Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

NHỮNG ĐIỀU CĂN BẢN CHO CÁC PHẬT TỬ MỚI QUY Y TAM BẢO

Khi đức Phật mới thành đạo, Ngài dạy:

" Cửa vô sanh đã rộng mở
Ai có tai hãnghe và
Dứt bỏ tà kiến mê lầm của mình "

LỜI NÓI ĐẦU

Chúng ta đương bị mê lầm thống khổ nên chúng ta tìm đến đấng Từ bGc ngộ để nương tựa, hầu dứt trừ đau khổ, hưởng sự an vui. Đức Phật dạachí thành quy Phật, Pháp, Tăng sẽ khỏđọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các nơtà kiến hung ác.
Phàm mỗi khi làm lễ quy y, người Phật tử đều được Bổn sư truyền cho phép Tam quy, Ngũ giới và những điều căn bản khác.
Nhưng làm sao trong một lần mà ngườnghe có thể thu nhận và nhớ kỹ tất cả những điều mà bổn sư đã nói. Nó cần được nghe, được nói, hoặc đọc đđọc lạnhiều lần mớcó thể không quên.
Vả lại trong đời sống thường nhật, phần đông các Phật tử phải lăn lộn nhiều, vất vả lắm trên địa hạt sinh nhai, không rảnh thời giờ để học hỏi hết những điều mình cần phải học, phải làm cho đúng với tư cách một tín đồ đạo Phật.
Nên ở đâchúng tôi soạn ra tập tài liệu nàgọi là Những điều căn bản cho các Phật tử mới quy TamBảo để giúp có một sự hiểu biết căn bản khả dĩ hướng dẫn bước tu tiến, không đi sai với mục đích của Đạo.
Chúng tôi mong tập tài liệu nàđược phổ biến sâu rộng trong mọi tầng lớp Phật tử tại gia. Vậyêu cầu quý vị cho truyền bá đến tận nơi các Phật tử chưa có để họ được học và thực hành.
Đó là điều lợi ích chung mà chúng tôi hằng mong muốn.
Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây
Chín phẩm liên hoa là cha mẹ
Hoa nở thấPhật, chứng vô sanh
Bồ tát bất thối làm bạn lữ.

I. SƠ LƯỢC VỀ MỤC ĐÍCH THỊ HIỆN CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Phật xuất hiện nơthế gian nàkhông phảvì danh, vì lợi, cũng không phảđể ngồtrên ngavàng mà catrị bốn châu thn hạ. Mà vớmục đích làm cho chúng sanh đều được giảthoát vòng sanh tử luân hồđau khổ, gc ngộ như Ngài.
Trong kinh Pháp hoa đã nói: "Như Lai xuất hiện nơi thế gian nàvới mục đích làm cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến". Nhưng vì chúng sanh căn cơ cao thấp không đồng, cho nên, giáo pháp của ngài chia ra từng bực khác nhau mà bước đầu và căn bản là Tam quy, Ngũ giới: tam quy để tạo lòng chánh tín, ngũ giới tạo đức hạnh tốt lành; từ đó mà tiến dần lên bước đường tu học đưa đến niết bàn giải thoát.

II. SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜTHỊ HIỆN CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Giáo chủ của đạo Phật chúng ta là đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Trong vô lượng kiếp về trước Ngài cũng là một chúng sanh như ta. Nhưng Ngài đã sớm giác ngộ nỗi khổ đau của chúng sanh, nên Ngài đã thành Phật.
Trong kiếp hiện tại, vì muốn cứu vớt chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử, cho nên, cách đâhơn hai ngàn năm trăm năm (nhằm năm 624 trước Tâlịch), Ngài đã giáng sanh làm vị thái tử tên là Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da nước Ca-tỳ-la-vệ thuộc Bắc Ấn Độ.
Lúc còn làm thátử, Ngàthông minh đỉnh ngộ, tàtrí hơn người; hiếu, đức đầđủ. Ngàrất được vua cha cùng tất cả mọngườthương mến và cung cấp cho đủ mọthứ sung sướng trong đời. Nhưng mục đích xuất thế không phảđể hưởng sự sung sướng vật chất. Cho nên, Ngàđã từ bỏ những vinh hoa phú quý của cuộc đờivương giả, vượt thành, xuất gia tìm đạo Gc ngộ.
Qua sáu năm khổ hạnh thực hành đủ các pháp tu, sau rốt, với 49 ngàtham thiền nhập định dưới gốc Bồ-đề, Ngài đã chứng ngộ và thành Phật.
Sau khi giác ngộ, Ngài đi khắp nơi trong xứ Ấn Độ để thuyết pháp độ sanh. Số người được độ bởi giáo pháp của Ngài nhiều không thể kể xiết. Năm 80 tuổi, cơ duyên độ sanh viên mãn, Ngài nhập niết-bàn nơi rừng ta-la song thọ xứ Câu-thi-na.
Hôm nanhờ chút duyên lành, chúng ta được gộnhuần trong biển pháp của Phật, biết đường lốtu tập để cầu thoát khổ. Vậchúng ta phảcố gắng tu tập hơn và đem hết năng lực để hộ trì chánh pháp, hầu mong đền đáp công ơn cao dàcủa Ngài.

III. TAM QUY

Tam quy là gì? Là quy Tam Bảo. Tức là quy Phật, quy Pháp, quy Tăng.

Phật là đấng gc ngộ hoàn toàn, phước, trí đầđủ , bên trong không bị các phiền não hoặc nghiệp làm rốiloạn, bên ngoàkhông bị hoàn cảnh thuận, nghịch , làm trở ngại. Được tự tạgiảthoát.
Pháp là go thuyết vô thượng của Phật. Nghĩa là những phương thức, đường lốPhật nóra cho chúng ta tu tập để được gc ngộ và giảthoát như Ngài.
Tăng là những vị xuất gia chân chính, luôn luôn y theo giáo pháp của Phật mà tu tập, đồng thời đem giáo pháp ấtruyền bá trong nhân gian, hầu mong tất cả mọi người đều được giác ngộ.
Phật, Pháp, Tăng (tam bảo) có đủ công năng tự giác ngộ và giác ngộ cho tất cả mọi người như thế, nên chúng ta cần phải chí thành quy y.
Chữ quy  nghĩa là quavề để nương tựa. Ví như đứa con dạtừ lâu xa cha mẹ đlưu lạc xứ người,hôm natự thấđờmình bơ vơ đau khổ, hồtâm trở về nương tựa cha mẹ để được sự nuônấng an ủi.
Quy còn có nghĩa bỏ trái trở về phải, bỏ ác trở về thiện. Xoamê mờ trở về giác ngộ, ngược chiều sanh tử khổ đau xoavề niết-bàn an lạc.
Nhưng muốn cho việc tu hành của mình có kết quả thiết thực, người Phật tử cần phải chí tâm và dunhất về sự quy y. Nghĩa là:
- Sau khi quy Phật rồi, không quy thiên, thần, quỷ, vật. Bởi những vị ấcòn là chúng sanh ở trong tamgiới, vẫn bị sanh tử luân hồi, chưa được hoàn toàn giải thoát như Phật.
- Sau khi quy Pháp rồi, không quy ngoại đạo tà giáo. Vì những giáo thuyết ấchưa được chu toàn hướng dẫn đến chỗ giác ngộ hoàn hảo.
- Sau khi quy Tăng rồi, không quy thầtà bạn ác. Vì những người ấthường đem lại cho ta những suytưởng lỗi lầm dẫn đến đau khổ cho cuộc sống.
Vậcác Phật tử nên thận trọng và chín chắn trong vấn đề quy y.

IV. NGŨ GIỚI

Ngũ giới là năm cấm giới của Phật .
NgườPhật tử tạgia sau khlãnh thọ pháp Tam quy rồcần phảtiếp thọ năm cấm giới. Năm cấm giớydo Phật thân chế ra vớmục đích là ngăn ngừa những lờvà hành động bất thiện, phpháp của chúng ta. Nó là căn bản để làm người, mà cũng là bước thang đầu tn để chúng ta hoàn thành đạo quả vô thượng Bồ-đề.
Năm cấm giới ấlà:
1. Không sát sanh, hạvật.- Tất cả các sanh vật đều tham sống sợ chết, biết đau khổ, lo buồn như ta. Để dứt oan nghiệp vatrả nhiều đờnhiều kiếp và để trau dồlòng từ bđốvớtất cả sanh vật, cho nên, chúng ta không sát hại.
2. Không trộm cướp lường gạt.- Tất cả của cải mọi người đều do lao tâm nhọc sức làm ra mới có. Để cho họ yên vui sung sướng hưởng lấcủa ấvà để khỏi chịu cảnh rượt bắt trulùng kiếp nàhoặc quả báo làm thân tôi mọi kéo càmang nặng nhiều đời kiếp về sau, chúng ta không đem tâm trộm cướp.
3. Không tà dâm bất chính.- Để tránh cảnh nhà tan cửa nát trong xã hội, để xâdựng êm đẹp hạnh phúc của gia đình, và để giảm bớt cội rễ sanh tử khổ đau Cho nên, chúng ta không tà dâm bất chính.
4. Không nódối.- Muốn cho tất cả mọngườđều sống an vutin cẩn, hòa thuận, không có sự thù hiềm ganh ghét và hãm hạlẫn nhau, chúng ta không nólờláo xược, không nólờđâm thọc, không nólờthêu dệt và không nólờhung dữ.
5. Không uống rượu.- Người rượu chè sasưa thì mất hết giống trí tuệ. Đạo nghiệp không bao giờ thành mà phải đọa vào địa ngục tối tăm đau khổ. Chúng ta muốn cho đạo nghiệp mau thành, trí huệ chóng khai phát, cho nên, chúng ta không rượu chè sasưa.
Trong năm cấm giới này, người Phật tử tại gia khi làm lễ quy có thể lãnh thọ bao nhiêu và giới nào, tùykhả năng mà phát nguyện. Nhưng khi đã lãnh thọ thì dù có tan mất thân mạng cũng quyết không hủphạm. Vì nó là thuyền đưa ta đến chỗ giải thoát. Ví như người qua biển, khi chưa đến bến thì quyết không rời thuyền.
Tam quy và Ngũ giới là nền móng căn bản cho sự tu trì của người Phật tử tại gia. Ngoài ra, còn cần phải có những trợ duyên thiết yếu giúp cho công hạnh tu trì chóng đến kết quả. Những trợ duyên thiết yếu đó như dưới đây.

V. ĂN CHAY

Ăn chalà ăn những rau trái dưa đậu mà không ăn thịt, cá, tôm, cua v.v... Vì ăn thịt, cá, tôm, cua ... tất nhiên phải làm tổn hại sinh mạng của chúng. Như ta đã biết tất cả chúng sanh đều tham sống sợ chết, cũng thích sung sướng và sợ đau khổ. Vì thế người Phật tử thể theo lòng từ bi của đức Phật, không nỡ giết hại chúng sanh để nuôi sống thân mạng mình.
theo khả năng và sự phát nguyện, chúng ta có thể ăn những trai kỳ như sau: Mỗi tháng ăn chay
Hai ngà(nhị trai) - Mồng một và rằm
Bốn ngà(tứ trai)- Ba mươi, mồng một, 14 và rằm
Sáu ngà(lục trai)- Mồng một, 14, rằm, 18, 23 và 30
Mười ngà(thập trai)- Mồng một, mồng tám, 14, rằm, 18, 23, 24, 28, 29và 30
Mỗi năm ăn chaba tháng (tam nguyệt trai) - tháng Giêng, Năm và tháng Bảy
Hoặc ăn chanhững ngàvía Phật và ăn chatrường như các vị xuất gia thì càng quý.
Nên nhớ: Những ngàăn chathì chúng ta bặt không nghĩ đến chuyện cá, thịt. Nếu làm thêm được những việc thiện như bố thí, phóng sanh thì phước biết chừng nào.

VI. NIỆM PHẬT

Niệm Phật là nhớ nghĩ đến đức Phật. Nhớ nghĩ đến các đức tính từ bi, trí huệ và giải thoát. Nhớ nghĩ đến các đức tướng thanh tịnh trang nghiêm không ai sánh bằng. Nhớ nghĩ đến các công hạnh tự lợi, lợi tha hoàn toàn viên mãn của Phật. Hầu đem áp dụng vào cuộc sống của mình và mọi người cho được hữu ích; mong tất cả đều giải thoát và giác ngộ như Phật. Đâlà một pháp môn trong muôn ngàn pháp môn mà Phật đã nói ra cho hàng Phật tử tu tập.
Niệm Phật có nhiều cách. Như nhớ nghĩ hình dung đức tánh hoặc nhẩm đọc danh hiệu Phật.
Trong kinh DĐà, đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ncó dạy: "Cách mườmuôn ức cõPhật về phương Tâcó thế giớtên là Cực Lạc và hiện thờcó đức Phật tên là A DĐà đang thuyết pháp độ sanh ... Nếu có chúng sanh nào nghe lờđem lòng tin chắc, phát nguyện muốn vãng sanh về nước Ngàvà đồng thờhàng ngàchí thiết chấp trì danh hiệu của Ngàđến chỗ nhất tâm bất loạn thì sau khlâm chung sẽ được vãng sanh về nước Ngài."
Nhưng tại sao chúng ta lại mong được vãng sanh về Thế giới cực lạc của đức Phật A Di Đà?
Vì ở thế giớđó không có sự khổ sanh, g, bệnh, chết và những nỗthống khổ như thế giớmà chúng ta đang sống đây. Trálại, chỉ thuần những sự an vutự tại, luôn được gần gũcác vị Bồ tát và luôn được nghe Pháp âm của Phật. Mau thành đạo, chứng quả. Vì thế nên chúng ta tha thiết mong muốn được vãng sanh về thế giớiCực Lạc của Ngài.
Về phương thức thực hành thì tùtheo hoàn cảnh và khả năng từng người. Như ngườkhông có nhiều thờigian rảnh rỗi, nên mỗtốtrước khđngủ và buổsáng lúc thức dậy, thực hành theo phương pháp "Mườniệm" của ngàTừ Vân Sám Chủ sau đây: Trước bàn thờ Phật kính lễ ba lạy, tụng một bàkinh ngắn rồlấchí tâm niệm "Nam mô A DĐà Phật" không luận bao nhu câu, cứ mãn một hơlà một niệm, mườlà mườiniệm. Kế thiết tha hồhướng cầu vãng sanh Cực lạc. Rồlễ Phật mà lura. Nếu ở chỗ không có thờ Phật thì quaymặt về hướng Tâcung kính xá rồniệm và phát nguyện như trên. Trong lúc niệm phảbuộc tâm nghe rõ tiếng niệm của mình không cho tán loạn. Hoặc ngườcó thì giờ rỗthì niệm nhiều hơn tùsố mình định nhưng phảigiữ cho thường, không nên bữa niệm bữa nghỉ.
Ngoàra thường ngày, lúc đđứng nằm ngồhoặc làm việc, đchơi, lúc nào cũng có thể thầm niệm; không nghĩ đến những chuyện xằng bậkhác. Niệm như vậlâu dần, tịnh niệm nốluôn, vọng niệm tu trừ. Khcòn sống luôn tưởng niệm đến Phật thì tâm an ổn, được Phật hộ trì và lúc chết quyết được vãng sanh về thế giớCực Lạc của Ngài.

VII. SÁM HỐI

Tất cả chúng ta từ hồnào đến giờ vì mê lầm, không nhận rõ lý chân thật của các pháp nên đã gầtạo vô lượng tộác. Do đó, chúng ta bị sanh tử luân hồchịu không biết bao nhu là đau khổ. Ngànamuốn tu trừ tất cả tộác mà chúng ta đã gầtạo thì cần phảchí thành sám hối. Sám hố nghĩa là ăn năn tất cả tộác đã gâyra từ trước và nguyện từ navề sau không gâtạo thêm nữa. Nếu y theo nghĩa mà sám hốthì bao nhu tộiác bất luận nặng hanhẹ đều có thể tu tan hết. Cũng ví như trong một căn nhà tốkhông biết bao lâu, nhưng khiđem vào một câđèn sáng thì sự tốtăm ấđều tu hết.
Phương pháp sám hốcó nhiều. Naphương pháp thông dụng nhất là "tác pháp sám hối": Mỗtháng vào tố14 và 30 ở các chùa hoặc niệm Phật đường, chư tăng cùng tín đồ tập họp đông đủ trước Tam Bảo chí thành lễ hồng danh các đức Phật để cầu xin sám hối. Đó là thực hành "tác pháp sám hối". Những ngàđó chúng ta nên về chùa mà cùng nhau chí thành sám hối.
Nhưng nên nhớ rằng đã sám hối như vậthì từ ngàvề sau cần phải luôn giữ gìn ba nghiệp thân, miệng và ý không gâtạo lỗi lầm. Có như vậy, bao nhiêu tội từ trước mới tiêu trừ.
Phương pháp giữ gìn không tạo ba nghiệp tội thân, miệng, ý, không gì hơn là không hủphạm năm giới cấm Phật dạy.

VIII. THỜ PHẬT

Tượng Phật ngự trị tại nhà để nhớ Phật tại tâm. Chúng ta ra vào hàng ngàchiêm ngưỡng để noi theo và luôn luyện tập những đức tánh cao quý sáng chói muôn thuở của Ngài như Từ bi, Hỷ xả, Hùng lực, Bình đẳng, Thanh tịnh, Trí huệ ...
Thờ Phật là thờ chân lý cao siêu tuyệt diệu. Không gì quý hơn có Phật ngự trị trong nhà.

IX. LẠPHẬT

Đức Phật đã trảqua vô lượng kiếp tu hành, phước đức cao dàvô bn vô tận. Chúng ta lạPhật sẽ được hằng sa phước đức, diệt trừ các phiền não nghiệp chướng. LạPhật để sửa mình, phục thiện, dẹp bỏ tánh cống cao ngã mạn. LạPhật để tỏ lòng trân sâu xa của mình đốvớđấng cha lành đã cứu độ biết bao sanh linh ra khỏtrầm luân khổ hải.

X. CÚNG PHẬT

Hằng ngàchúng ta đốt một nén hương, dâng một cành hoa cúng Phật để tỏ lòng thành kính trân. Như thế, chúng ta sẽ tạo được phước đức trong hiện tạvà ngàmai. Cúng Phật cần nhất là phảthành tâm. Câu chuyện cậu bé cúng đất sét cho Phật, bà già cúng đèn, ngườhành khất cúng muố... đã chứng tỏ rằng vớlòng thành thì vật nhỏ mọn cũng trở thành quý g.

XI. TỤNG KINH

Tụng kinh để hiểu và nhớ lời Phật dạy, để ba nghiệp được thanh tịnh, thâu nhiếp vọng tâm, sanh định và phát huệ. Ăn uống để nuôi dưỡng cơ thể như thế nào thì tụng kinh để nuôi dưỡng tâm thần cũng cần thiết như thế. Phải tụng đọc rõ ràng, trang nghiêm và đúng đắn.

XII. BỔN PHẬN CỦA MỘT PHẬT TỬ TẠGIA

Người Phật tử sau khi quy Tam bảo rồi muốn xứng đáng mình là một Phật tử chân chính, cần phải nhận thức và thực hiện đúng với bổn phận của mình trên mấphương diện sau đây:
a - Đối với Tam bảo: Phải có lòng tin Tam bảo đúng với ý nghĩa chân chính của nó và tin một cách vững chắc. Không để cho một thử thách cam go nào làm dao động. Không bao giờ làm điều gì có phương hại đếnTam bảo. Nhiệt tâm hộ trì và truyền bá chánh pháp. Nhất là ủng hộ các bậc xuất gia chân chính thực tâm tu học và hoằng dương đạo pháp.
b - Đối với xã hội: Dựa trên tinh thần từ bi và bình đẳng của đức Phật hết lòng phục vụ và xâdựng xã hội, làm cho cuộc sống giữa xã hội trở nên yên vui hòa hợp, không có sự tranh giành, ganh ghét hãm hại lẫn nhau.
c - Đối với gia đình: Phải hiếu thảo với cha mẹ. Hòa thuận vợ chồng, anh em họ hàng thân thích ... Làm thế nào cho tất cả mọi người trong gia đình đều trở về với Tam bảo và xâdựng gia đình trên nền tảng Phật hóa.
d - Đốvớbản thân: Tinh tấn tu học đúng theo go pháp Phật dạy. Bỏ dần dục vọng, ích kỷ. Tập sống cuộc đờrộng rãi, giảthoát. Luôn luôn làm những điều lợmình lợngười. Tin đúng nhân quả. Nhận rõ tất cả sự vật đều vô thường để không sanh tâm tham đắm. hướng cuộc đờđđúng vào con đường gc ngộ.

 VÀI CHI TIẾT CẦN BIẾT

Ý nghĩa lá phái: Lá phái là vật để đánh dấu và tiêu biểu nhắc nhở trên bước đường tu tập của mình. Đem lá phái về, chúng ta nên treo ở một nơi nào dễ thấy. Hằng ngànên nhìn đến nó và luôn luôn nhớ rằng năm ấtháng ấngày, chúng ta đã đến chùa ấy, cầu thầtruyền cho Tam quy, Ngũ giới, pháp danh là gì.
Luôn luôn nhớ rõ pháp Tam quy Ngũ giới như trong phái đã dạy, để y theo đó mà tu trì. Có như vậthời thiện căn mỗi ngàmỗi tăng trưởng, sẽ hưởng phước lạc an lành. Không phải việc gói cất kỹ đợi khi chết ép đem theo.
Bổn phận, tư cách đối với bổn sư và nơi mình đã đến quy y: Sau khi quy rồi, chúng ta nên xem vị bổn sư là người thamặt đức Phật và chúng Tăng truyền Tam quy Ngũ giới cho ta. Nơi đến quy như là từ đường của chúng ta. Chúng ta nên thường về chùa để được gần gũi bổn sư, gần gũi các thầmà học hỏi giáo lý. Có điều gì sai lầm nên về sám hối trước bổn sư và cầu xin chỉ dạy. Nên xem chúng ta là người con trong gia đình, người con của thầy, phải hết lòng cung kính và giúp đỡ các thầvề mọi phương diện.
Tư cách khi gặp các vị tăng già: Tăng già là tiếng chỉ chung cho các bậc xuất gia chân chính, tức là ngôi Tăng Bảo mà mình đã quy y. Cho nên, bất cứ ở một nơi nào khi gặp vị xuất gia, chúng ta phải cung kính chấp taychào hỏi, xem như vị bổn sư của mình. Lúc đến chùa phải giữ trang nghiêm thanh tịnh. Đối với mọi người phải giữ lễ độ. Không mặc cảm tự tôn hoặc tự tmà luôn tỏ thái độ xứng đáng mình là đệ tử của đấng Đại từ Đại bi Đại giác ngộ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét