy vô lượng vô biên thế giới, vật thể, chúng sinh, không phân biệt lớn nhỏ, từ vũ trụ bao la đến thế giới vi mô của những vật thể cực kỳ nhỏ bé mà ngày xưa không có danh từ diễn tả, nên tạm gọi là vi trần (hạt bụi nhỏ). Thật ra Ngài nhìn thấy cả thế giới hạ nguyên tử ( Sub Atomic) thấy cả những vật thể như hạt quark, electron, neutrino.

Cái thấy đó vô cùng siêu việt, Ngài nhận ra cả những khoảnh khắc thời gian cực ngắn gọi là sát-na nhiều lần nhỏ hơn một giây đồng hồ (second). Đó gọi là chánh biến tri, biết cùng khắp không gian thời gian. Vì sao cái biết lại tuyệt đối như vậy ? Bởi vì Thích Ca chính là Tâm bất nhị, chính là Tam giới. Bộ Kinh Thành Duy Thức Luận (成唯識論 ) của ngài Huyền Trang dịch, đã tổng kết: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” Tức là cái vũ trụ tưởng đâu là ở bên ngoài, độc lập khách quan, cũng chỉ là biến hiện của Tâm mà thôi. Cái tâm linh giác ngộ đó, mọi chúng sinh đều có  sẵn, và không hề thua kém chút nào so với Phật Thích Ca, bởi vì đều chung một Tâm bất nhị, nhưng vì mê muội chạy theo thế giới vật chất nhỏ bé tầm thường, chúng không “ngộ” được mà thôi, và vì không giác ngộ nên chúng trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi đầy đau khổ.

Đức Phật thấu hiểu tính chất trống rỗng của nguyên tử vật chất, một điều mà phải đến cuối thế kỷ 20, nghĩa là 25 thế kỷ sau thời Đức Phật, những nhà bác học hàng đầu của nhân loại mới hiểu, khi họ khám phá ra hạt quark với đặc tính lạ lùng.
Một hạt quark đơn lẻ không tồn tại, phải 3 hạt quark hợp lại mới thành lập được hạt proton hoặc hạt neutron, đây là 2 thành phần của hạt nhân nguyên tử. Rồi các điện tử (electron) xoay quanh hạt nhân tạo thành nguyên tử vật chất, rồi các nguyên tử của 4 loại nguyên tố C, H, O, N  tạo thành các phân tử hữu cơ, từ đó hình thành sinh vật và con người.

Nhưng quark và electron cũng như tất cả mọi hạt cơ bản khác (subatomic particles) cũng chỉ là hạt ảo. Do đó cái vũ trụ hình thành từ hạt ảo chỉ có trong tâm tưởng chứ không phải sự thật khách quan ở bên ngoài. Chính vì Đức Phật hiểu bản chất trống rỗng của nguyên tử, Ngài mới đưa ra thuyết triết học tánh không Śūnyatā (Emptiness) của vạn vật. Tại sao từ bản chất là không lại xuất hiện thế giới, vũ trụ, vạn vật ?

Đó là do trùng trùng duyên khởi, sự kết hợp có điều kiện mà hạt nhân đầu tiên lại không thể khẳng định, chẳng hạn một hạt quark thì không tồn tại, nhưng 3 hạt quark hợp lại thì xuất hiện hạt proton hoặc hạt neutron, để rồi từ đó hình thành nguyên tử và vạn vật. Đức Phật tạm đưa ra thuyết “thập nhị nhân duyên” để giải thích sự hình thành của vật chất và sinh vật trong đó có con người.

Ngày nay với việc phát minh ra máy vi tính, con người đã chứng minh một cách rõ ràng rằng những hiện tượng ảo trên màn hình vi tính như: hình ảnh, màu sắc, âm thanh, chữ viết v.v… chỉ là trùng trùng duyên khởi của điện tử (electron) quy về hai trạng thái của dòng điện, có dòng điện chạy qua (số 1), không có dòng điện chạy qua (số 0), từ đó hình thành kỹ thuật số theo hệ thống nhị phân, và phát triển thành công nghệ thông tin với vô số ứng dụng như hiện nay.
Trở lại với thế giới đời thường, Đức Phật thấy rằng tất cả sơn hà đại địa, nhà cửa lâu đài, vạn vật, con người đều chỉ là nhân duyên (sự kết hợp có điều kiện) của cái không (trống rỗng không là gì cả, cái hư không vô sở hữu (không phải là sự thật tuyệt đối).

Chỉ có cái bản tâm bất nhị, bất biến, bất sinh bất diệt, vô ngã (không phân biệt ta và người), vô lượng (không có số lượng), tuyệt đối ( vô phân biệt, không có các cặp phạm trù mâu thuẫn) mới đích thực là mình, tất cả chúng sinh đều có chung một tâm đó.

Vì thế Ngài nói rằng: tất cả chúng sinh đều là Phật đã thành (chứ không phải sẽ thành) bởi vì cái bản tâm đó đã sẵn có (trước khi vũ trụ được thành lập) chỉ cần buông bỏ cái tâm nhỏ hẹp, mê muội, chấp trước (không phải là mình thật) để hòa nhập vào cái tâm vô lượng quang, vô lượng thọ (tức A Di Đà), cái đó còn gọi là Niết Bàn 涅槃, sa. nirvāṇa tức là bất sinh bất diệt hay là không còn sinh diệt (diệt tận 滅盡).
Những kiến giải của Đức Phật về thế giới đã được các nhà khoa học hàng đầu thế giới hiện nay thừa nhận. Kể sơ như sau:
Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922)  nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập thì trừu tượng- tức không phải vật thật).
Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức người phát minh ra nguyên lý bất định _không thể đồng thời xác định vị trí và vận tốc hay động lượng của một hạt, ví dụ electron) nói: “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật)
Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu: “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism”  (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).
Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết:“The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại)
Stephen Hawking (nhà toán học và vật lý người Anh, hiện mang chức danh Giáo sư Lucasian tức giáo sư Toán học của Đại học Cambridge, chỉ những nhà khoa học xuất sắc như Isaac Newton hay Paul Dirac mới có chức danh này) và Neil Turok (sinh năm 1958 tại Johannesburg, South Africa, Giáo sư Vật Lý của Đại học Princeton, Giám đốc Viện Perimeter về Vật Lý lý thuyết) nói: “The quantum world is one of virtual particles continually fluctuating in and out of existence, even in a vacuum, of superstrings vibrating and twisting in ten or eleven dimensions, most of which are ‘rolled up’ and invisible, of a reality in which gravitation, spacetime and matter are or were merged in one ‘instanton” (Thế giới lượng tử là thế giới của các hạt ảo không ngừng dao động qua lại giữa hiên hữu và cả hư không, của siêu dây rung động và biến dạng trong 10 hoặc 11 chiều kích_ phần lớn những chiều kích ấy bị cuốn lên và vô hình_của một thực tại trong đó lực hấp dẫn, thời không, và vật chất, được hoặc đã được kết hợp lại trong ‘hiện tiền’ ).
Thế giới lượng tử (quantum world) là thế giới nào ? Đó cũng chính là thế giới vật chất, sinh học và tâm lý mà chúng ta đang sống chứ chẳng phải thế giới nào khác. Vấn đề không gian, thời gian, số lượng là không có thật, cũng được hiện tượng rối lượng tử chứng minh một cách rõ ràng, cụ thể và chắc chắn.
Hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) mới được khoa học chứng thực gần đây là thực nghiệm tiêu biểu xác nhận tính tương đối của không gian, thời gian và số lượng, tức là cả ba đại lượng trên đều không độc lập tồn tại.

Hiện tượng rối lượng tử là hiện tượng các hạt cơ bản như photon, electron, proton, neutron, và kể cả nguyên tử, có thể xuất hiện đồng thời tại hai hoặc nhiều vị trí khác nhau, khiến người quan sát không thể xác định chúng là một hạt cùng lúc ở nhiều vị trí, hay là nhiều hạt giống hệt nhau ở tại các vị trí khác nhau.

Nhưng điều quan trọng là nếu có sự biến đổi của một hạt ở vị trí này thì tất cả các vị trí khác đều biến đối y hệt, tức thời, bất kể khoảng cách bao xa. Nicolas Gisin, nhà vật lý của Đại học Geneve phát biểu: “điều thú vị ở đây là tự nhiên có thể tạo ra các sự kiện cùng xuất hiện ở nhiều địa điểm”
Năm 2002, nhà vật lý Australia gốc Trung Quốc Ping Koy Lam cùng cộng sự tại Đại học Quốc gia Australia ở Canberra (ANU) đã thực hiện thành công thí nghiệm chuyển thông tin theo nguyên lý hoàn toàn mới dựa trên “tương tác ma quỷ” (spooky action at a distance) tức hiện tượng rối lượng tử, của các quang tử (photon).

Đúng vào lúc một chùm laser chứa những dữ liệu thông tin nhất định bị huỷ tại một vị trí trong phòng thí nghiệm, thì nhóm của Lam đã thấy xuất hiện một chùm laser khác giống hệt như thế tại một vị trí khác cách vị trí ban đầu 1 mét.

Mặc dù chùm sáng không hề chuyển động từ điểm này đến điểm kia nhưng vì hai chùm sáng giống hệt nhau nên người quan sát có cảm tưởng rằng, chùm sáng đã được di chuyển tức thời, từ điểm này đến điểm kia.
Trong một thí nghiệm khác gần đây hơn, các nhà khoa học tại Geneve, Thụy Sĩ tạo ra những cặp photon hoặc các gói ánh sáng. Chúng được chia ra rồi truyền qua cáp quang được Swisscom cung cấp, đến hai trạm tại hai ngôi làng thuộc Thụy Sĩ cách nhau khoảng 11 dặm (18 kilômét).

Các trạm khẳng định rằng từng cặp photon vẫn kết nối với nhau – bằng cách phân tích một photon, các nhà khoa học có thể dự đoán tính chất của photon kia. Hai photon đã tương tác với nhau một cách tức thời. Nếu cho rằng hai photon đã chuyển tín hiệu cho nhau thì tín hiệu đó phải di chuyển với tốc độ không tưởng, gấp hàng vạn, hàng triệu lần tốc độ ánh sáng.
Hiện tượng rối lượng tử xác định rõ ràng rằng không gian, thời gian và số lượng là không có thật, các đại lượng này chỉ phát sinh trong tâm thức của người quan sát khi có đủ điều kiện. Khoa học hiện đại hiểu rằng người quan sát có vai trò quan trọng trong việc hình thành các hiện tượng.

Nhận thức này đối với giới khoa học là mới, nhưng đối với Phật giáo thì không mới vì đã được nói tới từ lâu trong kinh điển. Ngày nay chúng ta chẳng những giải ngộ được không gian, thời gian, số lượng là không có thật mà còn thực nghiệm được, nhờ vào thế giới ảo của điều khiển học (cybernetics) và internet.

Chẳng hạn những dòng chữ này, bài viết này, có thể đến với các bạn ở bất cứ nơi nào trên thế giới, bất cứ lúc nào, không tùy thuộc vào vị trí mà bạn đang ngồi (nghĩa là khoảng cách không gian không có thật) miễn có đủ nhân duyên. Nhân duyên là bạn có một máy vi tính nối mạng hoặc một thiết bị cầm tay (laptop, netbook, smartphone, ipad hoặc máy tính bảng, có hỗ trợ wifi hoặc 3G). Bạn hoàn toàn có thể đọc bài viết, nghe audio, xem video.

Tất cả vô ngại. Tuy nhiên, thực tế vẫn có thể trở ngại khi wifi hoặc 3G không đủ mạnh, hoặc thiết bị không hỗ trợ đầy đủ. Điều này cũng giống như chúng sinh bị vô minh, sở tri chướng che khuất, không diệu dụng được đầy đủ khả năng như Đức Phật, không phải vì khả năng kém hơn Đức Phật, chỉ vì bị quá nhiều che khuất.
Song bởi vì đa số chúng sinh không đủ lòng tin ở tự tâm của mình là Phật, là giác ngộ, vì đã nhiều đời nhiều kiếp sống trong mê lầm, giống như một kẻ bần cùng rách rưới, lê tấm thân nghèo khổ đi ăn mày, không biết, không tin rằng trong người mình có một viên ngọc như ý vô cùng quý giá, muốn gì được nấy, nên không thể đem ra dùng.

Do đó Đức Phật mới bày ra tám vạn bốn ngàn pháp môn để thích ứng với từng loại căn cơ mê muội của chúng sinh, trong đó có pháp môn Niệm Phật còn gọi Tịnh Độ Tông (淨土宗 chữ 土 trường hợp này đọc là độ, không đọc là thổ) người tu cứ niệm Nam mô A Di Đà Phật để cầu vãng sinh về cõi giới Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà, cõi giới đó không còn sinh tử luân hồi, nên chúng sinh được an tâm tu hành cho đến giác ngộ.

Thật ra đó chỉ là một thứ Hóa Thành Dụ (một tòa thành ảo giả lập để dẫn dắt người tu vào tạm trú vì đường đi quá xa) chứ không phải cứu cánh đích thực, bởi vì ngay danh xưng A Di Đà đã cho thấy chỗ đến là tâm giác ngộ cùng khắp không gian thời gian, A Di Đà không phải là ai xa lạ, chính là bản tâm của mỗi người.