Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

Kiến Giải Chứng Đạo Ca -3

          Trong khi Chư  Phật, Chư Tổ và Thiền Sư chú ý tới cái Không, trân trọng nó, sống chết với nó để khám phá Chân Lý, thì phàm phu lại chê bai, bỏ rơi nó. Ngay đến những nhà Bác Học không gian cũng chỉ khám phá cái Không Gian -Space, còn cái Hư Không Rỗng Rang -Emptiness lại bị họ bỏ qua. Ở đây nên phân biệt cái Không Gian-Space và cái Hư Không Rỗng Rang-Emptiness mà thường khi gọi lầm lẫn Không Gian là Hư Không hoặc Hư Không là Không Gian hoặc đồng hóa Hư Không và Không Gian là một. Thí dụ có 2 vụ nổ Big Bang ở 2 “Dị Điểm” (singular point) cách nhau rất xa . Dị Điểm A nổ trước, cách đây 15 tỷ năm sinh ra vũ trụ A và hiện thời ở thời điểm năm 2011 bành trướng ra rộng tới 15 ngàn tỷ tỷ tỷ kilômét khối. “Dị Điểm” B nổ sau, cách đây 1 tỷ năm sinh ra vũ trụ B và hiện thời ở thời điểm năm 2011 nở rộng ra được 1 ngàn tỷ tỷ tỷ kilômét khối. Hai Không Gian A và B của 2 vũ trụ này mới đầu bằng hạt bụi vô cùng nhỏ, giãn nở lớn ra nhanh chóng như hiện tại và còn bành trướng ra đến vô biên và A lớn hơn B (A>B).  
          Không Gian A có màu xanh lơ ( blue), nhiệt độ lạnh, ánh sáng truyền đi với vận tốc  300.000 kilômét/giây. Không gian B có màu hồng nhạt (rose), nhiệt độ nóng, ánh sáng truyền đi với vận tốc 100.000 kilômét/giây. Các Không Gian A và B khác nhau về vị trí, kích thước, đặc tính vì vật chất cấu tạo nên 2 vũ trụ A và B khác nhau về nồng độ đậm đặc, lực hút, từ trường, điện trường, bức xạ..v..v…Như vậy, Không gian thì có giới hạn lớn nhỏ tăng giảm, di động ,có sinh diệt, có đặc tính riêng biệt và tùy thuộc vào sự vật. Trong khi đó, cái “Hư Không Rỗng Rang-Emptiness” chứa cả 2 vũ trụ và 2 Không Gian AB thì trống rỗng, bất động, bình đẳng, không tăng giảm lớn nhỏ, không sinh diệt và trùm khắp.
          Chính cái “Hư Không Rỗng Rang” bất động này là cái mà Thiền Sư để ý tới. Nó giống với cái “Rỗng Thênh Không Thánh” của Bồ Đề Đạt Ma, tuy nhiên nó lại chứa cái Sắc hiện bên trong tức là Vũ Trụ và cái Không Gian của Vũ Trụ đó, tức là có “Vật”; do đó nó vẫn là Vọng Pháp. Hư Không này có Thể và Tướng: Thể là bình đẳng, trùm khắp; Tướng là tùy Vật mà có sự khác biệt. Tông nghĩa của Hữu Bộ chia nó làm Hư Không và Sắc Hư Không giới, lấy Thể của nó làm Hư Không, lấy Tướng của nó làm Sắc của Hư Không giới. Đem Hư Không này làm một Vô Vi Pháp, một của ba Vô Vi thu nhiếp trong Pháp Xứ. Sắc của Không Giới là Sắc Pháp mà mắt nhìn thấy và thu nhiếp ở trong Sắc Xứ, tức là Hữu Vi Pháp. Người đời coi cái Sắc của Không giới này là Hư Không, cho nên cái mà người đời gọi là Hư Không chỉ là “Vọng Pháp” không tránh khỏi Tướng sinh diệt. Cũng như trong giấc Mộng Ban Đêm có cái Thế Giới Hữu Vi và Hư Không, khi thức dậy cả Thế Giới Hữu Vi và Hư Không đó đều mất, đều có cái Tướng sinh diệt. Còn trong giấc Mộng Ban Ngày, khi “Thức Dậy” hay khi “Chứng Ngộ” thì chẳng những Thế Giới Hữu Vi mất trở về Không mà Hư Không cũng mất trở về Không. Khi chỉ chứng ở “Mặt Trăng Thứ Hai” cũng vậy : Sắc là cái Rõ, Hư Không là cái Rõ trùm khắp, cho nên cả Sắc và Hư Không đều sinh diệt. Như vậy cả hai cái Hư Không trong Mộng Ban Đêm và Hư Không trong Mộng Ban Ngày đều có cái Tướng sinh diệt cho nên tất cả đều là Vọng Pháp. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nên biết Hư Không sinh ra trong Tâm mình giống như làn mây điểm ở trong bầu trời, phương chi thế giới ở trong Hư Không”. Kinh lại nói: “ Cho đến Hư Không đều do sự Vọng Tưởng mà sinh khởi”. Khởi Tín Luận cũng nói: “Hư Không Tướng là Vọng Pháp, Thể của nó là không, nó không thực có. Do đó để thấy Tướng khiến Tâm sinh diệt. Vì tất cả Sắc Pháp vốn dĩ là Tâm thực không ngoài Sắc. Nếu không có Sắc thì không có cái Tướng của Hư Không”.
           Như vậy vì có Sắc cho nên có cái Tướng của Hư Không, và Tâm sinh ra Sắc phải có cái Không đối đãi với cái Sắc, do đó Hư Không là Vọng Pháp. Nếu cái Sắc hoại đi thì không có cái Tướng của Hư Không, thì khi đó Hư Không chính là Hư Không, là cái Vô Tướng và không sinh diệt, hoàn toàn rỗng không vì thế giới Mê tan hoại hay không có. Nếu thấy có “Sắc Không” là đối với con mắt Hữu của phàm phu, còn đối với con mắt Vô hay con mắt Bát Nhã của Chư Phật và Thiền Sư thì “Sắc Không” đều là Không, là Bất Nhị, là Chơn Nhất. Do đó Hư Không của Chư Phật và Thiền Sư là cái Không tuyệt đối, là Chân Không. Nói khác đi đối với con mắt “Hữu” thấy “Có” của phàm phu trong thế giới Mê thấy có Sắc thì Hư Không là Vọng, đối với con mắt “Vô” thấy “Không” hay con mắt “Bát Nhã” của người chứng Đạo thì Hư Không chính là cái Không, là Đạo, là cái Rỗng Thênh Không Thánh, cái Bổn Lai Vô Nhất Vật, là cái Nhất hay Chơn Nhất, là Như Lai, là Bát Nhã, là Niết Bàn…Cái Hư Không Vô Vi của Thể này, Đại Thừa lập làm Vô Vi Pháp, Thiền Sư Huyền Giác cũng lấy cái Vô Vi Pháp này để tìm Đạo và đã chứng Đạo: “Tuyệt học Vô Vi nhàn Đạo Nhân”.
           Các nhà Bác Học không gian chỉ nghiên cứu trên cái “Sự Vật” mà không nghiên cứu trên cái “ Phi Sự Vật”, họ chỉ quan sát trên cái “Tướng” mà không quan sát trên cái “ Vô Tướng” nên bị mất hết một con mắt, chỉ nhìn bằng con mắt “Hữu” bị chướng ngại, còn con mắt “” không chướng ngại thì bị mù, giống như người mù sờ voi nên chẳng bao giờ đạt được  Chân Lý.
          Các nhà Bác Học của thế gian có thể đúng, hoặc có thể tìm ra một góc cạnh nào đó của Chân Lý, nhưng chỉ đúng theo “Nghiệp thức của chúng sanh Người”  còn đối với “Nghiệp thức của chúng sanh loài khác” thì lại sai, hoặc đối với Chân Lý thực sự thì lại sai. Cho nên cái tri thức của thế gian là tri thức theo Nghiệp Tướng, cục bộ nếu không muốn nói là điên đảo. Thí dụ như trong giấc chiêm bao, thế giới loài Người hiện ra với đầy đủ nhà cửa, cầu đường, núi sông , Mặt Trời ,Mặt Trăng, và Hư Không. Các nhà Bác Học trong thế giới chiêm bao dù có dùng kính hiển vi  hay ống kính thiên văn cực kỳ tối tân cũng chỉ nhìn thấy những sự vật giả tạo – chỉ là cái Bóng của Thân Tâm đang nằm ngủ mê trên giường biến chiếu ra. Họ không thể nào nhìn thấy được cái Thân Thật đang nằm trên giường mà trong giấc mộng là Hư Không Rỗng Rang, bởi vì họ chỉ dùng con mắt Hữu Tướng của thế gian mộng – con mắt Nghiệp trong Nghiệp Mộng. Có thể nói các nhà Bác Học đang “ mò Trăng đáy nước” cho nên không thể nào thấy được Mặt Trăng thật mà chỉ thấy Bóng Trăng thôi.     
  “Tác hữu trần sa hữu
   Vi không nhất thiết không ,
   Hữu không như thủy nguyệt,
   Vật trước hữu không không”.
                    (Thiền Sư Đạo Hạnh-Việt Nam).
  (Có thì có tự mảy may
   Không thì cả thế gian này cũng không
   Vừng trăng vằng vặc in sông
  Chắc chi có có, không không mơ màng).
          Tại sao con mắt Hữu Tướng của thế gian lại điên đảo và bị giới hạn không thể thấy Chân Lý? Bởi vì sự hiện hữu của chúng sanh là do NghiệpNghiệp sanh ra Chánh Báo là loài chúng sanh và Y Báo là thế giới của loài chúng sanh đó sinh sống. Chính Nghiệp Thức che đậy Chân Lý, ngay cái Chân Lý Khoa Học của thế gian hay cái tri thức tuyệt vời của thế gian cũng do Nghiệp mà ra. Cái vũ trụ với những định luật khoa học xem như bất biến mà các nhà Bác Học của thế gian khám phá ra được cũng do bàn tay của Nghiệp Lực nắn tạo ra. Cõi Người nghiệp lực khác, cõi A Tu La nghiệp lực khác, cõi Trời nghiệp lực khác, cõi ngạ quỷ nghiệp lực khác.Y Báo, Chánh Báo hay những định luật khoa học trong các cõi đó cũng hoàn toàn khác nhau và đều có cùng một Biệt Tướng cho mỗi cõi!
          Một giới hạn khác của con mắt Hữu Tướng của thế gian là sự giới hạn về vật lý. Định luật về vận tốc của vũ trụ hiện hữu mà nhà Bác Học Albert Einstein khám phá ra là vận tốc tối đa trong không gian hiện hữu là 300.000 kilômét/giây chỉ có hạt electron điện tử, sóng vô tuyến hay sóng điện từ (electromagnetic waves) là đạt được bao gồm các tia X, tia Gamma, hồng ngoại, tử ngoại… mà mắt thường không thể trông thấy, chỉ thấy ánh sáng trắng thông thường là sóng-hạt photon. Còn sóng âm thanh thì rất chậm chỉ có khoảng 340 mét/giây chỉ truyền trong không khí, ra ngoài không gian thì không truyền được, phải dùng sóng vô tuyến. Giả sử vào thời điểm năm 2010, người Địa Cầu đang quan sát chúng sanh đang sống ở Hành Tinh A cách Địa Cầu 1 tỷ năm ánh sáng. Người Địa Cầu dùng kính thiên văn cực kỳ tối tân qua trung gian và sự truyền đi của sóng-hạt photon ánh sáng. Vì sóng ánh sáng này mang tin tức hình ảnh của Hành Tinh A phải mất đi 1 tỷ năm truyền đi trong Không Gian để đến Địa Cầu, cho nên người Địa Cầu chỉ nhìn thấy chúng sanh ở Hành Tinh A cách trước thời điểm 2010 tới 1 tỷ năm. Còn chúng sanh ở thời điểm năm 2010 ở Hành Tinh A, người Địa Cầu phải đợi 1 tỷ năm sau mới có thể nhìn thấy được. Người Địa Cầu muốn gọi điện thoại vô tuyến cho chúng sanh ở Hành Tinh A thì phải đợi 1 tỷ năm sau chúng sanh ở Hành Tinh A mới nhận được cú điện thoại của năm 2010. Cũng vậy, giả sử người Địa Cầu chế được phi thuyền không gian  bay nhanh bằng vận tốc ánh sáng và muốn thăm viếng Hành Tinh A, phi thuyền phải bay mất 1 tỷ năm sau mới đến được Hành Tinh A. Nhưng đời người chỉ sống có 100 năm, do đó con người bị bất lực hoàn toàn: muốn thấy cái hiện tại cũng không có thể thấy, muốn nghe cái hiện tại cũng không có thể nghe, muốn đến cái hiện tại cũng không có thể đến. Thế giới Hữu Vi, Hữu Tướng của thế gian là như vậy, bị giới hạn và nhiều ngăn ngại, trong khi cái Chân Không Vô Tướng thì dung thông vô ngại. Chư Phật có thể nhìn thấy quá khứ và hiện tại khắp 10 phương; có thể đến đi nghe thấy khắp 10 phương trong 1 sát na; vì toàn thể vũ trụ, 3 cõi , 10 phương chính là Pháp Thân của các Ngài. Các Ngài không cần phải đi đâu vì cả tam thiên đại thiên nằm trong lòng bàn tay của các Ngài.  
          Thi Sĩ Tô Đông Pha thời nhà Tống, vào cuối đời, khi nghe Thiền Sư Thường Tổng thuyết về: “ Vô tình thuyết pháp” đã đại ngộ, làm ra bài kệ: 
“Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt,
  Sơn sắc vô phi thanh tịnh thân.
  Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ,
  Tha nhật như hà cử tự nhân”.
 (Suối reo chính thật lưỡi rộng dài
  Màu non quả là Thân thanh tịnh
  Đêm nghe tám vạn bốn ngàn kệ,
  Sáng dậy làm sao nói với người ). 
          Tiếng suối reo lưỡi rộng dài, nghĩa là âm thanh của tiếng suối chảy vươn dài ra đồng loạt trùm khắp cả hư không vô biên với tam thiên đại thiên không ngăn ngại. Thân không còn ngã sở, đã hòa nhập trong vạn hữu và Hư Không, trùm khắp cả sơn hà đại địa, bình đẳng với mọi vật. Đêm nghe vô số kệ Phật thấu suốt cả Trời Đất. Sáng dậy làm sao nói cho người biết được, nếm được cái hương vị chứng ngộ vi diệu này. Đó là cái thấy, cái nghe vô tướng, cái chạm xúc vô tướng của Pháp Thân khắp 10 phương không chướng ngại, không thể dùng ngôn ngữ hay văn tự thế gian để diễn tả được, khác với cái thấy nghe hiểu biết, chạm xúc bị chướng ngại và điên đảo của thế gian hay cái thấy,nghe, chạm xúc bị chướng ngại của người Địa Cầu với Hành Tinh A.
          Tóm lại, phàm phu chỉ quan sát trên cái Hữu, cái sắc tướng vật chất để tìm Chân Lý. Còn Chư Phật, Tổ và Thiền Sư thì để ý tới cái , cái Không, cái Chân Không rỗng rang vô tướng, không có một vật để thấy. Tuy là Không nhưng lại siêu việt, cực huyền diệu lý, là cái Một rốt ráo nguyên thủy của Càn Khôn vũ trụ. Trong việc khám phá ra nguyên thủy của vũ trụ là một “Dị Điểm” vô cùng nhỏ trong vụ nổ Big Bang cách đây 15 tỷ năm, các nhà Bác Học không gian đã đụng tới cái Gốc của sự vật, là chỗ giao điểm giữa cái CÓ và cái KHÔNG, cái HỮU và cái , đụng tới Bức Tường Mẹ Chân Không Rỗng Rang, cái (Rỗng Không-Emptiness), cái Không, cái , cái Vô Vi sinh ra Big Bang nhưng lại bỏ qua, chỉ nghiên cứu cái Không Gian nhỏ nhoi, bị giới hạn và cái năng lượng vật chất chứa trong hạt bụi Big Bang. Bức Tường Mẹ Chân Không Rỗng Rang đó là Chân Không, là Bát Nhã, là Như Lai Tạng, là Bản Thể, là Thực Tướng, là Tánh. Còn hạt bụi trong vụ nổ Big Bang sinh sinh hóa hóa, trùng trùng duyên khởi sinh ra vũ trụ Càn Khôn với hàng trăm tỷ thiên hà là Diệu Hữu là Pháp Giới, là Hiện Tượng, là Dụng hay là Tâm.  
“Tâm Tâm Tâm
  Nan khả tầm
  Khoan thời biến Pháp Giới,
  Trách giã bất dung châm”. (Bồ Đề Đạt Ma).
(Tâm Tâm Tâm, khó thể tìm, tung ra thì trùm cả pháp giới,
 Càn Khôn vũ trụ, rút lại chẳng đầy mũi kim). 
          Bức Tường Mẹ Chân Không Rỗng Rang đó là Mặt Trăng thật, biến chiếu thành vô số Bóng Trăng trên mặt nước sông hồ. Các nhà Bác Học của thế gian chỉ quan sát, nghiên cứu cái Bóng Trăng bỏ quên đi Mặt Trăng thật, cho nên bị điên đảo, không bao giờ biết được Mặt Trăng thật là gì? Hạt bụi Big Bang sinh ra vũ trụ là Tâm, là một Niệm Vô Minh khởi lên giữa Đất Như Lai và Như Lai biến chiếu ra Càn Khôn vũ trụ: “ Không tức thị Sắc”. Cũng như mặt biển Chân Như đang thanh tịnh, ngôi nhà Bát Nhã đang lặng yên, Pháp Thân Như Lai đang vắng lặng, bỗng một Hòn Đá Vô Minh rơi xuống chỗ Như Lai biến chiếu, Bát Nhã ứng cơ, Chân Như duyên khởi, làm cho Hư Không dậy sóng nổi lên 3 ngàn thế giới, khiến cho Chân Không nổi bọt và sóng hiện ra Tướng thế gian.
          Các Nhà Khoa Học khám phá ra Big Bang là nguồn gốc của Vũ Trụ xảy ra cách đây khoảng 15 tỷ năm, đã đánh đổ thuyết Sáng Tạo (Creationist) của Ki-Tô-Giáo là Vũ Trụ do Thượng Đế tạo ra cách đây 6.000 đến 10.000 năm và chỉ trong 6 ngày (Thánh Kinh). Tuy nhiên họ không biết tại sao có Big Bang và chỉ biết cái Big Bang này xảy ra cách đây 15 tỷ năm (chính xác hơn là 13,7 tỷ năm). Trong khi Nhà Phật lại có những triết lý sâu sắc giải thích tại sao có chúng sanh và thế giới vật chất hữu hình hoặc siêu hình như Kinh A Tỳ Đạt Ma, Kinh Calacakra, Kinh Hoa Nghiêm… hoặc từ những luận thuyết như Nghiệp cảm duyên khởi, Chân Như duyên khởi, A-Lại-Da duyên khởi, Pháp Giới duyên khởi… Không phải chỉ có cái Big Bang này sinh ra Vũ Trụ hiện hữu mà trước đó đã có vô số Vũ Trụ khác : “Tiền tiền vô thủy” và sau khi Vũ Trụ này tan hoại (Thành, Trụ, Hoại, Không) lại có vô số Vũ Trụ khác tiếp nối tùy theo Nghiệp chúng sanh : “Hậu hậu vô chung” ! Và cái thấy bằng “Phật Nhãn” của Đức Phật với con mắt Bát Nhã từ cái vi mô vô cùng nhỏ như vi trùng trong ly nước hay vật chất là duyên hợp không có tự tính là tánh Không, hạt vi trần (nguyên tử) chia làm 7 lớp (từ nguyên tử Francium trở đi) cho đến cái vĩ mô là các Hoa Tạng thế giới với vô số Thiên Hà đủ thứ hình thù như hình bánh xe, hình cái quạt, hình xoáy nước, hình hoa nở…mà kính thiên văn Hubble đã chụp hình được thì quả Đức Phật là Bậc Thầy của các nhà Khoa Học ở cõi Người và nếu thực sự có Chúa Ki-Tô ở cõi Trời thì Đức Phật cũng là Bậc Thầy của Chúa Ki-Tô : Thầy cả Trời Người “Thiên Nhân Sư ”. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật nói : “Ngoài thế giới nhỏ nhoi của chúng ta còn có hằng hà sa số thế giới khác”. 22 thế kỷ sau, vào thế kỷ 17, Nhà Khoa Học Giordano Bruno cũng cho rằng : “Ngoài thế giới của chúng ta còn có nhiều thế giới khác”. Trong khi Kinh Thánh lại nói: Địa Cầu là thế giới duy nhất là trung tâm của vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng trong 6 ngày. Vì cải lại Kinh Thánh là lời “mặc khải” của Thiên Chúa, ông bị bắt giam và đưa ra Tòa Án Dị Giáo (Inquisition) để xử tội dám hủy báng lời Chúa. Là Linh Mục dòng Đa Minh, tòa sẽ trả lại tự do nếu ông rút lại lời nhận định trái ngược với Kinh Thánh và tuyên bố là mình sai lầm. Nhưng ông can đảm vẫn giữ vững lập trường, Giáo Hội La Mã đành phải thiêu sống ông để làm gương cho những ai không tin vào Thánh Kinh. Nhà Khoa Học Galileo cũng chứng minh được Quả Đất tròn, không phải bằng phẳng như lời Chúa nói, cũng bị đem ra Tòa Án Dị Giáo xử tội, tuy nhiên vào giờ phút cuối ông chịu thay đổi, không quyết liệt như Bruno nên chỉ bị giam lỏng cho đến chết khỏi bị cực hình và lên giàn hỏa như Bruno. Đi trước khoa học cả hơn 2000 năm và còn nhìn thấy những cái mà khoa học không bao giờ thấy được, Phật xứng đáng là Thầy của cả Trời Người, Trí Tuệ của Thế Gian hay Giáo Chủ của bất cứ một tôn giáo nào đều không thể sánh với trí tuệ Phật !
          Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy :
“Nhược nhơn dục liễu tri,
  Tam thế nhứt thiết Phật,
  Ưng quán pháp giới tánh,
  Nhứt thiết duy Tâm tạo”.
          Nghĩa là suốt ba đời tất cả Chư Phật: quá khứ, hiện tại và vị lai khi quán tưởng về pháp giới tánh, đều nhận thấy rằng tất cả Hoa Tạng Pháp Giới đều do Tâm tạo ra, không có gì khác. Tâm mê do Vô Minh và Nghiệp lực tác động mà sinh ra thế giới, sơn hà đại địa và muôn loài chúng sanh, ngoài ra không có Thượng Đế nào sinh ra vũ trụ và con người! Bồ Tát Long Thọ, Tổ Thiền Tông thứ 14 bác bỏ luận điểm của Ngoại Đạo cho rằng tất cả các Pháp sinh đều do Thượng Đế làm ra. Ngoại Đạo cho rằng có “một nguyên nhân độc lập đầu tiên” là “Thượng Đế” - tự sinh và sinh ra thế giới. Ngoại Đạo dùng “đèn” để biện luận cho khái niệm Thượng Đế như sau:
“Như đăng năng tự chiếu      Nghĩa là:     (Như đèn có thể tự chiếu sáng
  Diệc năng chiếu ư bỉ                                 Cũng có thể chiếu sáng cái khác
  Sinh pháp diệc như thị                              Pháp sinh cũng vậy
  Tự sinh diệc sinh bỉ”.                               Tự sinh và cũng sinh cái khác).
          Tổ phản bác lập luận này như sau:
                                                  “Nhược đăng năng tự chiếu   Nghĩa là:     (Nếu đèn có thể tự chiếu sáng
  Diệc năng chiếu ư bỉ                                Cũng có thể chiếu sáng vật khác
  Ảm diệc năng tự ảm                                 Thì bóng tối có thể tự che tối
  Diệc năng ảm ư bỉ”.                                 Cũng có thể che tối vật khác).
          Điều này ngụ ý nói rằng, nếu cho là có Thượng Đế sinh ra vạn pháp thì cũng có những pháp sinh khác không phải là Thượng Đế cũng sinh ra vạn pháp. Do đó Thượng Đế không phải là độc quyền tự sinh ra và sinh ra vạn pháp. Chẳng hạn như nếu cho là bào thai tự nhiên là do Thượng Đế gián tiếp sinh ra thông qua cha mẹ, thì phương pháp thụ thai bằng ống nghiệm, hay phương pháp sinh sản “vô tính” (cloning) không phải do Thượng Đế sinh ra hay ít ra là ý muốn của Thượng Đế…  
          Ngài luận giải tiếp:
“Đăng nhược vị cập ảm    Nghĩa là:   (Đèn nếu được chiếu tới bóng tối
  Nhi năng phá ảm giả                         Mà có thể phá hết bóng tối
  Đăng tại ư tử gian                            Như vậy đèn chỉ ở một chỗ này
  Tắc phá nhất thiết ảm”.                   Làm sao có thể phá hết bóng tối).
          Tổ nói:
“Vân hà đăng sinh thời     Nghĩa là:    (Làm sao khi đèn mới đốt lên
  Nhi năng phá ư ảm                           Mà sao có thể phá tối
  Thử đăng sơ sinh thời                      Và khi đèn mới đốt lên
                                                    Bất năng cập ư ảm”.                        Không thể kịp chiếu đến bóng tối).   

          Do đó không thể lấy “đèn” làm thí dụ phân biệt tính độc lập của sự sinh khởi và tính cách duyên sinh (pháp làm duyên) của duyên dĩ sinh (pháp do các duyên sinh). Ngoại Đạo cho rằng trong bản chất mọi duyên dĩ sinh tùy thuộc sự sinh khởi tại tiền. Nhưng sự sinh khởi tại tiền này tùy thuộc sự sinh khởi tại tiền khác, thời sự sinh khởi tại tiền khác lại tùy thuộc sự sinh khởi tại tiền khác nữa và tiếp tục đến vô cùng… Nếu ngưng chuỗi nghịch suy vô hạn này bằng cách giả định ở một thời điểm nào đó có sự sinh khởi đầu không tùy thuộc sự sinh khởi tại tiền nào cả. Và cho cái sinh khởi giả định này là đầu nguồn, là Thượng Đế tự sinh. Như vậy xét cho cùng thì Thượng Đế chỉ là sự giả định không thật có: tự cho phép lấy một “sự tưởng” làm “sự lý”, một “phi lý” làm “tột lý”, một “phi sự” làm “tột sự”; cả “lý” và “sự” đều là “sự tưởng” chủ quan, không có tính cách “độc lập” khách quan và lấy sự giả định này làm Sự Thật hay Chân Lý, thì chỉ là một sự “hoang tưởng” không xác thực! Rốt ráo lại là không có nguyên nhân đầu tiên, tức không có Thượng Đế. Tuy nhiên, thực tế là có pháp hiện hữu, là cái “đang-là” thì phải có pháp sinh ra cái “đang-là” hiện hữu này là pháp gốc sinh ra cái “đang-là” là ngọn. Rồi cái “đang-là” tuy là pháp ngọn vừa mới sinh lại là pháp gốc sinh ra cái “sẽ-là” kế tiếp. Cái “sinh-sinh” và cái “bổn -sinh” lẫn lộn và hòa hợp nhau gốc trở thành ngọn ngọn trở thành gốc mà sinh ra pháp giới. Với điều này, Ngoại Đạo luận giải:
 “Sinh-sinh chi sở sinh    Nghĩa là:   (Khi tướng sinh-sinh sinh khởi
   Bổn-sinh chi sở sinh                       Nó sinh ra bổn-sinh
   Sinh ư bỉ bổn-sinh                          Khi tướng bổn-sinh sinh khởi
                                                     Hoàn sinh ư sinh-sinh”.                 Nó lại sinh ra sinh-sinh).      
          Tổ Long Thọ cũng phủ bác luôn luận điểm này như sau: 
“Nhược vị thị sinh-sinh
  Sinh-sinh tòng bổn-sinh
  Năng sinh ư bổn-sinh
  Hà năng sinh bổn-sinh”.
          Nghĩa là: Nếu có “sinh-sinh” ấy, có thể sinh ra “bổn-sinh“sinh-sinh ” từ “bổn-sinh” mà có, làm sao sinh ra “bổn-sinh” 
          Tổ phân tích tiếp:
“Nhược vị thị bổn-sinh
  Bổn-sinh tòng bỉ sinh
  Năng sinh ư sinh-sinh
  Hà năng sinh sinh-sinh”
          Nghĩa là: Nếu có “bổn-sinh” ấy, có thể sinh ra “sinh-sinh”“bổn-sinh” từ “sinh-sinh” mà có, làm sao sinh ra “sinh-sinh”? Một cách đơn giản có thể phản biện như sau: Nếu cho rằng cái trứng có thể sinh ra con gà, thì cái trứng do con gà mà ra làm sao có thể sinh ra con gà? Còn nếu cho rằng con gà sinh ra cái trứng, thì con gà do cái trứng nở ra làm sao có thể sinh ra cái trứng! Cái trứng có trước hay con gà có trước? Do đó không có pháp sinh nào là gốc, pháp sinh nào là ngọn cả! Không có nguyên nhân đầu tiên của pháp sinh là Thượng Đế, không có pháp sinh nào gốc cũng như pháp sinh nào là ngọn, như vậy thì pháp hiện hành có thể tự sinh không? Tổ bác bỏ luôn luận điểm này như sau:
“Thử sinh nhược vị sinh     (Tướng sinh ấy nếu chưa sinh
  Vân hà năng tự sinh          Thời làm sao có thể tự sinh
  Nhược sinh dĩ tự sinh        Nếu đã tự sinh rồi
  Sinh dĩ hà dụng sinh”.        Thì cần gì sinh nữa?).
          Tự sinh là chưa sinh mà đã tự sinh hay đã sinh rồi mà tự sinh? Nếu chưa sinh thì không có pháp gì cả, làm thế nào để tự sinh? Còn nếu đã sinh rồi thì đã hiện hành cần gì phải tự sinh nữa? Vậy không có pháp tự sinh! Ngay cả pháp duyên sanh do nhân duyên hòa hợp cũng không có. Tổ luận giải:
“Nhược pháp chúng duyên sanh
  Tức thị tịch diệt tướng
  Thị cố sinh sinh thời
  Thị nhị câu tịch diệt”.
(Nếu pháp do các duyên sinh
 Tức là tính tịch diệt
 Thế nên sinh và đang sinh
 Cả hai đều tịch diệt). 
          Cái sinh và cái đang sinh đều do duyên hợp nên tịch diệt, tức không có tự tính. Cho nên không có thể nói đang sinh là có sinh. Cha Mẹ sinh Con là duyên sinh với chiếc bào thai đầu tiên là một tế bào trứng có 23 nhiễm sắc thể của trứng Mẹ và 23 nhiễm sắc thể trong tinh trùng của Cha, tất cả được làm bằng “đất, nước, gió, lửa” mượn từ vật chất bên ngoài rồi duyên hợp với nhau. Đất nước gió lửa cũng không có tự tính, đều do duyên hợp, là tánh Không. Về hình thức thì xem như Cha Mẹ sanh, nhưng khi phân tích cho thật kỹ thì Cha Mẹ không thể chế tạo ra thân thể người Con bao gồm cả việc tạo ra tim, gan, phổi, lá lách, ruột non, ruột già, da thịt và xương… Cha Mẹ không thể làm được những thứ này, chưa kể là đất nước gió lửa tạo ra thân xác cũng không phải là của Cha Mẹ mà chỉ tạm mượn vật chất từ bên ngoài. Chính những phân tử di truyền DNA là hiện thân của Nghiệp Lực điều khiển sự tạo tác ra tất cả mọi bộ phận và thân xác người Con, không phải Cha Mẹ làm được điều ấy.
“Trưởng thành cứ mãi phân vân
  Thân ấy có phải thật thân không là?
  Hay là một kiếp phù hoa
  Mượn vay vay trả hàng sa bụi hồng!”
            (Vua Thuận Trị - Nhà Mãn Thanh Trung Hoa). 
          Thân này là giả tạm, mượn đất nước gió lửa của thế gian làm thân để trả Nghiệp. Nghiệp Lực thông qua những phân tử di truyền DNA tạo tác ra muôn loài chúng sanh tùy theo Cộng Nghiệp và Biệt Nghiệp.
“Nghiệp ứng thân, ái ngã lớp lớp tràn
  Vạn lý trần, lang thang luân hồi lạc”.
                    (Bên Kia Bờ Giác  - Ngộ Thâm).
          Do đó không có Thượng Đế nào tạo ra thế giới hay muôn loài chúng sanh cả!
Mộng lý minh minh hữu lục thú
  Giác hậu không không vô đại thiên”.
                                     (Thiền Sư Huyền Giác).
(Trong mộng lao xao bày sáu nẻo,
 Tỉnh ra bằng bặt chẳng ba nghìn).
          Tâm mê mà sinh ra thế giới do Nghiệp Lực và Vô Minh tác động như “giấc chiêm bao”. Và trong “giấc chiêm bao” hay “Mộng” này có những sáu cõi luân hồi không phải chỉ có một cõi “dục giới” duy nhất hay vũ trụ duy nhất mà chúng sanh đang nhìn thấy, mà còn nhiều thế giới khác mà chúng sanh không thể nhìn thấy do hạn chế bởi Nghiệp Lực… Chẳng hạn như “chúng sanh người” mang Nghiệp Lực của loài người thì không thể nhìn thấy chúng sanh loài Ngạ Quỷ, A-Tu-La, hay các Cõi Trời… Tất cả những thế giới này từ hữu hình hoặc vô hình, sắc giới hoặc vô sắc giới, tưởng giới, phi tưởng giới hoặc phi phi tưởng giới… Tất cả Hoa Tạng Thế Giới này đều không phải do một Thượng Đế hay nhiều Thượng Đế ở mỗi một cõi làm ra! Tất cả đều do Tâm: “Nhất thiết duy Tâm tạo”. Khi “Giác” rồi hay tỉnh giấc mộng, tỉnh giấc chiêm bao hay khi “thức dậy” rồi thì thế giới chiêm bao không còn: ba ngàn thế giới cũng không có, mà chỉ có Niết Bàn Vô Trụ, Bát Nhã Chân Như, Thực Tướng Vô Tướng hay cái Chân Không Vi Diệu… là cái Rốt Ráo hay Chân Lý Tuyệt Đối! 
          Tuy nhiên dù sao đi nữa thì trong giấc mộng: “mở mắt chiêm bao” của chúng sanh đang mê này hay cái thế giới tương đối cõi Ta Bà này, thì sự khám phá ra Big Bang là một trí tuệ tuyệt vời của loài Người nói chung hay các Nhà Khoa Học nói riêng đã đánh đổ thuyết Sáng Tạo của một tôn giáo  từng thống trị độc quyền thế giới phương Tây hơn cả ngàn năm mà lịch sử Trung Cổ Âu Châu gọi là thời kỳ “Dark Age” ! Big Bang là sự thật tương đối về nguồn gốc Vũ Trụ mà mới đầu chỉ là lý thuyết, sau dần dần được chứng minh là sự thật, rồi con người lại thành công trong công việc tạo ra được một Big Bang trong phòng thí nghiệm ! Quả là tuyệt vời ! 
          Lý thuyết về Big Bang
          Hiệu ứng Doppler (Doppler effect) về âm thanh cũng như về ánh sáng cho biết một vật đang di chuyển hướng lại gần hay là đi ra xa. Thí dụ như có một người đứng bên lề đường tại điểm A, có nhiều xe cộ chạy nhanh và bóp kèn liên tục. Khi xe hướng gần về điểm A, người này nghe tiếng kèn xe với tần số âm thanh cao dần, tức sóng âm thanh co lại. Khi chiếc xe lướt ngang qua A và chạy đi xa ra thì âm thanh của kèn với tần số thấp dần và loãng ra, tức sóng âm thanh dãn ra. Hiệu ứng này cũng thích hợp cho ánh sáng quang phổ (spectrum). Dùng lăng kính (prism) có thể phân tích ánh sáng (trắng) của Mặt Trời ta được một quang phổ 7 màu (đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím). Ánh sáng từ các Thiên Hà đi qua một quang phổ kế (spectroscope) gồm tổ hợp kính hiển vi (microscope) và lăng kính (prism) cũng cho quang phổ tương tự. Khi quan sát quang phổ này, ngoài những màu chính còn có những vạch tối và sáng xen kẽ. Vị trí những vạch này cho biết những nguyên tố đã phát ra ánh sáng tạo thành quang phổ đó. Vị trí của những vạch  này phải cố định với mỗi nguyên tố như vậy. Vào năm 1929, Edwin Hubble khi quan sát quang phổ các Thiên Hà đã phát hiện ra rằng vị trí của những vạch thay vì cố định lại chuyển sang phía đỏ (redshift), tức sóng ánh sáng có độ dài sóng dài hơn, chứng tỏ các Thiên Hà tương ứng với những quang phổ này đang di chuyển càng ngày càng xa chúng ta, và đây là Hiệu Ứng Doppler về ánh sáng. Lý luận ngược lại, nếu các Thiên Hà càng ngày càng xa ra, thì trước đó chúng càng gần với nhau hơn, và nếu tính ngược trở lại thời gian thì tất cả chúng cùng phát xuất từ một điểm. Với sự khám phá của Hubble là vũ trụ đang mở rộng, bỏ đi cái hằng số vũ trụ mà Einstein đã sai lầm khi thêm vào để triệt tiêu sự mở rộng của vũ trụ mà sau này ông đã biết mình nhầm lẫn, các Nhà Bác Học dùng lại những phương trình toán học của hai thuyết tương đối hẹp (Special theory of Relativity) và tương đối rộng (General theory of Relativity) của Einstein đã mô tả rất chính xác vũ trụ hiện hữu ! Người đầu tiên dùng phương trình toán học của Einstein là Linh Mục người Bỉ tên là George Lemaitre. Ông tính ngược thời gian mà vũ trụ được thu nhỏ lại bằng trái cầu lớn hơn Mặt Trời 30 lần gọi là  nguyên tử đầu tiên  (primeval atom) là cái trứng vũ trụ (cosmic egg), từ đó nổ bùng và bành trướng ra thành vũ trụ như ngày nay. Tuy nhiên đây chưa phải là rốt ráo vì những phương trình toán học của Einstein còn cho các Nhà Khoa Học đi xa hơn tới cái Dị Điểm Big Bang (singular point) vô cùng nhỏ với đường kính là D=10-33 centimet, nhiệt độ 1000 tỷ độ Kelvin (1012   0K) và thời gian là 10-43 giây, cách đây 13,7 tỷ năm…Và ngày nay hầu hết các Nhà Khoa Học đều nhìn nhận Dị Điểm này là nguồn gốc vũ trụ! Xác định cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ gần bằng không (zero) là nguồn gốc vũ trụ, các Nhà Khoa Học đã đi gần tới cái cửa Vô Vi của Thiền Sư Huyền Giác tận đầu nguồn sắp huốt cái “tướng” của sự vật là cái “Hữu” để nhận ra cái “Vô”, một cặp vận động “Hữu” và “Vô” của Lão Tử để từ đó sinh ra âm dương với những hạt electrons, protons… rồi nguyên tử Hydrogen đầu tiên là Khí và từ đó trùng trùng duyên khởi mà tạo ra trời đất sơn hà đại địa. Thấy được Hữu và Vô cũng chưa rốt ráo, phải vượt lên cả Hữu Vô của Lão Tử để tới cái “Không” vi diệu : “Sắc tức thị Không”  của Chư Phật mới là rốt ráo !
          Từ Lý Thuyết cho đến Sự Kiện Khoa Học
          Những phương trình toán học phức tạp của Einstein đã giải thích chính xác nguồn gốc vũ trụ là cái Dị Điểm Big Bang với những hằng số Planck như trên. Tuy “Lý” thì đã thông suốt, rất chính xác… và dù có logic cở nào đi nữa cũng chỉ là lý thuyết suông ! Còn “Sự” thì vẫn chưa thấy cái thực tế để chứng minh vì chứng minh bằng toán học thì chưa phải là đủ. Điều này làm cho các Nhà Khoa Học bối rối. Do đó vào thập niên 1940, George Gamow suy diễn nếu có vụ nổ Big Bang thì phải có một bức xạ nền (background radiation) còn sót lại phân phối đều trong không gian làm bằng chứng ! Ông dùng vật lý nguyên lượng (quantum physics) để khảo sát những tương tác hạt nhân (nuclear interactions) xảy ra trong quả cầu lửa vừa mới nổ chưa tới một giây (second). Lúc đó Big Bang chỉ là quả cầu lửa vô cùng nóng gồm toàn những  hạt nhân của nguyên tử Hydrogen, protons, electrons, neutrons và các hạt quarks. Gamow tính được khoảng 25% các hạt protons chập lại cùng các hạt quarks khác thành  nhân của nguyên tử Helium (He) phù hợp với chất liệu của các sao thành lập khi vũ trụ mới hình thành hợp với quang phổ ánh sáng của các sao đó. Gamow kết luận : như thế quả cầu lửa Big Bang lúc ban đầu này chứa toàn là bức xạ (ánh sáng) có độ dài sóng ngắn như tia X và tia Gamma dù đã nguội đi rất nhiều qua cả chục tỷ năm, nhưng không thể thất thoát đi đâu được mà chỉ loãng ra theo sự bành trướng của vũ trụ thành một bức xạ nền là dấu tích của Big Bang để lại, nếu tìm ra được bức xạ nền này thì Big Bang là “sự thật” và nếu không tìm ra được thì Big Bang chỉ là lý thuyết suông không có giá trị ! Rất may, 20 năm sau, vào khoảng 1965, Arno Penzias và Robert Wilson ngẫu nhiên đã tìm thấy bức xạ nền  này khi làm thí nghiệm ở trung tâm khảo cứu của hãng Bell (Bell Research Laboratories). Arno và Robert khi thiết kế một ăng-ten lớn để liên lạc viễn thông với các vệ tinh đã tình cờ dò ra được một loại âm thanh vi sóng vô tuyến đều đặn ở khắp mọi hướng trên bầu trời và đây chính là bức xạ nền, và cả hai được tặng giải Nobel về khoa học năm 1978. Các Nhà Khoa Học thở phào nhẹ nhõm và Big Bang không phải chỉ là lý thuyết mà là “Sự Thật” – nguồn gốc vũ trụ hiện hữu ! Và ngày nay người ta đo được nhiệt độ chính xác của bức xạ nền này là 2,70K (Kelvin). Tuy nhiên, vũ trụ có hằng trăm tỷ thiên hà và mỗi thiên hà lại có hằng trăm tỷ sao, nghĩa là có một khối lượng vật chất vô cùng lớn cản trở trên con đường đi của bức xạ nền. Do đó bức xạ nền không thể phân bố đồng đều và trải mỏng trong khắp không gian mà phải có những nếp nhăn (ripples) không đồng đều, mặc dù  sự sai biệt rất nhỏ. Các Nhà Khoa Học lại thất vọng một lần nữa, vì nếu biết thì phải biết cho tới cùng, biết nửa vời cũng chưa phải là sự thật, rất tiếc là lúc đó trình độ kỹ thuật không gian chưa cao lắm. Nhưng rất may, tháng 4 năm 1992, vệ tinh COBE (Cosmic Background Explorer) của cơ quan NASA Hoa Kỳ đã khám phá ra được những “nếp nhăn” trong bức xạ nền. Big Bang đã thực sự là một sự kiện khoa học (fact of science), nguồn gốc của vũ trụ hiện hữu trong thế giới tương đối của cõi Ta Bà này !
           Big Bang trong phòng thí nghiệm
          Các Nhà Khoa Học lại rất hiếu kỳ, nếu có Big Bang thực sự và theo tính toán thì ở thời điểm chưa tới một giây sau vụ nổ, Big Bang là quả cầu lửa ở thể plasma chỉ toàn là bức xạ với các hạt quarks và gluons, thì tại sao không tạo ra một Big Bang trong phòng thí nghiệm để quan sát nó trong thực tại để “thực chứng” nó có phải là một loại plasma chỉ toàn là bức xạ (sóng ánh sáng) với các hạt quarks và gluons? Tại biên giới giữa Thụy Sĩ và Pháp, một Trung Tâm Nghiên Cứu Hạt Nhân Âu Châu (CERN) đã thiết lập máy gia tốc khổng lồ LHC (Large Hadron Collider) đặt sâu trong lòng đất 100 mét với 4 cỗ máy phân tích nằm trong đường hầm dài 27 kilomet, là câu trả lời cho sự thắc mắc và hiếu kỳ này! Riêng cỗ máy ALICE cao 16 mét, rộng 26 mét, nặng 10.000 tấn. Thí nghiệm này có khoảng 1000 Nhà Khoa Học và Kỹ Sư thuộc 100 viện khoa học của 30 quốc gia tham dự. Trong cỗ máy ALICE (A Large Ion Collider Experiment - Thí nghiệm va đập Ion lớn) người ta đặt những Ion chì (Pb++) di chuyển trong đường hầm dài 27 km nhờ tác động của hệ thống nam châm cực mạnh. Khi những Ion chì này đạt được tốc độ gần bằng vận tốc ánh sáng (300.000 km/s), chúng bị cưỡng bức va đập vào nhau với một động năng vô cùng lớn. Sự va chạm khủng khiếp như thế sinh ra quả cầu lửa nóng đến 10.000 tỷ độ C (Celcius) (1013  0C), gấp 1 triệu lần sức nóng trong ruột Mặt Trời, rất đậm đặc có tỷ trọng tương đương với một sao neutron. Những nguyên tử chì bị nén lại và với nhiệt độ nóng khủng khiếp do sự va chạm mạnh, nhân nguyên tử tan chảy ra, tất cả các hạt protons, neutron, neutrinos… trong nhân cũng như các hạt electrons vòng ngoài của quỹ đạo nguyên tử cùng tan chảy ra thành một thể plasma vô cùng đậm đặc với một hỗn hợp các hạt quarks và gluons. Đây là một thể plasma với các hạt cơ bản quarks và gluons giống với cái thể plasma ngay sau vụ nổ Big Bang để thành lập vũ trụ hiện hữu! Ngày 8 tháng 11 năm 2010, sau 7 tháng thí nghiệm bị thất bại, lần đầu tiên con người đã thành công tạo được Big Bang trong phòng thí nghiệm!  
          Nhưng, Big Bang là gì? - Là một trò ảo thuật của Tâm như Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Tâm Tâm Tâm, nan khả tầm; khoan thời biến pháp giới, trách giã bất dung châm”. (Tâm Tâm Tâm, khó thể tìm; tung ra thì trùm khắp pháp giới, rút lại chẳng đầy mũi kim). Nếu Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong một hạt bụi tôi thấy vô số các cõi Phật, mỗi cõi có các Đức Như Lai với hào quang quý báu” thì ta cũng có thể nói: “Trong một Dị Điểm Big Bang nhỏ hơn hạt bụi nhiều tỷ tỷ lần tôi thấy có vô số Thiên Hà với vô số các cõi nước, gồm sơn hà đại địa và vô số chúng sanh của các cõi nước đó, mỗi cõi có các Đức Như Lai với hào quang quý báu”. Vì sao? Vì Big Bang là Diệu Dụng của Tâm: “Nhất thiết duy Tâm tạo” tùy theo Nghiệp Chướng của tất cả chúng sanh và Vô Minh mà sinh ra thế giới. Và Tâm là cái Diệu Hữu là Ánh Sáng của Tánh, Tự Tánh hay Bát Nhã Chân Như mà Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ: “Không ngờ Tự Tánh hay sanh muôn pháp”. Tánh hay Tự Tánh “hay sanh muôn Pháp” qua bàn tay Diệu Dụng của Tâm. Big Bang là cái Diệu Hữu, từ Tánh, Tự Tánh, Chân Không hay là cái Không vi diệu… hiển ra cái Sắc: “Không tức thị Sắc” và Sắc là cái “Tướng” vật chất của thế gian hiện hình bằng cách ảo hóa. Tánh hay Bát Nhã là một nhà ảo thuật đại tài, nó làm ngược rồi làm xuôi cả loài Trời cũng không biết! Các Nhà Bác Học khám phá ra Big Bang, là “cái đã có sẵn”; có thể tạo được Big Bang trong phòng thí nghiệm cũng là lấy “cái đã có sẵn”, sản phẩm của Big Bang (các Ion chì Pb++) để hình dung hay quan sát lại Big Bang. Nhưng Big Bang thực sự sinh ra từ cái “Không”, cái “Bổn Lai Vô Nhất Vật”, cái “Rỗng Thênh Không Thánh”, tức là chỗ không có Vật mà tạo ra Vật. Khoa Học chỉ đi tới cái cửa “Tướng” tức là dùng “Tướng” để xem “Tướng”, không thể lấy cái “Vô Tướng” để xem xét “Tướng”; chưa tới cửa “Vô Vi” để tới cái cửa “Không” rốt ráo! Vì huốt khỏi hằng số Planck t=10-43 giây, thì các phương trình toán học của Einstein bị giới hạn, không áp dụng được. Không thể tính được Big Bang ở thời điểm t= 0 giây ở cửa “Vô Vi” và t= -1 giây ở cửa “Không”. Do đó dù khám phá được Big Bang trong phòng thí nghiệm, nhưng cũng chỉ là khám phá cái “Bóng Trăng” chưa phải là “Mặt Trăng” thật! Thiền Sư Chân Nguyên cũng chỉ cái Bóng Trăng bao gồm cả tạo hóa, càn khôn , đại địa… do Tâm ứng hiện. Nhưng khi huốt khỏi đường Tâm, đạt tới Tánh thì Bóng Trăng không còn là Bóng Trăng mà cùng với Mặt Trăng thật là Một: “Một là Tất Cả, Tấ Cả là Một”. 
“Nhất điểm hư vô thể bổn không,
  Vạn ban tạo hóa giá cơ đồng.
  Bao la thế giới càn khôn ngoại,
  Trạm tịch hàn quang sát hải trung.
  Tại Thánh bất tăng phàm mạc giảm,
  Phương viên tùy khí nhậm dung thông.
  Thủy trừng nguyệt hiện thiên giang ấn,
  Sắc ánh hoa khai đại địa hồng”.
               (Thiền Sư Chân Nguyên – đời Hậu Lê).
(Một điểm rỗng rang thể vốn không,
 Muôn điều tạo hóa ấy cơ đồng.
 Bao la thế giới ngoài trời đất,
 Lặng ánh hàn quang cõi cõi trong.
 Ở Thánh chẳng thêm phàm chẳng bớt,
 Vuông tròn tùy món mặc dung thông.
 Nghìn sông nước lắng trăng in bóng,
 Hoa nở khắp nơi rực sắc hồng).
          Bốn câu thơ đầu, Thiền Sư Chân Nguyên nói về Tâm tạo ra thế giới, càn khôn hay tạo hóa. Tâm có thể là một niệm Vô Minh, một điểm, một hạt bụi hay một Dị Điểm Big Bang trong hư không hoặc bao trùm khắp pháp giới. Tâm là chiếc gương hay ánh sáng trùm khắp mà hằng sa thế giới hiện bóng trong chiếc gương hay trong ánh sáng trùm khắp ấy. Bốn câu thơ sau, Thiền Sư Chân Nguyên nói về Tánh, Tự Tánh, Phật Tánh, Chân Như Bát Nhã hay là cái Không vi diệu… bình đẳng không tăng giảm, ở phàm cũng như ở Thánh, vuông tròn lớn nhỏ cũng đều dung thông không ngăn ngại. Đây là nhìn ở Tánh và trên cái Vô Tướng nên thấy tất cả pháp đều dung thông không ngăn ngại. Do đó thấy được: “Càn Khôn tận thị mao đầu thượng. Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung”. Hay thấy được vô lượng vật chất của hàng trăm tỷ Thiên Hà có thể chứa trong cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ! Tất cả pháp giới chỉ là cái Bóng của Tâm, hay là Bóng Trăng, là sở chiếu của Mặt Trăng thật hay là Tánh. Còn thấy Tâm trên Tướng và chấp Tướng thì Bóng Trăng vẫn là Bóng Trăng. Từ cái cửa Vô Vi huốt tận đầu nguồn Tâm đạt đến cái Vô Tướng thì Bóng Trăng không còn là Bóng Trăng, mà Bóng Trăng và Mặt Trăng thật là bất nhị. Do đó, khi “Nghìn sông nước lắng Trăng in Bóng” nghĩa là khi Tâm lắng động như gương, Tâm mà phi Tâm tức đạt tới Tánh thì Bóng Trăng này chẳng khác Mặt Trăng thật, đó là cái lẽ “tịch chiếu bất nhị” và khi đó thì: “Hoa nở khắp nơi rực sắc hồng”. Đâu đâu cũng là Tánh, là Bát Nhã Chân Như hay cái Không vi diệu. Do đó sự khám phá ra Big Bang hay tạo được Big Bang thì cái thấy của các nhà Khoa Học chỉ trên cái “Tướng” sinh diệt chưa huốt khỏi đầu sào trăm trượng mà cũng chưa đạt tới trăm trượng đầu sào. Cho nên Big Bang chỉ là cái thấy theo con mắt Nghiệp của Thế Gian còn ở trên Tướng sinh diệt, chưa phải là nguồn gốc vũ trụ mà chính cái “Không” mới là nguồn gốc vũ trụ: “Không tức thị Sắc”!
          Và đây là cái Big Bang của Thế Giới Mộng: 
Một điểm Viên Quang bỗng hóa Rồng
Âm dương mây khí nổi cuồng phong
Hư Không dậy sóng Càn Khôn xuất
Pháp Pháp tụ hình hiện núi sông
Lục đạo TÂM MÊ ngàn dặm chướng
Luân hồi ĐẠI BỆNH thế gian đồng
Mộng du chư tướng phô trò huyễn
Chợt tỉnh về nhà SẮC tức KHÔNG.
                                  (Đại Mộng - Ngộ Thâm).
          Kinh Kalacakra (Tiếng Hán là Thời Luân -The wheel of Time) mà Phật giáo Tây Tạng thường dùng để nói về vũ trụ quan cùng với Kinh A Tì Đạt Ma, nói rằng: trước khi thành hình, bất cứ một hệ thống vũ trụ nào cũng trải qua một thời kỳ trống rỗng, không có vật, nhưng có cái rất vi tế dưới dạng tiềm năng gọi là “Hạt Không Gian”.Thế giới được cấu tạo bởi 5 nguyên tố: Nguyên tố nền là Không Gian và 4 nguyên tố cơ bản là : Đất, Nước, Lửa, Khí (Tứ Đại). Khi Nghiệp lực chúng sanh chín muồi, các “Hạt Không Gian” vi tế kết tụ lại theo tiến trình: Khí, Lửa, Nước, Đất. Khi vũ trụ vật chất bắt đầu tan rã trở về Không thì tiến trình ngược lại: Đất, Nước, Lửa, Khí.
          Thật ra Đức Phật nói về vũ trụ quan này chỉ ở trên phương diện tổng quát. Ngày nay các nhà Bác Học đã tìm ra được đến 110 nguyên tố vật chất từ Hydrogen(H) nhẹ nhất với nguyên tử số là 1, đến Unununium (Uun) nặng nhất với nguyên tử số là 110. Có lẽ Đức Phật không muốn phân tích quá chi tiết một cách không cần thiết nên đã đơn giản hóa thành 4 nguyên tố rất logic, dể hiểu và nói lên được tướng mạo và tính chất của sự vật như : chất cứng cợm là Đất, chất lỏng là Nước, chất khí là Gió, và năng lượng là Lửa.
          Cái Rỗng Không mà Kinh Kalacakra gọi là Không Gian chính là Bản Thể, còn Hiện Tượng là các Hạt Không Gian hội tụ lại theo một cách nào đó (có thể như vụ nổ Big Bang chẳng hạn ?) để duyên khởi thành 4 nguyên tố : Khí, Lửa, Nước và Đất tạo thành vũ trụ vật chất sơn hà đại địa.
          Bản Thể và Hiện Tượng này cũng có thể gọi là Thể và Dụng, Tánh và Tâm, hay Chân Không và Diệu Hữu…Chân Không thì rỗng rang vô tướng mạo, còn Diệu Hữu thì có tướng vật chất, sinh sinh hóa hóa một cách vi diệu tạo ra càn khôn vũ trụ và chúng sanh muôn loài. Từ Chân Không sinh ra cái Diệu Hữu, và cái Diệu Hữu này thật đúng là Kỳ Diệu. Chẳng hạn dưới con mắt của “Hữu Tướng” của thế gian: Từ một “ Dị Điểm” vô cùng nhỏ Big Bang “trùng trùng duyên khởi” sinh ra vũ trụ với hàng trăm tỷ thiên hà. Từ những nguyên tử Hydrogen, Helium đơn giản kết hợp với nhau “trùng trùng duyên khởi” sinh ra vô lượng vật chất sơn hà đại địa. Từ một tế bào đơn giản có chứa bộ “Gene” với phân tử DNA (deoxyribonucleic acids) “trùng trùng duyên khởi” sinh sản ra con người hay vô số chúng sanh đủ loại : “ Một là tất cả, Tất cả là Một ”.
           Chân Không thì thể là “Không”, vô tướng mạo, bất động, không sinh diệt, không thăng giảm…cũng chính là Niết Bàn, là Như Lai, là Bát Nhã, là Pháp Thân…Diệu Hữu thì thể là “Có”, có sự vật hiện hữu, có tướng mạo,có tác động, có sinh diệt, có thăng giảm lớn nhỏ, duyên khởi sinh sinh hóa hóa ra vạn pháp muôn loài và Càn Khôn vũ trụ.
          Trong luận Đại Trí Độ, Tổ Long Thọ có nói : “ Thành Niết Bàn có 3 cửa: cửa Vô, cửa Vô Tướng, cửa Vô Tác”. Thành Niết Bàn cũng chính là Bát Nhã, là Chân Không, là Bản Thể hay Thực Tướng. Ở đây Tổ Long Thọ nói về mặt THỂ. Còn về mặt DỤNG, ta có thể kết hợp luận giải của Tổ với quan điểm khoa học để phân tích phần hiện tượng và cho rằng Diệu Hữu sinh ra vũ trụ vật chất có 3 cửa ngược lại là: Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác. Từ ( Chân Không: Vô, Vô Tướng, Vô Tác) ứng cơ sinh ra cái (Diệu Hữu: Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác) từ cái Tự Tánh nầy lại  “Hay sanh muôn Pháp”, giống như hai cánh tay Phải và cánh tay Trái của Một Thân duy nhất.
           Đứng trên quan điểm khoa học kết hợp với Phật học để phân tích phần Diệu Hữu tạo ra thế giới Hữu Vi từ nguyên tử cho đến vũ trụ. Từ lý thuyết Big Bang của Khoa Học kết hợp với lý Duyên Khởi của Nhà Phật, ta có thể nói: Thoạt tiên từ Chân Không, do Vô Minh hay Nghiệp Thức khởi động  mở cánh cửa “HỮU TÁC” làm cho các hạt năng lượng vi tế mà Kinh Kalacakra gọi là Hạt Không Gian bị dấy động  kết tụ lại thành các Hạt Cơ Bản mà các nhà Bác Học gọi là quarks. Bắt đầu là thời điểm t=10-43 giây từ Chân Không hay Hư Không chợt xuất hiện cái Dị Điểm Big Bang vô cùng nhỏ chứa một năng lượng vô cùng lớn đậm đặc với vô lượng các bức xạ sóng hạt không gian vi tế di động. Ở thời điểm t=10-35 giây vô lượng các hạt không gian vi tế va chạm mạnh vào nhau kết hợp thành các loại hạt cơ bản quarks và gluons. Ngay thời điểm này, Big Bang là một khối plasma dãn nở cực nhanh với hệ số mũ là 1050 là một hỗn hợp bức xạ sóng ánh sáng, các hạt quarks và gluons. Từ thời điểm t=10-33 giây các protons, neutrons…bắt đầu được thành lập do sự va chạm của các loại hạt quarks. Ba hạt quarks khác loại  (2downs+1up) hợp thành 1 hạt electron (âm điện tử), ba hạt quarks khác (2ups+1down) hợp thành 1 hạt proton (dương điện tử); là hai loại hạt quan trọng (tức là âm và dương được thành lập) tạo thành nguyên tử vật chất. Ngoài ra còn hàng trăm hạt vi tế khác vô cùng nhỏ hiện diện trong nhân nguyên tử như: Neutrino, Meson, Pion, Kaon, Hadron, Eta, Cascaden, Omega…Khoảng 4 giây đầu tiên sau vụ nổ Big Bang thì cái cấu trúc cơ bản của vật chất được thành lập trong Vũ Trụ. Sau đó một hạt proton mang điện tích dương(+) kết hợp với một số hạt vi tế khác thành lập một nhân cứng ; nhân cứng này kết hợp với một hạt electron mang điện tích âm(-) quay chung quanh nhân tạo thành nguyên tử vật chất đầu tiên là Hydrogen(H) có số nguyên tử là 1. Tương tự, một nhân khác chứa 2 protons kết với 2 electrons quay chung quanh nhân tạo thành nguyên tử thứ 2 Helium(He) có số nguyên tử là 2. Ở khoảng 30 phút sau Big Bang, phản ứng nguyên tử (nuclear reaction) dừng lại, Vũ Trụ đã có 75% khối lượng khí Hydrogen và 25% là khối lượng khí Helium. Một nguyên tử xem như rỗng không, có nhân là gốc chiếm hầu như toàn bộ khối lượng của nguyên tử, nhưng lại rất nhỏ chỉ bằng 1/100.000 toàn thể nguyên tử và tỉ trọng thì cực lớn. Vật chất đầu tiên Hydrogen và Helium này ở thể KHÍ thành hàng trăm tỷ đám mây KHÍ (Nebulae) khổng lồ bành trướng và di chuyển trong Hư Không thành vô số các Vì Sao. Các phản ứng nhiệt hạch (Thermonuclear Reaction ) trong lòng các Vì Sao thành lập các nguyên tử nặng hơn như: Đồng (Cu), Chì (Pb), Sắt( Fe), Kẽm ( Zn), Uranium (U),… cho đến Unununium (Uun) với nguyên tử số là 110. Từ thể KHÍ, thể LỬA, nguội dần thành thể LỎNG rồi thể ĐẶC thành đất đá sơn hà đại địa, vô số Hành Tinh -- một vũ trụ thành hình.
           Từ nguyên tử cho đến vũ trụ, tất cả đều “TÁC” mà hiện hữuNgoại Đạo Bà La Môn cũng có nói đến điều này: “Điệu vũ của Thần Shiva tạo ra thế giới”. Nghĩa là từ nguyên tử cho đến vũ trụ tất cả đang “nhảy múa” quay tròn (luân vũ) đồng bộ và đồng hành với nhau trong khi cả vũ trụ di chuyển bành trướng rộng ra trong Hư Không vô biên với vận tốc cao. Các hạt Không Gian  TÁC: kết tụ lại thành 12 loại  hạt cơ bản chính yếu tạo nên nguyên tử là 6 hạt quarks (up, down, strang, charm, bottom, top ) và các đối hạt của quarks, 6 hạt leptons và các đối hạt của leptons. Ngoài 12 hạt cơ bản và các đối hạt, là chất liệu cơ bản của nguyên tử vật chất còn có 6 hạt bosons làm trung gian (photon, gluon, W+, W-, Z0 và graviton). Sáu hạt bosons này lại TÁC trên tất cả các hạt khác tạo ra 4 lực tương tác: tương tác trọng trường, tương tác yếutương tác mạnh và tương tác điện từ. Chẳng hạn như lực tương tác mạnh chỉ xảy ra trong nhân nguyên tử với các hạt glutons ( cũng gọi là gluons) dán chặt các hạt quarks với nhau, cột chắc các hạt protons (dương điện tử) không cho những hạt này đẩy nhau ra xa, làm cho nhân nguyên tử vô cùng cứng chắc. Nhân nguyên tử cứng đến nỗi phải dùng những hạt Trung Hòa Tử ( Neutrons) nặng hơn bắn mạnh vào với một động năng rất lớn làm bể Hạt Nhân và khi đó lại phóng thích một năng lượng lớn khủng khiếp với công thức của nhà Bác Học Albert Einstein: E= mc2  E= m nhân với c bình phương) dùng để chế tạo Bom hạt nhân (cũng gọi là Bom nguyên tử), hay dùng để chế tạo Điện hạt nhân hay Điện nguyên tử…với nguyên tử Uranium ( thật đúng là Diệu Hữu !).
          Còn lực tương tác điện từ lại là một điều lạ lùng do chính các hạt quang tử “photon” ánh sáng phi khối lượng TÁC với các hạt khác, làm cho vật chất có tính cứng chắc, giống như liên tục, liền lạc hay đậm đặc. Vật chất thì trống rỗng chỉ là mạng lưới các hạt electrons và nhân nguyên tử vô cùng nhỏ xem như rỗng suốt cấu kết với nhau, nếu không có lực tương tác điện từ thì chúng ta có thể đi xuyên qua bức tường hoặc đi xuyên vào thân của nhau, không thể xây dựng được cầu đường, nhà cửa vì vật chất có thể đi xuyên vào nhau và bị “chìm” vào ruột Quả Đất. Có lực tương tác điện từ này làm cho vật chất cứng chắc và liên tục, không thể xuyên vào nhau được, đây có thể là đặc tính riêng biệt của cõi Ta Bà tùy theo nghiệp lực, khác với các cõi Thiên hoặc A Tu La ? Nhưng điều lạ là lực tương tác này lại do  chính ánh sáng (hạt photon) làm ra. Một lý do khác khiến cho vật chất trở nên cứng chắc là do các hạt electrons quay chung quanh nhân ở quỹ đạo càng thấp, gần nhân hơn thì chúng quay càng nhanh với vận tốc ước độ 900 km/giây. Với vận tốc lớn như vậy, mặc dù là rỗng không, nguyên tử có mặt như một hình cầu cứng rắn, không thể bóp nhỏ lại được. Nếu nguyên tử có thể bóp nhỏ lại được hoặc làm lớn ra trong cái rỗng không này, thì con người có thể rút lại bằng hạt bụi hoặc “thần thông biến hóa” ra bằng quả núi. Đây cũng có thể là một “Nghiệp Lực” của cõi Ta Bà khác với các cõi khác? 
          Các hạt electrons mang điện tích âm(-) lại TÁC với nhân cứng chứa protons mang điện tích dương(+) bởi lực hút  Âm - Dương gọi là Độ Âm Điện, lực hút Âm - Dương này cân bằng với lực gia tốc khi electrons quay tròn chung quanh nhân với tốc độ cao đến  900 km/giây trong một quỹ đạo nhất định sinh ra các nguyên tử vật chất Hydrogen và Helium đầu tiên. Nhân nguyên tử tuy rất nhỏ so với toàn bộ nguyên tử (tỉ lệ = 1/100.000) nhưng rất đậm đặc có tỉ trọng  rất lớn chứa hàng trăm hạt vi tế. Các hạt vi tế này cũng TÁC với nhau tạo nên một nhân bền vô cùng cứng chắc, làm căn bản cho vật chất. Các hạt quan trọng trong nhân cứng này là protons và neutrons cũng TÁC: chúng di chuyển “nhảy múa”với vận tốc khoảng 60.000km/giây. Rồi 3 nguyên tử Helium TÁC với nhau kết hợp thành Carbon ( C ), 4 nguyên tử Helium TÁC với nhau kết hợp thành Oxygen( O ) ….cho đến Unununium (Uun)  là 110 nguyên tử vật chất. Các nguyên tử này cũng TÁC với nhau sinh ra những phân tử vật chất  (molecules) từ đơn giản như phân tử nước (H2O), phân tử Tartaric (H2C4H4O6), đến phức tạp như phân tử Phytoplanktan với 108 gốc Carbon (C) nối tiếp nhau  (C108H266N16O109P) và vô cùng phức tạp như các đại phân tử DNA (deoxyribonucleic acids ) với chuỗi dài hàng chục ngàn phân tử Amino Acids nối tiếp nhau với gốc Carbon (C) thành các nhiễm sắc thể  (chromosomes) của các Bộ Gene người, Gene thực vật, Gene động vật thành ra đủ các loài chúng sanh động vật thực vật cây cỏ. Các phản ứng hóa học (chemical reactions) sinh ra các phức hợp phân tử thành ra đủ các hình tượng vật chất sinh ra vỏ trái đất và các Hành Tinh tràn ngập trong Hư Không. 
          Các Hành Tinh trong vũ trụ cũng TÁC với nhau mà hiện hữu. Các Hành Tinh đang “nhảy múa”  quay tròn (luân vũ) và kết chặt với nhau như các nguyên tử “nhảy múa”. Chẳng hạn Mặt Trăng và Trái Đất TÁC với nhau với lực hút F=Km1m2/dvà Mặt Trăng (luân vũ) quay tròn quanh Trái Đất một vòng là 30 ngày. Trái Đất cùng TÁC với Mặt Trời với lực hút F, tự quay tròn một vòng là 24 giờ và quay tròn quanh Mặt Trời theo quỹ đạo một vòng là 365 ngày. Mặt Trời cùng  TÁC với thiên hà ( galaxy) và quay chung quanh tâm thiên hà một vòng là 250 triệu năm. Thiên hà chứa hàng trăm tỷ Hệ Mặt Trời cũng TÁC: vừa tự quay tròn vừa di chuyển trong Hư Không với một vận tốc rất lớn, có thiên hà di chuyển gần bằng vận tốc ánh sáng. Vũ trụ chứa hàng trăm tỷ thiên hà cũng TÁC: đang bành trướng rất nhanh và rộng lớn vô cùng trong Hư Không.
          Tóm lại, từ cái cửa “HỮU TÁC” do Vô Minh hay Nghiệp Thức khởi động mà sinh ra nguyên tử vật chất đầu tiên là Hydrogen rồi trùng trùng duyên khởi để đi qua cái cửa “HỮU TƯỚNG” thành lập sơn hà đại địa đủ thứ hình tướng sum la vạn tượng và một vũ trụ hình thành qua cái cửa “HỮU” hiện bày nơi Hư Không. Ba cái cửa này tuy 3 mà là 1 và tuy 1 lại là 3: Vì có TÁC thì sinh ra cái HỮU và phải có cái TƯỚNG của HỮU; có TƯỚNG thì phải có cái HỮU của TƯỚNG và phải có cái TÁC làm ra HỮU; cũng vậy, có HỮU thì phải có cái TƯỚNG HỮU và cái TÁC HỮU. Thế Giới Hữu Vi từ hạt bụi, hạt nguyên tử cho tới Vũ Trụ đều phải có 3 cái cửa TÁC, HỮU và TƯỚNG. Thí dụ như “CÓ” Viên Gạch tức là HỮU thì phải có cái “TƯỚNG” của HỮU tức là cái Tướng Gạch và trong Viên Gạch phải có cái “TÁC” và cái TÁC này luôn luôn vận động không ngừng trong Viên Gạch để Viên Gạch HIỆN HỮU hay tồn tại. Nếu không có TÁC thì Viên Gạch không HIỆN HỮU. Viên Gạch tuy đang nằm yên bất động nhưng thực sự bên trong là đang TÁC với một “Ban Đại Hợp Xướng” đầy đủ các thành phần tham dự gồm nhiều loại nguyên tử (kinds of atom) cấu kết thành các phân tử (molucles), rồi phức hợp phân tử (complex molucles) trong đó vô số các hạt vi tế đang nhảy múa lăng xăng “Tác Động” lẫn nhau, vô số các hạt electrons (âm điện tử) đang “TÁC” tức là đang hòa tấu khúc nhạc “Luân Vũ” quay tròn chung quanh nhân của mỗi loại nguyên tử, đồng bộ đồng nhịp đồng hành ăn khớp với nhau thành “Bản Nhạc Đại Hòa Tấu”. Toàn “Ban Nhạc” đang nhảy múa lăng xăng điên cuồng làm nên sự “Có Mặt” hay “Hiện Hữu” của Viên Gạch. Ba cái cửa TÁC, HỮU và TƯỚNG này là thế giới Mê do Vô Minh hay Nhiệp Lực tác động  giống như Biển động (TÁC) nổi lên ngàn Sóng (HỮU), với cái hình thù của Sóng (TƯỚNG). Còn thế giới Ngộ tức là Niết Bàn hay Bát Nhã thì có ba cửa ngược lại là VÔ TÁC, VÔ, và VÔ TƯỚNG ví như Sóng lặng (VÔ TÁC) trở về Nước (VÔ) và cái Tướng Sóng mất đi (VÔ TƯỚNG). Do đó Niết Bàn có ba cửa VÔ TÁC, VÔ và VÔ TƯỚNG, ba cũng là một và một cũng là ba: Một cửa “VÔ” thì cũng bao hàm luôn cửa VÔ TÁC và VÔ TƯỚNG, một cửa “VÔ TƯỚNG” bao hàm luôn cửa VÔ và VÔ TÁC hay một cửa “VÔ TÁC” bao hàm cả cửa VÔ và VÔ TƯỚNG. 
          Rốt ráo lại, “HỮU TÁC” là cái nhân đầu tiên do Vô Minh hay Nghiệp Thức khởi động sinh ra cái quả là HỮU và cái TƯỚNG của HỮU. TÁC cũng là cái Nhân Luân Hồi nên có cái Tướng Luân Hồi quay tròn như cái “Vũ Điệu” của Thần Shiva. Cái vũ điệu quay tròn (luân vũ) này thật là lạ lùng: từ Nguyên Tử với các hạt electrons cho tới các Vệ Tinh (moons) rồi Hành Tinh (planets) và các Hệ Mặt Trời (solar systems), các Thiên Hà (galaxies), các Thiên Tòa (clusters) rồi Đại Thiên Tòa (super clusters) cho đến cả Vũ Trụ (universe) đều đồng hành ( di chuyển với vận tốc rất lớn trong Hư Không), đồng bộ (cùng quay tròn). Tất cả đang nhảy múa lăng xăng, quay tròn. Tất cả đều luân vũ hay đây chính là dấu hiệu của Cõi Luân Hồi hay cái Vòng Luân Hồi của từng loài chúng sanh và cả cái vũ trụ vô thường: “Thành, Trụ, Hoại, Không” này? Hay đây là một cái Tâm Mê khổng lồ đang dấy động  “ngao du” giữa Hư  Không? Hay là vũ trụ này chỉ hiện ra trong cái Tâm Mê của tất cả chúng sanh có cùng một “Cộng Nghiệp” để nhìn thấy nó? Nó có thật hay là giả?
          Dù thật hay là giả thì từ chúng sanh cho đến vũ trụ với tất cả hành tinh đều không thoát khỏi “Luật Vô Thường” : Sinh, Trụ, Dị, Diệt hay Thành, Trụ, Hoại, Không. Từ cái “Thành” với một Dị Điểm vô cùng nhỏ trong vụ nổ Big Bang sinh ra hàng trăm tỷ đám mây khí Hydrogen rồi vô số các Ngôi Sao hay hành tinh sinh ra trong những đám mây này. Rồi tới cái “Trụ”: các Ngôi Sao sống được một thời gian dài nhiều tỷ năm; đến cái “Hoại”: các Sao hoại trong một tiểu kỳ hay đến một đại kỳ chung cuộc, vật chất biến thoái cùng cả vũ trụ sụp đổ đồng loạt trở về cái “Không”: Big Crunch. Từ Big Bang đến Big Crunch là một vòng luân hồi của vũ trụ: Thành, Trụ, Hoại, Không. Tới đây theo suy luận của các nhà Bác Học không gian, biết đâu lại có một hay nhiều Big Bang mới xuất hiện để cho ra một hay nhiều vũ trụ mới. Đây có thể là tiếp tục một vòng “Đại Luân Hồi” theo cái  “Đại Nghiệp Quả” của tất cả chúng sanh sống trong vũ trụ trước. Điều này cũng do Tâm chúng sanh trong toàn thể vũ trụ trước tạo ra: một Đại Tâm Mê  với một Đại Nghiệp Mộng hay Đại Cộng Nghiệp là Nhân để thành Quả là do nhân duyên đủ để hình thành một vũ trụ mới là Y Báo với loài chúng sanh mới hiện hữu là Chánh Báo. Trong Kinh Kalacakra Đức Phật có nói khi Nghiệp Lực chúng sanh chín muồi thì các Hạt Không Gian vi tế hội tụ lại thành Khí Lửa Nước và Đất (Tứ Đại) để thành lập vũ trụ.
          Cái Sinh của một Ngôi Sao:
         Một hành tinh hay một Ngôi Sao như Mặt Trời trong Thái Dương Hệ có sinh có tử trong cái vòng luân hồi này. Chẳng hạn như “Cái Sinh” của một Ngôi Sao như Mặt Trời hay hàng trăm tỷ Sao đồng loạt hay lần lượt cái này trước cái kia sau trong một Thiên Hà (galaxy). Từ cái “Thành” sau vụ nổ Big Bang, bành trướng ra hàng trăm tỷ đám mây khí gọi là Nebulae được xem như cái “Buồng Trứng” khổng lồ chứa bụi và khí Hydrogen. Sức hút trọng trường của vật chất (gravity) kéo số lượng khí và bụi khổng lồ  này gần với nhau, đậm đặc dần và bắt đầu chuyển động quay tròn thành một hay nhiều lốc xoáy. Ở tâm mỗi lốc xoáy vật chất ( khí Hydrogen và bụi) càng kéo về đậm đặc và áp suất tăng dần. Những nguyên tử Hydrogen đụng nhau liên tục làm tăng nhiệt độ. Ở trung tâm có thể lên tới 15.000.000 độ C(Celcius) hay 27.000.000 độ F và thành lập một cái lõi Sao hay cái ruột Sao (core of star). Cái lõi Sao mới sinh ra và khi nhiệt độ và áp suất lõi Sao cần và đủ, phản ứng nhiệt hạch xảy ra trong nhân các nguyên tử Hydrogen để biến thành nguyên tử Helium và phóng thích một năng lượng khổng lồ, Ngôi Sao bùng cháy và phát sáng: một Mặt Trời hay một Ngôi Sao vừa mới sinh ra (newborn star). Nhịp tim của Mặt Trời mới sinh bắt đầu đập liên hồi: tức phản ứng nhiệt hạch trong ruột Sao hoạt động liên tục đốt cháy khí Hydrogen biến thành khí Helium và Mặt Trời bắt đầu thở: với tiếng sôi sục như pháo nổ (solar fireworks) của các tia lửa khí ( fiery jets of gas) thành các gai nhọn (spicules) nhảy lên cao tới 9.000 cây số, những hào quang (Corona) trải rộng ra cả triệu cây số tỏa ra không gian, những cánh tay lửa (Prominences) dài tới 400.000 cây số và hơn hết thảy là cái ánh sáng nhiệm mầu tỏa khắp không gian, là cái nguồn sống cho tất cả chúng sanh từ thực vật, động vật cho đến con người trên quả Địa Cầu. Như vậy cái Sống, cái Sinh Ra của một Mặt Trời có liên quan tới cái Sống của tất cả chúng sinh trên quả Địa Cầu, tức là cùng tương duyên tương tức với nhau hay cùng một Nghiệp Quả. Hay có thể nói ngược chính vì có cái Sống cái Sinh ra của chúng sanh trên quả Địa Cầu mà Mặt Trời phải có cái Sinh và cái Sống xuất hiện trước để (trải thảm đỏ) lót đường chuẩn bị tiếp đón chúng sanh cùng Nghiệp Quả đến sau !?
          Cái Tử của một Ngôi Sao:
         Còn “Cái Chết” hay “Cái Tử” của một Ngôi Sao hay một Mặt Trời thì có nhà Bác Học người Ấn Độ Subrahmanyan Chandrasekhar nhận giải Nobel về vật lý năm 1983 khám phá ra. Một Ngôi Sao có hai cách chết: cách chết hiền lành, âm thầm, nhẹ nhàng và cách chết hung bạo, dữ dội, ác hiểm. Những Ngôi Sao nào nhỏ hơn 1,44 lần Mặt Trời thì có tuổi thọ lâu hơn và chết nhẹ nhàng. Chẳng hạn như cái chết của Mặt Trời trong Thái Dương Hệ là cái chết nhẹ nhàng, tự tại. Mặt Trời đang sống và thở ra cái ánh sáng nhiệm mầu giúp cho sự sống của muôn loài  trên Địa Cầu là do phản ứng nhiệt hạch (thermonuclear reaction) xảy ra trong ruột (core) biến đổi nguyên tử khí Hydrogen thành nguyên tử khí Helium phóng thích một năng lượng hạch tâm rất lớn làm cho Mặt Trời phát ra ánh sáng. Còn 5 tỷ năm nữa cái “nhiên liệu” khí Hydrogen này sẽ cạn đi và khi đó phản ứng nhiệt hạch dừng lại, Mặt Trời không còn phát ra ánh sáng mạnh như trước mà lu mờ dần. Kế đó Mặt Trời sẽ tự giãn nở rộng phình ra như chiếc bong bóng thành Anh  Khổng Lồ Đỏ ( Red Giant), hành tinh ở gần Mặt Trời như Thủy Tinh (Mercury) sẽ bị nóng chảy, nhiệt độ Địa Cầu có thể tăng lên vài trăm độ C, tất cả sự sống ở Địa Cầu đều hủy diệt theo cái chết của Mặt Trời. Sau đó lớp ngoài giãn nở tới mức độ tự tan vỡ và trôi đi ngoài không gian thành đám mây khí (một loại Nebulae), Mặt Trời chỉ còn lại cái Lõi nhỏ bên trong và biến thành một Ngôi Sao nhỏ, gọi là Chú Lùn Trắng (White Dwarf) sức nóng đủ để vừa phát sáng, rồi từ từ nguội dần và ánh sáng này tắt hẳn, trở thành Chú Lùn Đen (Black Dwarf). Ở giai đoạn này xem như Mặt Trời chết hẳn: Black Dwarf chỉ là một Ngôi Sao chết.
          Đối với những Ngôi Sao lớn hơn 1,44 lần Mặt Trời thì có tuổi thọ ngắn hơn và có một Cái Chết dữ dội và thật hung bạo. Khi hết “nhiên liệu” Hydrogen, phản ứng nhiệt hạch trong ruột SAO ngưng lại, Sao lu mờ dần nhưng lại bành trướng thể tích, giãn nở lớn ra như chiếc bong bóng đang phình trương ra thành Anh Khổng Lồ Đỏ (Red Giant). Như là có sức “thần thông” vô hạn SAO tiếp tục phình “Bụng” thi tài biến hóa to thêm, to thêm mãi thành Anh Siêu Sao Khổng Lồ Đỏ (Red Supergiant). Như là một vị Thần nóng nảy và hung dữ dùng hết sức thần thông để phình “Bụng” ra, trong ruột (core) nhiệt độ lên tới 170.000.000 độ C (306.000.000° F), không may sức “thần thông” có giới hạn SAO nổ tung tan xác và phát ra ánh sáng khủng khiếp gấp cả 100.000 sao Nova gọi là Supernova. Nếu sao có khối lượng lớn hơn 10 lần Mặt Trời thì sức sáng khi nổ tung chỉ mạnh gấp 600 triệu lần Mặt Trời, nếu sao chỉ lớn hơn Mặt Trời 5 lần thì sức sáng khi nổ tung vô cùng mãnh liệt mạnh tới 4 tỉ lần sức chiếu sáng của Mặt Trời. Nếu phần ruột (core) còn lại lớn nó sẽ tự sụp đổ trở thành Hố Đen (Black Hole) đầy bí ẩn và hiểm hóc, không cho cả ánh sáng đi qua, cuốn hút “nuốt sống” rồi “tiêu hóa” tất cả vật chất vào bên trong: “Sắc tức thị Không” . Nếu phần ruột nhỏ thì SAO sụp đổ thành một SAO tí hon đường kính chỉ có khoảng 30 cây số, nhưng rất đậm đặc, các hạt electrons và protons bị nén lại thành neutrons, tỉ trọng vô cùng lớn, gọi là Sao Neutron. Vật chất có kích thước nhỏ 1 centimet khối cân nặng đến 10 triệu tấn, bề mặt Sao Neutron được bao bọc bởi những nguyên tố Sắt (Iron) cứng gấp 10.000 lần Sắt ở Địa Cầu. Đó là cái “hóa kiếp”, cũng là “Cái Tử” của những Siêu Sao lớn hơn Mặt Trời.
          Như vậy việc sinh tử không phải chỉ có ở thực vật, cây cỏ, muông thú và con người mà ngay cả vũ trụ bao la với vô số các vì sao lớn nhỏ như cát sông Hằng đều phải chịu chung những vòng luân hồi hay Nghiệp Báo. Chúng sanh và vũ trụ có liên quan mật thiết trong Nghiệp nên có sự tương giao. Thật ra cái thân Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) của tất cả chúng sanh bao gồm con người, thực vật và muông thú với cái thân Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) của cả vũ trụ vật chất với vô số các hành tinh, ngôi sao, Mặt Trời, Mặt trăng, đất đá, núi sông…đều giống nhau và có cùng một gốc : cái gốc ban đầu trong cõi Mê là cái hạt Bụi, thậm chí còn nhỏ hơn hạt Bụi nhiều tỷ tỷ lần là cái “Dị Điểm” Big Bang. Kinh Hoa Nghiêm đã từng  nói : “Trong một hạt Bụi tôi thấy vô số các cõi Phật, mỗi cõi đều có các Đức Như Lai với hào quang quý báu”. Đây cũng là một niệm Vô Minh sinh ra thế giới Mê và dù là Sinh hay Tử hay là bất cứ ở giai đoạn nào trong cái vòng Luân Hồi: “Sinh, Trụ, Dị, Diệt” hay “Thành, Trụ, Hoại, Không”. Từ cái “Thành” bắt đầu với cái “Dị Điểm” Big Bang TÁC ĐỘNG trùng trùng duyên khởi sinh ra vũ trụ thế giới và chúng sanh. Rồi đến cái “Trụ” cũng TÁC ĐỘNG trùng trùng biến hóa ra muôn màu, muôn sắc, muôn vẻ trong cuộc sống hay trong cái HỮU. Cái “Hoại” cũng TÁC ĐỘNG duyên khởi  theo chiều hướng suy thoái để trở về cái Không. Cái Không theo đường Mê của thế giới Mê là “Ngoan Không” để tiếp tục luân hồi trở lại cái Có hay cái Hữu; còn cái Không theo đường Giác mới chính là cái “Chân Không”  là cái Gốc thật sự cắt đứt vòng luân hồi đi đến Giải Thoát và khi đó không còn phải TÁC nữa. 
          Rõ ràng là có TÁC thì mới (có nguyên tử, có vật chất và có vũ trụ) tức có cái Hữu, và khi đó có cái Tướng (của nguyên tử, của vật chất và của vũ trụ).  Còn VÔ TÁC thì trở về  bản thể của Vô (không có nguyên tử, không có vật chất, không có vũ trụ) và Vô Tướng tức không có cái Tướng (của nguyên tử, của vật chất và của vũ trụ). Tuy vũ trụ bành trướng rộng lớn khủng khiếp như vậy nhưng chẳng thấm vào đâu, chỉ là một cụm mây trắng nhỏ nhoi so với cái Hư Không Rỗng Rang-Emptiness dài vô tận. Thiền Sư Thạch Đầu đã từng  nói: Hư Không dài mặc tình mây trắng bay. Thiền Sư Tuyết Phong cũng nói:  “Khi thế giới dài một thước thì gương xưa dài một thước, khi thế giới rộng một trượng thì gương xưa rộng một trượng. Vũ trụ vật chất gồm  hàng trăm tỷ Thiên Hà to lớn khủng khiếp như vậy, nhưng lại sinh ra từ một hạt bụi vô cùng nhỏ cách đây 15 tỷ năm. Thật đúng là Diệu Hữu! Các nhà Bác Học của thế gian không thể nào hiểu nổi lý lẽ này với những thông số khủng khiếp và ngược đời mà họ đã tìm ra: khối lượng riêng của hạt bụi Big Bang là d= 1094g/cm3. Nghĩa là cả vũ trụ vật chất vô cùng lớn làm sao có thể nén lại trong 1 điểm vô cùng nhỏ với đường kính chỉ có D=10-33cm. Các nhà Bác Học lại điên đảo với sự khám phá này, nhưng đối với Thiền Sư thì lại thông suốt nó, xem như chuyện bình thường:  
 “Càn Khôn tận thị mao đầu thượng
   Nhật Nguyệt bao hàm giới tử trung”. 
 (Cả Càn Khôn vũ trụ nhét vào đầu sợi lông,
  cả Mặt Trời, Mặt Trăng nhét vào hạt cải,
  mà tất cả vẫn dung thông,  vô ngại).   
            Trong khi đi ngược dòng thời gian phăng về cái gốc để tìm hiểu căn nguyên của vũ trụ là gì, các nhà Bác Học không gian đã khám phá ra cái “Dị Điểm” Big Bang vô cùng nhỏ nổ ra cách đây 15 tỷ năm ở thời điểm Planck T= 10-43 giây và khi đó họ đã đụng tới Bức Tường Mẹ Rỗng Rang-Emptiness cũng là cái “Rỗng Thênh Không Thánh” mà Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma khai thị cho Vua Lương Võ Đế: là cái cửa Vô, cửa Vô Vi, cửa Không…cái Chân Không (Vô, Vô Tướng, Vô Tác), là mẹ đẻ của cái “Dị Điểm” Big Bang sinh ra vũ trụ, nhưng lại bị bỏ qua. Thời điểm T0 = 0 giây là chỗ huốt, chỗ giao điểm giữa cái “Dị Điểm” Big Bang và cái Rỗng Rang-Emptiness, giữa Có và Không, giữa Sắc và Không, Hữu Vi và Vô Vi, Chân Không và Diệu Hữu. Ở cái thời điểm T0 = 0 này, các phương trình toán học của thế gian không áp dụng được, các dụng cụ quan sát khoa học không nhìn thấy được, nghĩa là không thể nhìn bằng con mắt “Hữu” bị giới hạn theo Nghiệp Thức thế gian. Còn trước thời điểm T0 = 0 tức T-1= -1 giây (hay trước T0  một sát na) thì hoàn toàn là cái Rỗng Rang-Emptiness, không có một vật để thấy, không có gì để quan sát hay nghiên cứu cho nên các nhà Bác Học phải bỏ qua. Ở thời điểm T0 = 0 và trước đó, phải dùng con mắt “Vô”, con mắt “Bát Nhã”, nhìn bằng “Tâm” chứ không nhìn bằng “Vật” hay dụng cụ khoa học, và phải đi huốt đường Tâm như Bồ Đề Đạt Ma đã chỉ: “Trực chỉ nhân Tâm kiến Tánh thành Phật”. Cái “Dị Điểm” Big Bang nhỏ hơn hạt “Bụi” nhiều tỷ tỷ lần, vậy mà lại sinh ra cái vũ trụ “động”: (Hữu, Hữu Tướng, Hữu Tác) vô cùng lớn, với vô lượng vật chất, vô lượng Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hành tinh, thật là Diệu Hữu, không ngờ lại do cái Chân Không,( Vô, Vô Tướng, Vô Tác) hay cái Rỗng Rang – Emptiness làm ra! Cái Chân Không, cái Rỗng Rang – Emptiness hay cái Rỗng Thênh Không Thánh này cũng là Bát Nhã, là Niết Bàn, là Như Lai hay Tự Tánh…là cái mục tiêu tối thượng của Chư Phật và Thiền Sư nhắm tới: là cái chứng Ngộ của Chư Phật và Thiền Sư. Trong khi đó thế gian Mê trong sáu cõi luân hồi thì không biết, không cần phải để ý tới, ngay chính các Nhà Tri Thức tuyệt vời, các nhà Bác Học đại tài hay các Tôn Giáo Thần Quyền nổi tiếng của thế gian cũng bỏ đi. Một câu chuyện ngụ ngôn trong Kinh A Hàm, Đức Phật kể chuyện giữa con Rùa và con Cá:
Con Cá hỏi con Rùa:
Chào anh Rùa. Anh đi đâu mà lâu quá chúng tôi không gặp?
Tôi đi du lịch trên Đất Khô.
Con Cá ngạc nhiên hỏi:
Ủa. Sao lạ vậy? Có Đất Khô hay sao?
Con Cá thắc mắc hỏi tiếp:
Đất Khô có ướt không?
KhôngĐất Khô không ướt.
Đất Khô có trong suốt để ánh sáng Mặt Trời xuyên qua không?
- Không. Đất Khô không trong suốt và ánh sáng Mặt Trời cũng
   không  xuyên qua được.
Vậy chớ Đất Khô có dẻo để tôi có thể lội trong đó dễ dàng không?
- Không. Đất Khô không dẻo và anh cũng không có thể lội trong đó.
- Vậy chớ Đất Khô có chảy thành thác hay suối không?
- Không .Đất Khô không có thể chảy thành thác hay suối được.
- Đất Khô có thể nổi lên thành sóng bạc đầu không?
 - Không. Đất Khô cũng không có thể nổi lên thành sóng .
Nói đến đây, con Cá tỏ ra thất vọng và hằn học với con Rùa: 
Thôi anh Rùa à, đừng có lừa chúng tôi. Làm gì có Đất Khô? Tôi hỏi để so sánh những gì tương đương có trong thế giới Nước của chúng ta, anh đều trả lời là “không”! Đừng có bịp chúng tôi nhé!
Con Rùa vội đính chính:
Tôi không bịp anh. Chính tôi từ Đất Khô vừa mới trở về. Tôi không biết diễn tả cách nào để anh tin rằng có Đất Khô, vì Đất Khô hoàn toàn khác với thế giới Nước của chúng ta. Nếu sau này có ai giải thích cho anh hiểu rõ là có Đất Khô, thì khi đó anh mới biết rằng anh hiện giờ chỉ là con Cá “Ngóc”.
          Thật rất tiếc cho các nhà Bác Học thế gian đi tìm Chân Lý, vừa đụng tới cái “Không-Rỗng Rang-Emptiness” thì họ bỏ đi, chỉ tìm Chân Lý trên sự vật, giống như con Cá chỉ biết thế giới ƯỚT của NƯỚC. Các nhà Bác Học thế gian không ngờ rằng sự vật chỉ là cái Bóng của cái Không này, đi tìm Chân Lý nơi sự vật cũng giống như đi “mò Trăng đáy nước”, không bao giờ thấy được Mặt Trăng thật. Tất cả cái nhìn, cái thấy, cái nghe, cái hiểu biết, cái quan sát…của thế gian “Hữu Tướng” đều bị giới hạn hay ngăn ngại bởi Nghiệp.
          Nói như thế không phải là phủ định tất cả những công trình khoa học của các nhà Bác Học xưa nay đã giúp ích rất nhiều cho cuộc sống và nền văn minh nhân loại. Nhờ khoa học mà con người bớt lao động cực nhọc, tăng tuổi thọ, cuộc sống thoải mái với nhiều tiện nghi hiện đại, nhanh chóng, tiện lợi và tối cần thiết cho nhu cầu xã hội. Nhờ khoa học mà một số tôn giáo bắt buộc phải canh tân, sửa đổi, bớt mê tín và cuồng tín ; giải thoát con người khỏi sự nô lệ với những giáo điều mù quáng lạc hậu. Điều rất quan trọng là cũng nhờ khoa học mà Phật Pháp càng sáng tỏ, chứng minh được nhiều điều mà Chư Phật, Tổ và Thiền Sư đã khai thị trong Tàng Kinh hoặc Ngôn Thuyết. Chẳng hạn như nếu không có kính hiển vi thì làm sao chứng minh được lời nói của Phật là : trong nước có vi trùng ; không có kính hiển vi điện tử và máy gia tốc hiện đại thì làm sao chứng minh được lời nói của Phật là : vật chất do duyên hợp không có tự tánh ; không có kính thiên văn Hubble thì làm sao chứng minh được lời nói của Phật trong Kinh Hoa Nghiêm là : có vô số Thế Giới hay Thiên Hà với đủ mọi hình thù như hình sông, hình bánh xe, hình xoáy, hình hoa nở, hình cái quạt…v..v… Tuy nhiên Phật Pháp đi trước khoa học một đoạn đường rất xa mà không cần phải dùng dụng cụ khoa học và còn vượt qua “đầu sào trăm trượng” nhảy thẳng vào đất Như Lai, tức cái Chân Không Diệu Hữu với Chân Lý Tuyệt Đối. Trong khi khoa học gặp những chướng ngại trên Hình Tướng và Sự Vật nên chỉ đạt một phần nào cái Chân Lý Tương Đối hạn hẹp theo Nghiệp Thức. Ngoài ra khoa học còn là con dao hai lưỡi : vừa trao chuốt đời sống văn minh, tiện nghi hiện đại vừa hủy diệt nhân loại. Chẳng hạn Bom Nguyên Tử có thể giết hàng triệu, thậm chí hàng tỷ con người chỉ cần một cái nhấn nút. Con người với lòng tham không đáy : Tham, Sân, Si, sẵn sàng gây chiến tranh tàn sát lẫn nhau không thương tiếc như các cuộc chiến tranh Tôn Giáo đẫm máu ở Châu Âu và Trung Đông thời Trung Cổ (Crusaders) hay Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến trong thế kỷ 20… Văn Minh Khoa Học cũng để lại những hậu quả tai hại khủng khiếp như : ô nhiễm môi trường sống, làm mất quân bình sinh học khiến thời tiết thay đổi bất thường gây tai họa hạn hán, sa mạc hóa đất đai, lũ lụt, bão tố, cuồng phong, động đất, sóng thần…biết bao nhiêu tai họa khủng khiếp đang rình rập ngày đêm trong cuộc sống nhân loại không có gì là an toàn cả.Tầng lớp khí quyển Ozon (O3) bảo vệ Trái Đất khỏi bị tia cực tím (ultraviolet) từ Mặt Trời bị con người phá thủng nhiều mảng lớn làm cho nhiệt độ Trái Đất nóng lên, băng tuyết ở Nam Cực và Bắc Cực tan ra, nước biển sẽ dâng cao làm ngập chìm nhiều đồng bằng thấp, kho lương thực của nhân loại sẽ bị Biển cướp đoạt, nhân loại sẽ không có đủ lương thực để sống…
           Ngoài các tai họa về giao thông đường hàng không, đường bộ, chiến tranh khủng bố, chiến tranh nguyên tử, động đất, sóng thần, bão lụt, cuồng phong…còn có cái tai họa về Không Gian cũng rất khó lường mà khoa học khó có thể chế ngự được. Chẳng hạn như hiện có khoảng trên 2000 vẫn thạch (asteroids) và sao chổi (comets) loại lớn mà quỹ đạo của chúng đi ngang qua quỹ đạo của Trái Đất, không biết lúc nào chúng sẽ đụng Trái  Đất. Cũng như một sao chổi lọt vào quỹ đạo của hành tinh Jupiter (Mộc Tinh) trong Thái Dương Hệ của chúng ta mà hai nhà Thiên Văn là Shöemaker và Levy quan sát được lần đầu tiên vào đêm 18 tháng 3 năm 1993 tại đài thiên văn Polamar (California). Trước đó sao chổi quay chung quanh Mặt Trời, rồi bị hút vào trường hấp dẫn của Mộc Tinh và quay quanh Mộc Tinh. Tháng 7 năm 1992 sao chổi lọt vào tầng khí quyển của Sao Mộc cách hành tinh này chỉ có 50.000 km, do lực hấp dẫn không đồng đều của hành tinh này, sao chổi bị bể ra như một chuỗi ngọc trai gồm 21 mảnh, mỗi mảnh có kích thước vài kilomet. Tháng 7 năm 1993, theo quỹ đạo hình bầu dục (ellipse), sao chổi lại tách ra xa Mộc Tinh đến 50 triệu km, rồi một năm sau vòng trở lại từ ngày 16 đến 22 tháng 7 năm 1994 lần lượt 21 mảnh sao chổi đụng vào Mộc Tinh và tàn phá hành tinh này. Những mảnh lớn có đường kính từ 3 đến 4 km đâm vào Mộc Tinh với tốc độ 200.000 km/giờ có sức tàn phá  bằng hàng trăm ngàn quả Bom Khinh Khí làm bốc lên những đám mây nấm nguyên tử và những tia lửa như  pháo bông cao hàng trăm cây số, những vết thương trên Sao Mộc có kích thước từ vài trăm kilomet đến hàng ngàn kilomet, cường độ bức xạ vô tuyến tăng lên đột ngột và khí quyển của Sao Mộc bị nóng lên. Các đài quan sát  thiên văn ở Trái Đất quan sát được rõ ràng những biến cố này khá chính xác. Mộc Tinh có đường kính (diameter) lớn gấp 11 lần Trái Đất, nếu Sao Chổi nầy không phải đụng vào Mộc Tinh mà đụng vào Trái Đất vào năm 1994 thì liệu Trái Đất có bị hủy diệt sự sống với sức tàn phá của hàng trăm ngàn quả Bom Nguyên Tử hay Bom Khinh Khí, với lớp khí quyển đầy bức xạ và nóng lên bao phủ đầy bụi mù không thấy ánh mặt trời trong nhiều năm ? Trái Đất cũng đã từng bị hủy diệt sự sống ít nhất là một lần rồi cách đây 65 triệu năm tiêu diệt hết sự sống của loài Khủng Long (Dinosaurs) !
          Thật ra nói đi cũng nên nói lại để chúng sanh mê như chúng ta không phải lo sợ đến ngày tận thế. Cái “xác xuất” để một Vẫn Thạch lớn hay một Sao Chổi đụng vào và hủy diệt sự sống trên Trái Đất thì vô cùng nhỏ cho đến không bao giờ xảy ra (ɛ à 0, epsilon à zero). Còn những Vẫn Thạch nhỏ hay bụi Vẫn Thạch khi tới Trái Đất thì bị khí quyển đốt cháy vì sự cọ xát với không khí. Chỉ có một số rất ít là còn nguyên vẹn rơi trên mặt đất nhưng không gây thiệt hại lớn. Những Vẫn Thạch này có đường kính chừng vài chục mét nhưng vận tốc hàng trăm ngàn kilomet/ giờ khi vào khí quyển sẽ cháy nổ có thể gây nguy hiểm một vùng nhỏ, không có tính cách hủy diệt Trái Đất và cũng rất hiếm khi xảy ra. Nếu một Vẫn Thạch lớn hay Sao Chổi có đi vào Thái Dương Hệ thì chúng cũng quay quanh Mặt Trời theo hình ellipse như Sao Chổi Swift-Tuttle xuất hiện tháng 11 năm 1992 có chu kỳ quỹ đạo là 134 năm hoặc nếu sức hút của Mặt Trời không đủ sức kéo nó vào quỹ đạo thì nó tiếp tục đi lang thang vô định trong khoảng không gian  mênh mông. Nếu ngẫu nhiên khi quay quanh Mặt Trời lại đến gần và bị hút vào quỹ đạo của một hành tinh lớn có trọng trường lớn (gravity) nó sẽ rời quỹ đạo Mặt Trời để theo quỹ đạo mới hình ellipse của hành tinh này. Tuy nhiên khi du hành theo quỹ đạo mới lúc hướng về gần Mặt Trời nó lại bị hút một phần bởi lực trọng trường của Mặt Trời khiến quỹ đạo ellipse biến dạng và trên đường trở lại hành tinh đó, vận tốc  và lực gia tốc yếu đi vì sức hút của Mặt Trời kéo ngược lại, Sao Chổi bị lệch hướng và đi thẳng đụng vào hành tinh này. Trong trường hợp này các Hành Tinh lớn, có khối lượng lớn nên lực hút trọng trường (gravity) lớn như Mộc Tinh (Jupiter, khối lượng gấp 318 lần Trái Đất), Thổ Tinh (Saturn, khối lượng gấp 95 lần Trái Đất), Thiên Vương Tinh (Uranus, khối lượng gấp 14,5 lần Trái Đất), Hải Dương Tinh (Neptune, khối lượng gấp 17,1 lần Trái Đất) dễ bị ảnh hưởng ; còn những hành tinh nhỏ, có khối lượng nhỏ nên lực hút trọng trường nhỏ như Thủy Tinh (Mercury), Trái Đất (Earth), Kim Tinh (Venus), Hỏa Tinh (Mars) rất khó bị ảnh hưởng. Vì lẽ đó mà năm 1994 Sao Chổi Levy bị hút và đụng vào Mộc Tinh là hành tinh có lực trọng trường lớn nhất trong 9 hành tinh của Thái Dương Hệ, mà không đụng vào Trái Đất, Kim Tinh, Hỏa Tinh, hay Thủy Tinh… Mộc Tinh như người anh cả khổng lồ che chở cho Trái Đất khỏi bị những người “khách lạ” như các Sao Chổi hay Vẫn Thạch lớn làm hại. Ngoài ra Nghiệp Lực là nguyên nhân chính cho sự tồn tại của Trái Đất, duy trì sự sống để chúng sanh thọ Nghiệp ! Dù cho có tận thế hủy diệt sự sống trên Trái Đất thì chúng sanh mê cũng phải tái sanh ở một Hành Tinh khác hay một cõi khác để trả Nghiệp. Nói như thế không phải là tin mừng là không có tận thế trên Trái Đất, và do đó mọi người cứ mãi mê lo tận hưởng dục lạc vật chất ngắn ngũi giả tạo và tạo thêm Nghiệp xấu. Trái Đất là cõi Ta Bà đầy ngũ trược, là cõi Dục Giới, với nhiều phiền não sinh lão bệnh tử không phải là cái Bến hay Căn Nhà thật của tất cả chúng sanh. Tùy Tâm của tất cả chúng sanh mà có thể chuyển Nghiệp biến Trái Đất thành một trong các cõi Trời và cũng tùy Tâm của tất cả chúng sanh mà Trái Đất có thể tồi tệ hơn với chiến tranh bệnh tật thiên tai triền miên…trở thành Địa Ngục Trần Gian ! Trở thành cõi Trời thì rất khó, trở thành Địa Ngục Trần Gian thì dễ hơn vì tự nó cố hữu là cõi Ta Bà ngũ trược đời sống ngắn ngủi sinh lão bệnh tử với cái tham dục nặng nề y như cái tên của nó là cõi Dục Giới. Người Giác Ngộ hay tu thập thiện thì đi về cõi Niết Bàn hay ít ra là các cõi Trời, còn cõi Ta Bà này chỉ để cho chúng sanh mê với Nghiệp Chủng, kể cả loài cầm thú… Do đó Trái Đất hay cõi Ta Bà vẫn tồn tại dành cho chúng sanh thọ Nghiệp trong vòng luân hồi vô số kiếp. Vô Minh và Nghiệp Lực là nhân tố tác động mạnh mẽ nhất để duy trì cõi Ta Bà. Tận thế chỉ xảy ra đối với người Giác Ngộ là bỏ cái Thế Gian mê giả tạo này để nhập Niết Bàn trở về Căn Nhà Xưa bất sanh bất diệt ! Đối với người tu Phật không phải quan tâm hay lo lắng sợ sệt về ngày tận thế của Thế Gian mê, vì thật ra cõi Ta Bà vẫn tồn tại dành cho Nghiệp Quả luân hồi. Tận thế đối với một chúng sanh là hết một kiếp người và tùy Nghiệp mà có thể trở lại cõi Ta Bà hay các cõi khác. 
          Những suy đoán mơ hồ về ngày tận thế  như Y2K (year of two thousand, năm 2000) hoặc ngày tận thế của những Đức Tin Thần Quyền thường là do sự tưởng tượng của con người, có tận thế thì con người mới biết sợ sệt mà đặt niềm tin tuyệt đối vào Thượng Đế để được cứu rỗi và tận thế cũng chính do Thượng Đế làm ra để tàn sát hay trừng phạt loài người : những  kẻ không tin nhận Ngài tuyệt đối, những kẻ ngoại đạo ... ! Có những nhà Tôn Giáo khác nhau khuyên tín đồ của mình một cách khác nhau để được cứu rỗi vào ngày tận thế. Chẳng hạn như có vị khuyên niệm Phật, có vị khuyên nên cầu Chúa hay Thượng Đế (God) đừng niệm Phật, có vị khuyên nên tin vào Allah đừng niệm Phật hay Chúa… Chúng sanh không biết ai thật ai giả và tin ai để được cứu rỗi ?! Và cũng không biết có tận thế thật hay không, vì vào đầu năm 2000 (Y2K) cũng nói là tận thế, nhưng đã qua rồi mà không có ! Hiện thời là ngày 21 tháng 12 năm 2012 sắp đến, có nhiều người nói là tận thế hoặc có một biến cố rất lớn làm thay đổi cuộc sống nhân loại ! Chỉ có Phật là chưa bao giờ nói đến tận thế, vẫn bình yên trong thiền định, mặc cho thế sự trôi qua, mặc cho chúng sanh đang lăng xăng nhốn nháo, bày vẽ đủ điều… Đành rằng thế giới này cũng phải hoại theo tiến trình : thành, trụ, hoại, không ; nhưng không phải là tận thế giống như người đời hay các Đức Tin Thần Quyền diễn tả. Vũ trụ này còn nhiều tỷ năm nữa mới hoại và trở về không và theo vòng luân hồi mà sinh ra vũ trụ mới. Ít ra phải là hàng triệu hay nhiều tỷ năm nữa trong khi đời sống con người chỉ có 100 năm, mà nói đến chuyện tận thế của hàng triệu hay hàng tỷ năm sau thì quả là chuyện xa vời, vô ích và không thực tế. Dựa vào vài sự kiện Vật Lý Không Gian hay lịch thời gian của các bộ lạc Maya ở Trung Mỹ (Vương quốc Quiché: Quiché kingdom từ Mexico đến Guatemala, Honduras…) mà có người đoán rằng ngày tận thế là ngày 21 tháng 12 năm 2012. Có nhà Tôn Giáo tuy không khẳng định tận thế, nhưng cho là vào ngày này Không Gian 3 chiều sẽ chuyển về chiều 0 (zero) rồi tăng lên thành 4 chiều. Nhân loại sẽ sống trong một không gian khác, đó là không gian 4 chiều không có điện lực, từ trường…không có xe hơi, máy bay, dụng cụ bằng điện, máy vi tính, điện thoại, phi thuyền không gian… Tất cả trở về thời thượng cổ ! Cũng có những lời tiên tri hay là sấm nói về ngày tận thế nhân loại sẽ chết gần hết (mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình)…Chẳng hạn như câu chuyện núi Cấm nổ, núi Cấm hóa vàng (núi Cấm thuộc địa phận tỉnh An Giang - Miền Tây Nam Bộ,Việt Nam), 18 nước đến tranh hùng để cướp vàng và bị “Ông Năm Chèo” tức Cá Sấu Thần xuất hiện ở sông Vàm Nao (nối liền sông Tiền và sông Hậu - Tỉnh An Giang) nuốt hết vào bụng, diệt hết kẻ ác… Đây là ngày tận thế, chỉ còn lại số rất ít người biết tu, biết niệm Phật còn sống sót. Trong thời điểm này, một Đấng Minh Vương ra đời cứu thế để lập đời thượng ngươn ! Còn Kinh Thánh Ki-Tô-Giáo cũng nói về ngày tận thế Thiên Chúa sẽ xuất hiện để phán xử nhân loại, ai tin Chúa thì được lên Thiên Đàng sống đời đời, ai không tin Chúa thì thì bị đày xuống Địa Ngục vĩnh viễn. Suốt 2000 năm, người ta suy đoán rất nhiều lần về ngày tận thế, đợi Chúa phán xử, nhưng vẫn không xảy ra….Thật ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, Mặt Trời có lệch đi 6,60 (độ) Bắc. Đó là sự điều chỉnh tự nhiên trong vật lý không gian để tự cân bằng giống như định luật Kepler (Johannes Kepler 1571-1630) về tốc độ của Trái Đất thay đổi khi quay quanh Mặt Trời để tự cân bằng giữa lực gia tốc khi quay và lực hút trọng trường (gravity) giữa Mặt Trời và Trái Đất để giữ Trái Đất theo đúng quỹ đạo quay quanh Mặt Trời mà không phải tách rời Thái Dương Hệ và đi vào vô định hoặc nếu lực gia tốc yếu vì quay chậm thì bị rơi vào Mặt Trời. Vì quỹ đạo của Trái Đất không phải là vòng tròn mà thật ra là hình bầu dục (ellipse), Mặt Trời là một trong hai tiêu điểm của ellipse. Khi Trái Đất gần Mặt Trời thì đi nhanh hơn, xa Mặt Trời thì đi chậm hơn, để cho diện tích quét bởi bánh kính Rn bằng nhau với những thời gian bằng nhau như định luật Kepler II diễn tả : “Trong chuyển động của một hành tinh, vector bán kính từ Mặt Trời đến hành tinh quét những diện tích bằng nhau trong những thời gian bằng nhau”. Để có những diện tích tốc độ bằng nhau với những thời gian bằng nhau này, khi Trái Đất gần Mặt Trời nghĩa là bán kính Rn nhỏ, vector Rn  phải quét một góc (θ) (theta) lớn tỉ lệ với vận tốc quỹ đạo V lớn ; khi xa Mặt Trời hơn, bán kính Rn lớn, vector Rn quét góc (θ) (theta) nhỏ tỉ lệ với vận tốc quỹ đạo V nhỏ. Sự thay đổi vận tốc di chuyển và khoảng cách từ Mặt Trời tới Trái Đất trong một chu kỳ quỹ đạo ellipse không có ảnh hưởng gì tới điều kiện sống trên Trái Đất. Trái Đất nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo quanh Mặt Trời một góc là 23,50 (độ), độ nghiêng này tạo ra 4 mùa trong một năm với một vòng quỹ đạo 365 ngày. Còn sự việc Mặt Trời lệch đi 6,60 (độ) so với mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trời quanh tâm Ngân Hà, ngoài sự cân bằng về động lực học không có một ảnh hưởng nào khác. Ngoài độ lệch 6,60 (độ) của Mặt Trời, ngày 21 tháng 12 năm 2012 còn có sự trùng hợp là tâm của Trái Đất, tâm của Mặt Trời và tâm của một số đám mây khí và bụi (Nebulae) còn gọi là Ám Hà (Dark Rifts) ở rải rác trong khắp Ngân Hà  Milky Way cùng nằm trên một đường thẳng, hay ngay cả tâm của Lổ Đen (Black Hole) ở trung tâm Ngân Hà. Điều này cũng chẳng có ảnh hưởng gì tới Trái Đất cả! Trái Đất chỉ có ảnh hưởng lực trọng trường (gravity) mạnh nhất là Mặt Trăng và Mặt Trời vì ở gần. Còn các dải Black Rifts hay Black Hole trung tâm Ngân Hà thì ở quá xa, mà lực hút trọng trường thì tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách d (distance) theo công thức: F = K*m1*m2/d2 (m= mass =khối lượng của Trái Đất, Black Rifts hay Black Hole ; K= hằng số Newton). So với các đám mây đen Black Rifts thì Black Hole trung tâm Ngân Hà là quan trọng nhất vì nó có khối lượng lớn bằng khoảng bốn triệu khối lượng Mặt Trời. Trái Đất cách Mặt Trời chỉ có 93 triệu dặm (150 triệu km) hay 8 phút 33 giây ánh sáng, khoảng cách d nhỏ nên lực F lớn : do đó Trái Đất chịu ảnh hưởng của Mặt Trời. Trong khi đó, Trái Đất cách Lổ Đen trung tâm Ngân Hà tới 165 ngàn tỷ dặm (28.255 năm ánh sáng), tuy khối lượng Lổ Đen lớn nhưng khoảng cách d quá lớn nên lực F vô cùng nhỏ :  do đó ảnh hưởng của Lổ Đen tác động vào Trái Đất không đáng kể. Ngay cả nếu tâm của Thiên Hà Andromeda (có khối lượng lớn hàng trăm tỷ khối lượng Mặt Trời ở ngoài và gần Ngân Hà) cùng nằm trên đường thẳng với tâm của trái Đất và tâm của Mặt Trời thì cũng chẳng ảnh hưởng gì. Với khoảng cách d = 2 triệu 300 ngàn năm ánh sáng, nên lực F cực nhỏ. Còn đối với các Thiên Hà ở ngoài thật xa dải Ngân Hà,  khoảng cách d lên tới hàng trăm triệu hay hàng tỷ năm ánh sáng thì xem như lực F = 0. Giả sử tâm của tất cả những vật thể này từ Trái Đất, Mặt Trăng, Kim Tinh, Mộc Tinh, Mặt Trời, những đám mây Dark Rifts, Black Hole trung tâm Ngân Hà,…cho tới vô số Thiên Hà ở ngoài dải Ngân Hà cùng nằm trên một đường thẳng thì lực hút trọng trường (gravity) của tất những vật thể này cùng triệt tiêu lẫn nhau để giữ thế cân bằng. Vì là một tổng thể cân bằng lực, cho nên không có một vector tổng hợp lực “ngoại lệ” tác động vào Trái Đất (vector F= 0). Công thức F = K*m1*m2/d2 vẫn là một định nghĩa chính xác cho lực trọng trường của các vật thể tác dụng vào Trái Đất và tất cả các vật thể đều vận hành theo một phương trình toán học chính xác cho sự cân bằng của vũ trụ. Do đó ngày 21 tháng 12 năm 2012 vẫn là ngày bình thường như mọi ngày, không có tận thế cũng như không có biến đổi không gian 3 chiều thành 4 chiều, vẫn có điện, có từ trường, có xe hơi hay máy bay, máy vi tính, không có trời tối suốt ba ngày ba đêm, vì ánh sáng ban ngày có từ Mặt Trời và phản ứng nhiệt hạch trong ruột Mặt Trời vẫn xảy ra liên tục để biến đổi khí Hydrogen (H) thành khí Helium (He) và phát ra ánh sáng ! Đức Phật Thích Ca lấy Trí Tuệ và Từ Bi để dẫn dắt chúng sanh, không chấp nhận sự mê tín hay những lời tiên tri mơ hồ ! Kinh Hoa Nghiêm nói trong một niệm thấy ba đời : quá khứ, hiện tại và vị lai, nhưng thật ra Phật, Tổ cũng như các vị Bồ Tát, rất ít khi hoặc không có nói tới những cái vị lai như là các loại sấm giảng hay lời tiên tri. Có thể các Ngài thấy không có lợi và không thực tế, dễ dẫn dắt chúng sanh vào sự mê tín hay cuồng tín rất tai hại. Nguyên lý của vũ trụ hay tất cả pháp giới là “Dịch” hay là “Động”, tất cả đều do Tâm mà ra, Tâm chuyển là thế giới hay pháp giới chuyển, không có gì là cố định. 
“Hữu Tâm vô Tướng, Tướng tự Tâm sanh,
  Hữu Tướng vô Tâm, Tâm tùng Tướng diệt ”. 
(Nghĩa là có cái Tâm tốt mà không có cái Tướng tốt, thì cái Tướng không tốt đó do Tâm tốt mà chuyển thành Tướng tốt hay một hoàn cảnh tốt, một thế giới tốt. Còn có Tướng tốt mà không có cái Tâm tốt thì cái Tướng tốt đó, hay cái hoàn cảnh tốt, thế giới tốt đó tùng theo cái Tâm không tốt mà trở thành xấu).
Đức Phật, Tổ cũng như các Bồ Tát muốn cho chúng sanh tự nơi Tâm mình mà chuyển cả thế giới hay pháp giới, không tin vào những lời tiên tri. Thực tế như những lời tiên tri của một vài Tôn Giáo trên thế giới, vì tin vào những lời tiên tri này mà chiến tranh tôn giáo xảy ra đẫm máu suốt cả ngàn năm và tới thế kỷ 20, 21 nó vẫn chưa chấm dứt ! Tóm lại những điều mê tín về tận thế như trên là những suy đoán Vô Minh của thế gian mê không có giá trị xác thực và người tu Phật chân chính không cần phải quan tâm. Tuy không có tận thế, không có biến đổi Không Gian 3 chiều thành 4 chiều, nhưng tai họa do chính con người tạo ra còn nguy hiểm hơn là tận thế. Vì tận thế thì tất cả bị tiêu diệt một lần rồi sau đó tái sanh ở một thế giới khác. Còn tai họa cho chính con người làm ra thì kéo dài không  biết đến khi nào mới chấm dứt. Chẳng hạn như chiến tranh nguyên tử, có thể sát hại hàng triệu thậm chí hàng tỷ con người, ngoài ra còn hậu quả của các chất phóng xạ hậu nguyên tử. Chiến tranh nội loạn, như ở Trung Hoa sau thời Đông Chu sụp đổ tới thời Chiến Quốc, các Chư Hầu đánh nhau suốt nhiều thế kỷ. Chiến tranh Tôn Giáo khi thì bộc phát khi thì âm ĩ có thể kéo dài hàng ngàn năm, có khi chuyển biến thành chiến tranh xâm lược, chiến tranh nội loạn, chiến tranh khủng bố…đẫm máu và độc ác không thua gì các thiên tai như bão lụt, sóng thần hay động đất… Vì thế ngoài tai họa do thiên nhiên gây ra, tai họa do loài người, và tai họa do những Tôn Giáo mê tín hay cuồng tín cũng không phải là nhỏ …
            Cuộc sống của nhân loại nhờ khoa học mà đem lại nhiều tiện nghi hiện đại và xem ra một phần nhân loại cũng đang sống trong cái hạnh phúc vật chất tuyệt vời ấy, có nhiều người còn mơ mộng đây chính là cõi Thiên Đàng, chưa bao giờ nếm mùi khổ lụy. Liệu một trong những tai họa kia có né tránh những con người đang ngủ mê này hay không ? Và liệu họ có trường sanh bất tử để thụ hưởng đời đời những ân sủng tuyệt vời này hay không ? Họ là những người Thực Tế hay là lời cảnh giác của Đức Phật về luật “Vô Thường” và “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”  là Thực Tế. Đức Phật từng cảnh giác rằng : Chúng sanh đang sống trong căn nhà lửa, lửa sẵn sàng thiêu đốt chúng sanh bất cứ lúc nào.
           Có một câu chuyện kể rằng: Có hai vị Thiền Sư đi qua sông, gặp một chiếc thuyền chài đang lưới cá. Mẻ lưới đầy ắp cá đang được kéo lên thuyền. Trong đó có một con cá ra sức vùng vẫy, nhảy thoát khỏi lưới, rớt trở lại sông, bơi lội tung tăng, có vẻ mừng rở, vì mới thoát nạn. Vị Thiền Sư thứ nhất nói:“Con cá giỏi thiệt, chỉ phóng một cái, thoát ra khỏi lưới!”. Vị Thiền Sư thứ hai bèn nói: “Nếu con cá giỏi, sao lại để bị lưới” . Chúng sanh cũng vậy, đang ở trong “Căn Nhà Lửa”, mà cứ tưởng đang vui hưởng ngũ dục. “Căn Nhà Lửa” chính là cái Thân Tứ Đại của mình, đang bị lửa thời gian thiêu đốt từng giây, bị lửa tham lam, lửa sân hận, lửa si mê, thiêu đốt với từng cơn Mê. Chúng  sanh bị lưới ngũ dục của thế gian vây chặt không lối thoát, nhưng vẫn tung tăng vẫy vùng bơi lội trong màn lưới Mê mờ đó lại lấy làm thỏa thích vô cùng!
           Vì mê muội thiển cận chỉ biết cái “Tiểu An” mà bỏ quên cái “Đại An” , chỉ thấy có một kiếp nhân sinh ngắn ngủi như  “bóng câu qua cửa sổ” mà không thấy được vô số kiếp phải bị Nghiệp Quả trói buộc vào vòng luân hồi. Cái hạnh phúc hay Chân Lý mà thế gian hay khoa học đem lại hay khám phá được rất là nhỏ nhoi so với cái hạnh phúc an lạc và cái Chân Lý mà Đức Phật đã tìm ra và chỉ đường cho chúng sanh. Có nhiều lúc khoa học đi đồng hành với Phật Pháp nhưng cuối cùng lại rẽ sang hướng khác, thí dụ như tìm ra Dị Điểm Big Bang và đụng tới cái Chân Không Rỗng Rang-Emptiness rồi lại quay  đầu trở ra cái Ngọn. Khoa học không thể nào kéo dài đời sống con người từ 100 năm dài ra tới 1000 năm hay hơn nữa, do đó phải biết tìm một con đường nào khác, hay một dạng sống nào khác để thoát khỏi cái định luật 100 năm ngắn ngủi này.
             Nhìn ra không gian rộng lớn, nghĩ rằng có thể có rất nhiều nền văn minh khác với những chúng sanh có thể có đời sống lâu hơn từ 1.000 năm, 20.000 năm, 100.000 năm…tùy thuộc vào đặc tính vật lý và quỹ đạo hành tinh hay đúng ra là tùy thuộc vào Nghiệp Tướng của chúng sanh đó. Cũng như con muỗi nếu chỉ sống có 7 ngày, thì nó phải trải qua tới 5.200 kiếp mới chỉ bằng một kiếp người, loài Người lại nhạo báng nó rằng : Đời sống ngắn ngủi như thế sống để làm gì thật vô ích chỉ để làm thức ăn cho những con vật khác ! Con người cũng chẳng khác gì con muỗi. 
            Có một câu chuyện trong Phật Pháp. Vào một buổi sáng ở một cõi Trời, một cung nữ đi hái hoa vào buổi sáng sớm bị trúng sương nằm bất tỉnh. Thần thức nhập vào cõi Ta Bà và đầu thai sinh ra trong một gia đình khá giả, lớn lên lấy chồng và sinh ra được sáu người con. Một hôm ra đồng vào một buổi sáng sớm lại bị trúng sương nằm bất tỉnh, vừa khi tỉnh dậy chợt nhớ ra mình không phải là người ở Trần gian liền nín thở trở về lại cõi Trời. Vị Vua Trời mừng rỡ cho biết rằng nàng đã ngất xỉu bất tỉnh hết nửa tiếng đồng hồ. Vị cung nữ cũng kể lại : Khi bất tỉnh nằm mơ thấy xuống cõi Ta Bà sinh ra rồi lớn lên lập gia đình và có sáu người con và đã 40 tuổi đời. Một hôm bị trúng cảm và sực nhớ đang sống ở cõi Trời liền định hồn trở lại cõi Trời. Nàng cũng cho biết ở cõi Ta Bà,loài Người chỉ sống có 100 năm. Vị Vua Trời thắc mắc hỏi vị cung nữ : Nếu đời sống quá ngắn ngủn như thế, chắc loài Người ở cõi ấy biết lo Tu và thuần đức lắm thì phải ? Vị cung nữ khua tay : Không đâu, trái lại là đàng khác ! Cõi ấy loài Người vẫn mê muội đủ thứ Tham, Sân, Si thậm chí còn gây chiến, tranh quyền, đoạt lợi, giết hại đồng loại rất thảm khốc, tạo nhiều Nghiệp ác, u mê bám víu vào cảnh Trần rất nặng, khó thoát khỏi số kiếp của họ. 
          Nếu như nhà Thiên Văn Học Frank Drake ước tính số lượng nền văn minh của chúng sanh khác hiện diện chỉ trong Thiên Hà Milky Way theo công thức :        
                                N=R* FP NE FL FI F
          (R* = Tỉ  lệ Sao sinh ra trong Thiên Hà, FP = Tỉ  lệ Sao có hành tinh quay chung quanh, NE = Phần trăm của hành tinh có môi trường sống, FL = Hành tinh với sự sống, FI =Số hành tinh mà sự sống thông minh phát triển, FC = Số hành tinh mà sự sống thông minh có thể truyền đạt, L= Khoảng cách đời sống của những nền văn minh truyền đạt, nền văn minh đó dài bao lâu).
          Với công thức này thì Dải Ngân Hà (Milky Way) của chúng ta có từ 100 đến 100 triệu nền văn minh. Cả vũ trụ có khoảng 200 tỷ Thiên Hà. Như vậy toàn thể vũ trụ có khoảng từ 20.000 tỷ đến 20 tỷ tỷ chúng sanh với nền văn minh khác nhau, nhưng người Địa Cầu không liên lạc được với họ vì ở quá xa, ngoài khả năng của người Địa Cầu. Như vậy cái Văn Minh Khoa Học của chúng ta giống như bị giam hãm trong cái ốc đảo ngục tù hẻo lánh và không chừng có những nền văn minh cao hơn chúng ta gấp trăm  gấp ngàn lần. Tuổi thọ của người Không Gian hay loài Trời có thể cao hơn chúng ta rất nhiều. Điều này trong Kinh Phật có nói đến vô số thế giới và có những loài Trời sống lâu cả 100.000 năm hay hơn nữa so với người Địa Cầu. Tuy nhiên tất cả đều là Mê kể cả loài Trời vẫn bị luân hồi trong sáu cõi : (Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Nhân, A Tu La, và Thiên) và tất cả vẫn nằm trong Nghiệp Lực. Loài Trời và loài Người đều nhìn về hình tướng Sự Vật để tìm Chân Lý thì cũng giống như : mò Trăng đáy nước. Tuy loài Trời có văn minh, sống lâu vì có nhiều phước báu hơn loài Người , nhưng vẫn còn Mê nơi Sự, nơi Cảnh và tham Dục hưởng thụ, chưa có Công Đức tu hành nên vẫn bị luân hồi. Ngay cả cái Chân Lý mà loài Trời khám phá ra được tuy vượt loài Người rất xa, nhưng cũng chỉ là cái Chân Lý theo Nghiệp Tướng của loài Trời vẫn còn là Mê và chỉ là ảo tưởng. So với loài Trời thì cái Văn Minh Khoa Học và cái Chân Lý Khoa Học của người Địa Cầu tìm ra lại càng ấu trĩ và nhỏ bé biết là bao. Như vậy nếu chấp vào khoa học để được cái Tiểu An, cái Tiểu Văn Minh hay cái Chân Lý giả tạm của Thế Gian mà để Cảnh Trần và Gió Nghiệp cuốn trôi vào sáu cõi luân hồi thì quả thật là quá Mê và không có Trí Tuệ.
           Nhà Bác Học Albert Einstein khá trung thực khi nói : Khoa Học thiếu Tôn Giáo thì khập khiễng…”.  Thật ra Khoa Học chỉ  khập khiễng nếu thiếu bất cứ Tôn Giáo nào vừa có Trí Tuệ siêu việt đại diện cho Chân Lý, vừa có lòng Từ Bi bao la, lòng nhân ái vị tha thật sự để đại diện cho Đạo Đức. Còn như  Khoa Học thiếu bất cứ những Tôn Giáo nào có cái Giáo Lý sai lầm, mê tín, cuồng tín… hay gây chiến tranh, hay xúi giục chiến tranh… và có nhiều thành tích lịch sử không mấy tốt đẹp…mặc dù được giấu giếm kỹ lưỡng và sơn phết bên ngoài bằng nhiều màu sắc sặc sỡ ; thiếu những Tôn Giáo này chẳng những Khoa Học không bị cản trở mà còn phát triển mạnh mẽ. Điều quan trọng là nếu Khoa Học không có cái phần Đạo Đức của Tôn Giáo Từ Bi, giàu lòng nhân ái vị tha thì sẽ là tai họa cho nhân loại. “…Tôn Giáo thiếu Khoa Học thì Mù Lòa. Điều này chắc chắn không phải là áp dụng cho Đạo Phật, vì Đạo Phật đã từng “không Mù Lòa” cách đây hơn 2500 năm kể từ khi chưa có Khoa Học ; vì Đức Phật là một vị Thầy sáng giá của Khoa Học. 
          Đức Phật chứng Chánh Đẳng Chánh Giác đạt Trí Tuệ Bát Nhã, liễu Chân Lý Vũ Trụ, am thông việc Sinh Tử Luân Hồi. Ngài rộng lòng Từ Bi thuyết Pháp độ chúng sinh thoát vòng Luân Hồi để đạt đến Vô Sanh an trú nơi Niết Bàn như Ngài. Đức Phật đã từng nói : “Những gì Ta biết như Lá trong Rừng, những gì Ta nói cho các ngươi chỉ là Lá trong nắm tay Ta ”. Chỉ một ít  trong nắm tay mà bao nhiêu Tàng Kinh đồ sộ đầy áo nghĩa thâm huyền mà nhân loại phải cúi đầu khâm phục : Trí Tuệ không sót một li, Từ Bi không sai một vật ; Đại Trí như thế mà vẫn khiêm cung hạ mình bình đẳng như những chúng sinh để hóa độ. Không cần có kính hiển vi mà vẫn biết có vi trùng trong ly nước trước Khoa Học cả hơn 2000 năm, không có máy gia tốc hiện đại mà vẫn biết vật chất do duyên hợp không có tự tính, không có kính thiên văn tối tân mà vẫn biết có vô số thế giới (thiên hà) như cát sông Hằng với đủ thứ hình dạng như : hình cánh quạt, hình bánh xe, hình lốc xoáy… Nhờ sự phát minh ra nhiều dụng cụ khoa học càng ngày càng  tân tiến mà Khoa Học đã lần mò ra được một phần nào Chân Lý và mới biết được lời nói của Đức Phật là xác thực. Chính ngày nay Khoa Học Không Gian và Cơ Học Lượng Tử đang phát triển mạnh, con người lại càng kinh ngạc với cái Lý Bát Nhã thâm áo vi diệu của Ngài :  
 “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
   Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.  
          Thuyết Tương Đối” với Con Tàu Vũ Trụ” vượt Không Gian 4 chiều XYZ và T, (cũng có thể gọi Không Gian 3 chiều nếu không kể chiều thời gian T) bằng vận tốc ánh sáng ( 300.000 km/giây) của Einstein là một Lý Thuyết Khoa Học khá sâu sắc, hy vọng có thể giải mã phần nào về cái Lý Sắc Không” của Đức Phật. Con Tàu tăng vận tốc làm cho Không Gian và Thời Gian bị cong, số chiều tăng lên và khi đạt đến vận tốc ánh sáng thì xảy ra cái Hiệu Ứng làm thay đổi Không Gian, Thời Gian, Kích Thước và Khối Lượng. Không Gian sẽ co lại, Thời Gian thì kéo dài ra chậm đi như ngưng lại, Kích Thước Con Tàu thu nhỏ và tiến tới không (zero), trong khi Khối Lượng lại tăng lên và đạt đến mức chuyển trạng thái từ Khối Lượng sang Năng Lượng với công thức : E=mc2  . Với vận tốc ánh sáng, Kích Thước bằng không (zero) nên Con Tàu biến mất đối với Người Quan Sát có hệ qui chiếu là Trái Đất : Sắc tức thị Không”. Trong khi đó, Người Quan Sát với hệ thống qui chiếu là Con Tàu thì Con Tàu và Đoàn Lữ Hành vẫn bình yên, không cảm thấy bị thu nhỏ lại bằng không (zero), Thời Gian trên Con Tàu vẫn vậy, Không Gian vẫn y như trước không cảm thấy bị co lại : Không tức thị Sắc”.  Người trên Trái Đất thấy Không, người trên Con Tàu thấy Có ; như vậy Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”. Nhưng có một điều lạ là sau khi ConTàu du lịch trong 1 năm với vận tốc ánh sáng, thời gian trên Con Tàu đi chậm lại và do đó khi trở về lại Trái Đất thì hầu hết người thân đã qua đời vì đã là vài thế kỷ ở Trái Đất !
          Bây giờ giả sử như Con Tàu Vũ Trụ của Einstein tiến về một Black Hole (Hố Đen) để quan sát với vận tốc bình thường chỉ bằng một phần ngàn (1/1000) vận tốc ánh sáng, chưa có Hiệu Ứng biến đổi Không Gian và Thời Gian. Con Tàu vẫn có kích thước cũ và Người Quan Sát  ở Trái Đất vẫn theo dõi và nhìn thấy Con Tàu. Nhưng không  may khi gần tới Black Hole thì bị hút mạnh từ ngưỡng cửa vào sâu bên trong và Kích Thước Con Tàu từ từ nhỏ lại. Tuy vận tốc Con Tàu nhỏ nên chưa xảy ra Hiệu Ứng làm cong và tăng số chiều Không Gian và Thời Gian của Con Tàu, nhưng vì  độ cong và số chiều Không Gian và Thời Gian của Black Hole tăng dần từ ngoài vào trong nên gây Hiệu Ứng với Con Tàu, làm Con Tàu từ từ tăng Khối Lượng, từ từ giảm Kích Thước, thời gian từ từ chậm lại, vận tốc giảm. Con Tàu đi càng sâu vào Black Hole thì Hiệu Ứng biến đổi càng lớn cho đến lúc cân bằng nghĩa là độ cong và số chiều Không-Thời-Gian của Black Hole trùng với độ cong và số chiều Không-Thời-Gian của Con Tàu, khi đó Hiệu Ứng mới dừng lại và Kích Thước Con Tàu rút lại bằng không (zero) và Người Quan Sát ở Trái Đất thấy nó hoàn toàn mất tích : Sắc tức thị Không”
           Có nhiều Black Holes rải rác trong khắp Không Gian 4 chiều của Vũ Trụ. Thiên Hà Milky Way của chúng ta có hàng triệu Black Holes sinh ra sau những vụ nổ của các Super Nova, riêng lốc xoay ở trung tâm Thiên Hà là một Black Hole lớn, nó cuốn hút và nuốt sống những ngôi sao ở gần, có đến hàng triệu sao như Mặt Trời bị mất tích trong bụng của nó. Black Hole là một vùng Không Gian cong có 10 chiều, nó còn rất bí mật đối với Khoa Học Vũ Trụ, nó có một trường lực hấp dẫn cực mạnh, tất cả vật chất có khối lượng kể cả ánh sáng đi ngang qua đều bị cuốn hút vào trong và Mất Tích”. Con Tàu du hành đi sâu vào Black Hole, theo nguyên lý Tương Đối của Einstein, thì nó vẫn “Hiện Hữu” bình thường, thế giới vật chất chung quanh Con Tàu vẫn vậy : Không tức thị Sắc”. Người Quan Sát ở Trái Đất không thấy Con Tàu và Thế Giới trong Không Gian cong 10 chiều của Black Hole, nhưng Con Tàu vẫn Có Mặt”  bình thường và Thế Giới vật chất chung quanh nó vẫn Hiện Hữu : Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”.
          Cái Lý Sắc Không” này có vẻ Logic, tưởng rằng đã khám phá ra được Chân Lý Vũ Trụ : ‘‘Thật Tướng của Vạn Pháp là Vô Tướng: Sắc tức thị Không” và  phải kinh ngạc trước cái Trí Tuệ siêu việt của Đức Phật. Dù chưa giải mã nổi cái Lý Sắc Không” của Đức Phật, nhưng đứng trên quan điểm Khoa Học và cái nhìn trong Thế Giới Hữu Vi thì có vẻ hợp Lý”, nhưng về Sự ”thì hoàn toàn chưa đạt được. Thật ra đây chỉ là Lý Thuyết, vì thực tế Con Người chưa sản xuất được Con Tàu Vũ Trụ như thế và du hành đạt tới vận tốc ánh sáng để thí nghiệm bằng Thực Tế”. Hơn nữa nó vẫn còn quá chậm so với cái Lý Sắc Không” trong  giấc Chiêm Bao”. Chỉ cần một sát na khi Thức Dậy” là đã Rõ cái Lý Sắc tức thị Không”. Bao nhiêu cái Sắc : bao gồm núi sông, nhà cửa, cầu đường, con người và cả Vũ Trụ mênh mông trong giấc Chiêm Bao chỉ cần Thức Dậy là Sắc tức thị Không” và chỉ cần ngủ Mê trong một sát na là cả cái Vũ Trụ bao la sơn hà đại địa hiện ra NHƯ THẬT trong Chiêm Bao : “Không tức thị Sắc”. Cái Không Gian và Vũ Trụ mà Einstein đang quan sát kể cả Bản Thân của Ông cũng là Chiêm Bao thôi, nhưng Mở Mắt Chiêm Bao. Ông là nhà Bác Học có tài thật sự, cái Thuyết Tương Đối lừng danh của Ông có giá trị khá cao nhưng nó còn hạn chế theo Nghiệp Thức của Loài Người, còn nhiều giới hạn và ngăn ngại. Bởi vì tất cả cái Không Gian - Space” 4 chiều, 10 chiều của Black Hole, 20 chiều hay cái Không Gian của các Cõi Trời, Cõi A Tu La, Cõi Ngạ Quỹ…vẫn là các Cõi Mê giống như Cõi Chiêm Bao và nó chỉ là cái Bóng Trăng dưới Mặt Nước mà thôi. Chỉ có cái Hư Không Rỗng Rang -Emptiness”, cái Rỗng Thênh Không Thánh, cái Không của Chư Phật, Chư Tổ và Thiền Sư chứng Đạo mới là Mặt Trăng thật. Dù Lý có hay nhưng Sự vẫn là cạn, giống như mò Trăng đáy Nước thì làm sao gặp được Mặt Trăng thật. Với vận tốc ánh sáng chỉ có 300.000 km/giây thì làm sao Con Tàu Vũ Trụ của Einstein du hành hết được 10 phương Chư Phật. Du hành với vận tốc ánh sáng thật ra chỉ là lý thuyết suông, thực tế thì Con Người không thể nào thực hiện được, nhưng dù được cũng phải mất hàng chục tỷ năm, để du hành, trong  khi mạng sống  Con Người chưa quá 100 năm, thì làm sao thực hiện ? Do đó đây chỉ là lý thuyết , rất khó thực hiện nếu không muốn nói là ảo tưởng ! Cái Lý Sắc Không” của Đức Phật vẫn còn là cái “Bí Mật” đối với nhãn thức phàm phu dù có một Bộ Óc” thông minh tuyệt đỉnh kể cả loài Trời, vì nó cần phải chứng Ngộ như Đức Phật và Thiền Sư với con mắt “Bát Nhã” mới thông suốt được. 
          Hãy nhìn đây mới là cái Lý Sắc Không” của Bát Nhã Ba La Mật :                       
                                      “Bồ Tát siêu Thánh Trí              
                                        Lục xứ tất giai đồng                  
                                        Tâm Không QuánTựTại            

                                        Vô Ngại Đại ThầnThông
           Thiền môn nhập Chánh Thọ          
           Tam Muội nhiệmTây Đông        
           Thập phương du lịch biến         
            Bất kiến Phật hành tung”.  
(Bồ Đề Đạt Ma).
  (Bồ Tát vượt Thánh Trí
  Sáu xứ rốt chung đồng
  Tâm Không Quán Tự Tại
  Vô Ngại Đại Thần Thông
  Cửa Thiền vào Chánh Thọ
  Tam Muội mặc Tây Đông
  Mười phương trải chơi khắp
  Nào thấy Phật hành tung)
          Đạt tới Bát Nhã Ba La Mật Đa là đạt tới Pháp Giới Chư Phật, cái Sắc của Chân Sắc, cái Không của Chân Không, nhưng Sắc cũng chẳng Sắc, Không cũng chẳng Không, Sắc Không là Một, là Bất Nhị, là Cảnh Giới : Lý vô ngại, Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại: 
         · Lý vô ngại : tức là Chân Lý Thực Tánh là Thể Tánh Chân Thật, Thực Tướng của tất cả Pháp, là Pháp Tánh hay Giới Tánh, Chân Như Tánh. Trong Vũ Trụ tất cả Pháp đều đồng nhất một Thể Tánh chân thật và Thể Tánh ấy thì dung thông vô ngại đối với tất cả Tánh. 
          ·  Sự vô ngại : là tất cả Pháp Sự đều đồng một Thể Tánh chân thật, đồng lấy Pháp Tánh làm Thể, toàn thể Sự là Pháp Tánh. Pháp Tánh thì dung thông vô ngại thì tất cả các Sự cũng đều vô ngại. 
          ·  Lý Sự vô ngại : Lý là Thể Tánh của Sự, Sự là Diệu Dụng của Lý Tánh. Cho nên Lý Tánh là Lý Tánh của Sự và Sự là Sự Tướng của Lý Tánh. Do đó Lý Tánh là Toàn Sự, tất cả Sự là Toàn Lý Tánh và Lý Sự dung thông nên gọi  là Lý Sự vô ngại.
           · Sự  Sự vô ngại : Tất cả Pháp Sự đều đồng một Thể Tánh và Thể Tánh thì viên dung vô ngại vô phân biệt, nên bất cứ một Sự đều dung nhiếp tất cả Sự và đều là tất cả SựTất cả Sự đều dung nhiếp vào một Sự và tức là một Sự : ‘‘Một là Tất Cả, Tất Cả là Một’’. Bốn cái Pháp Giới của Chư Phật và Bồ Tát này, Thiền Sư Huyền Giác thu gọn trong sáu câu kệ trong Chứng Đạo Ca : 
‘‘Nhất Tánh viên thông nhất thiết Tánh
   Nhất Pháp biến hàm nhất thiết Pháp
   Nhất Nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy
   Nhất thiết thủy Nguyệt nhất Nguyệt  nhiếp
   Chư Phật Pháp Thân nhập ngã Tánh
   Ngã Tánh đồng cộng Như Lai hiệp’’.
          Tánh Phật và Tánh của Chúng Sanh là bình đẳng là một và một Tánh dung thông với tất cả Tánh. Tánh Phật trùm khắp tất cả Pháp. Thực Tướng của Pháp lại là Không, là Vô Tướng, là Không Thân chính là Pháp Thân Phật. Tất cả Pháp thu nhiếp trong một Pháp, tức là  một Pháp. Một Pháp dung nhiếp tất cả Pháp, tức là tất cả Pháp. Do đó thấy một Pháp tức là thấy tất cả Pháp. Và “Cái Thấy” của Chư Phật và Bồ Tát là Cái Thấy dung thông vô ngại trên tất cả Lý và Sự, không phải nhờ vào cái Ánh Sáng vật chất (photon) của thế giới hữu vi bị giới hạn bởi tốc độ và nhiều ngăn ngại với những Không Gian “Siêu Hình” mà “Cái Thấy” bằng Tâm, thấy bằng Cái Rõ hay cái Ánh Sáng của Viên Ngọc Ma Ni, hay Ánh Sáng Bát Nhã, cho nên không còn phân biệt hay ngăn ngại với tất cả loại Không Gian kể cả sáu cõi Luân Hồi hay mười phương Chư Phật.
          Cũng như Bồ Tát “Quán Tự Tại” với cả Sáu Căn hỗ dụng đồng loạt là sáu Ban Thần Thông vi diệu trong đó Trí  là  Trí Tuệ Bát Nhã vượt cả Thánh Trí vì đã đạt tới Tâm Không, nên không còn ngăn ngại. 
“Lục Ban Thần Dụng Không bất Không
  Nhất lỏa Viên Quang Sắc phi Sắc”.
(Sáu Ban Thần Dụng Không chẳng Không
 Một điểm tròn sáng Sắc chẳng Sắc).
          Cửa Thiền tức cửa Không đã nhập Chánh Thọ, tức an trú nơi Niết Bàn vô sanh, nên mặc tình du hí Tam Muội, Tây cũng như Đông và du lịch khắp cả 10 phương Chư Phật chỉ trong một sát na và không ngăn ngại, nơi đó: “Một là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Bởi vì như một Vật đặt giữa nhiều “Tấm Gương” sẽ phản chiếu ra vô số Vật, “Gương Tâm” lại trùm khắp cả Hư Không do đó soi chiếu khắp cả Càn Khôn Vũ Trụ và Vũ Trụ Càn Khôn chỉ là vô số cái Bóng của cái “Một”.  
 “Tâm kính minh, giám vô ngại
   Quách nhiên oánh triệt châu sa giới
   Vạn tượng sum la ảnh hiện trung
   Nhất lỏa Viên Quang phi nội ngoại”.
                                      (Thiền Sư Huyền Giác).
 (Gương Tâm rõ, soi chẳng ngại
  Suốt thông chiếu khắp hà sa giới
  Muôn tượng um tùm, ảnh hiện trong
  Một điểm Viên Quang không nội ngoại).
          Tất cả Vũ Trụ bao la với hàng trăm tỷ Thiên Hà, với hằng sa Thế Giới khắp 10 phương, gồm sum la vạn tượng, sơn hà đại địa hiện Bóng um tùm trong chiếc “Gương Tâm”. Nó là Một Điểm Viên Quang chẳng trong chẳng ngoài nhưng trùm khắp cả Hư Không vô biên. Khi Mê chỉ là Một Điểm, khi Ngộ Một là Tất Cả”. Chẳng hạn như Một Hòn Bọt : khi Mê chấp cái Một là Thân ; khi Ngộ, Hòn Bọt tan thành cái “Một là Tất Cả”, tức là “Biển Cả” bao la là Thân. Một Chiếc Lá : khi Mê thì chấp cái tướng Lá là Thân , khi Ngộ thì cả cái Thân Cây cổ thụ to lớn mới là Thân. Đối với Chúng Sanh cũng vậy, khi Mê chấp cái Thân “Tứ Đại” này là Thân ; khi Ngộ thì cả Thân Tâm là Hư Không bình đẳng và hòa nhập với mọi Pháp Giới. Do đó Pháp Thân Phật là “Một cũng là Tất Cả” , Hư Không vô biên cũng là Pháp Thân Phật, là Như Lai không đến không đi, trùm khắp, có mặt khắp mọi nơi, chẳng nơi nào chẳng biết, chẳng nơi nào chẳng thấy (Lục Ban Thần Dụng). Cũng như Bồ Tát Quan Thế Âm có ngàn tay ngàn mắt, muốn ứng thân  nơi nào cũng được, hiện thân nơi Cõi Mê để cứu chúng sanh trong Mê, hóa thân vào Cõi Không Gian 4 chiều của loài Người, Không Gian 10 chiều trong những Black Holes (?!), Không Gian của các Cõi Trời, Cõi A Tu La, Cõi Ngạ Quỹ để cứu độ Chúng Sanh những nơi ấy. 
          Đối với Pháp Hữu Vi trong sáu cõi Luân Hồi là cõi Mê trong đó Không Gian và Thời Gian thì phân biệt và nhiều ngăn ngại. Còn đối với Chư Phật là Pháp Giới Sự Sự vô ngại, trong đó chẳng những cái Không Gian vô ngại mà Thời Gian cũng vô ngại và Không Gian dung thông với Thời Gian suốt ba thời : quá khứ hiện tại và vị lai
          Thí dụ Địa Cầu ( hay Hành Tinh A) cách Hành Tinh B một tỷ năm ánh sáng. Giả sử nhờ kính Thiên Văn tối tân mà người Địa Cầu có thể nhìn thấy Thế Giới Chúng Sanh ở Hành Tinh B. Tuy nhiên người Địa Cầu chỉ có thể thấy cái quá khứ cách đây một tỷ năm, vì cái ánh sáng (sóng photon) từ Hành Tinh B mang tin tức (data) phải mất một tỷ năm truyền đi trong Không Gian để đến Địa Cầu. Bây giờ người Địa Cầu vượt Không Gian trên Con Tàu Vũ Trụ tiến về Hành Tinh B. Không đặt vấn đề  Hiệu Ứng Không Gian và Thời Gian khi Con Tàu du hành với vận tốc cao và giả sử vận tốc Con Tàu nhanh hơn vận tốc ánh sáng gấp nhiều lần và không có giới hạn. Khi Con Tàu đến được điểm O bằng ½ khoảng cách AB thì nhìn thấy cái quá khứ 500 triệu năm của Chúng Sanh Hành Tinh B, đến được điểm I bằng ¾ AB thì thấy quá khứ 250 triệu năm, đến được điểm E bằng 9/10 AB thì thấy quá khứ 100 triệu năm... và cuối cùng Con Tàu đi tới đích là điểm B thì thấy được Chúng Sanh Hành Tinh B thời hiện tại. Tại điểm B trên Hành Tinh B, người quan sát trên Con Tàu Vũ Trụ nhìn ngược về Địa Cầu ( tức Hành Tinh A) thì không thấy Chúng Sanh đang sống ở thời hiện tại là năm 2011 mà chỉ thấy quả Địa Cầu còn sơ khai chưa có sự sống, toàn là núi lửa phun trào ở thời điểm quá khứ một tỷ năm ; trong khi lại nhìn thấy Chúng Sanh trên Hành Tinh B đang sinh hoạt thời hiện tại là năm 2011. 
          Bây giờ Con Tàu du hành ngược trở về Địa Cầu từ B đến A và quan sát Địa Cầu. Tùy theo vị trí trong khoảng cách BA mà nhìn thấy quá khứ lùi dần từ 1 tỷ năm ở điểm B, rồi 500 triệu năm, 250 triệu năm, 100 triệu năm...cho tới điểm đích là A và Con Tàu hạ cánh trên Địa Cầu, người quan sát trở về thực tại thấy Chúng Sanh sinh hoạt bình thường ở thời điểm năm 2011. Trong khi đó, người quan sát trên Con Tàu nhìn ngược trở lại Hành Tinh B thì thấy Chúng Sanh từ thời hiện tại năm 2011 tại vị trí B tăng dần về quá khứ 100 triệu năm, 250 triệu năm, 500 triệu năm và khi tới điểm đích là A trên Địa Cầu thì thấy đời sống quá khứ 1 tỷ năm trên Hành Tinh B toàn là người  tiền  sử giống như họ đang sống thật sự trong hiện tại năm 2011, nhưng thực ra họ đã qua đời gần một tỷ năm rồi ! 
          Đối với Địa Cầu ( tức Hành Tinh A) muốn từ thời gian hiện tại trở về quá khứ vô định ( ∞ ) thì du hành ra Không Gian rời xa điểm A rồi nhìn ngược trở lại Địa Cầu (bằng kính Thiên Văn cực đại và với điều kiện có ánh sáng truyền đi từ Địa Cầu). Tùy theo khoảng cách AXn = (AX0, AX1, AX2,...AX∞) mà nhìn thấy được đời sống quá khứ của Chúng Sanh trên Địa Cầu ở từng thời điểm Tn = ( T0, T1, T2, ....T∞) . Đối với Hành Tinh B từ quá khứ vô định muốn trở về hiện tại thì từ Không Gian vô định, Con Tàu Vũ Trụ du hành tiến gần về điểm B và tùy theo khoảng cách XnB = (X∞B,…X2B, X1B, X0B) mà nhìn thấy được đời sống của Chúng Sanh trên Hành Tinh B từ quá khứ vô định cho đến hiện tại ở từng thời điểm Tn = (T∞ ...,T2, T1, T0). 
          Bây giờ người Hành Tinh B muốn quan sát loài người sống trên Địa Cầu ở thời gian hiện tại là năm 2011. Họ không thể nhìn thấy được, phải đợi thời điểm vị lai là một tỷ năm sau : cái ánh sáng mang tin tức hình ảnh Địa Cầu năm 2011 truyền đi trong không gian tới được Hành Tinh B và khi đó người Địa Cầu đã trở thành quá khứ một tỷ năm ! Cũng khi đó Hành Tinh B sẽ chỉ thấy cái quá khứ trong cái hiện tại của cái vị lai một tỷ năm ! Một Vị Bồ Tát ở Hành Tinh B nhập định thấy được cái hiện tại của Chúng Sanh đang sống ở Địa Cầu năm 2011, vậy là Vị Bồ Tát này thấy được cái vị lai một tỷ năm đối với Chúng Sanh ở Hành Tinh B. Vị Bồ Tát đã chuyển được cái vị lai và cái quá khứ thành cái hiện tại mà người Hành Tinh B ( trong hiện tại năm 2011) không làm được. Trừ khi họ có thể du hành trên Con Tàu Vũ Trụ trong một thời gian rất ngắn với vận tốc cao hơn ánh sáng nhiều lần hoặc vô giới hạn, để có thể hạ cánh trên Địa Cầu bất cứ lúc nào họ muốn và nhìn thấy tức thời đời sống người Địa Cầu mà không phải mất một tỷ năm du hành trong Không Gian với vận tốc ánh sáng bị giới hạn chỉ có 300.000 kilomet/giây !? Đối với Khoa Học “lý thuyết ”, thì Con Người “có thể nhìn thấy đời sống của tất cả Chúng Sanh trong khắp Vũ Trụ ở ba thời : quá khứ, hiện tại, và vị lai. 
           Đối với quá khứ, dùng Con Tàu Vũ Trụ đuổi theo cái Ánh Sáng (sóng hạt photon) mang tin tức hình ảnh của từng Thế Giới đang truyền đi vô tận  ( ∞ ) trong Không Gian xuyên qua kính Thiên Văn có độ phóng đại cực lớn và tùy theo khoảng cách vị trí từ không (0) cho đến vô cực (0 → ∞) mà xác định từng thời điểm quá khứ theo ý muốn. 
           Đối với hiện tại thì Con Tàu Vũ Trụ đó phải “có mặt” khắp mọi nơi trong vũ trụ trong thời gian ngắn nhất được tính bằng ngày giờ (không phải kéo dài hàng tỷ năm) để có thể nhìn thấy cái hiện tại của tất cả Thế Giới. 
           Đối với vị lai, vì ngăn ngại Không Gian và Thời Gian mà cái hiện tại của Thế Giới này trở thành cái vị lai hàng tỷ năm của Thế Giới kia, do đó nếu “có mặt” khắp mọi nơi trong thời gian ngắn nhất thì có thể hóa giải cái vị lai thành cái hiện tại. Ngoài ra, cái hiện tại cũng là cái vị lai của cái quá khứ, và cái quá khứ này lại là cái vị lai của cái quá khứ trước đó. 
           Như vậy muốn nhìn thấy tất cả những cái quá khứ, hiện tại và vị lai của tất cả các cõi nước hay thế giới thì Con Tàu phải du hành xuyên vũ trụ trong thời gian cực ngắn để “có mặt” khắp mọi nơi : đuổi kịp cái Ánh Sáng photon mang tin tức (data) của tất cả các cõi nước. Tuy nhiên, sự “có mặt” nầy, thực tế Con Người không thể làm được vì lệ thuộc vào Nghiệp Lực của từng loài Chúng Sanh mà trong đó những định luật khoa học về vật lý, về vận tốc, về không gian và thời gian bị giới hạn và nhiều ngăn ngại. 
          Đối với Chư Phật 10 phương vì Pháp Thân của các Ngài thì vô tướng, bình đẳng và trùm khắp Hư Không vô biên, không lệ thuộc vào Nghiệp Lực hay bất cứ định luật Khoa Học nào nên dung thông  với tất cả Không Gian và Thời Gian :
 “Pháp Thân vô khứ vô lai trụ tịch oai nghi bất động ,
   Đức tướng phi không phi hữu ,ứng tùy cơ dĩ hằng châu”.  
  (Pháp Thân không đến không đi ,đứng yên oai nghi bất động,
   Đức tướng không phải không cũng không phải là có ,
   ứng tùy cơ sanh ra vạn pháp).
           Tất cả Pháp Giới là Pháp Thân Chư Phật hay Như Lai biến chiếu cho nên Chư Phật và Bồ Tát không cần phải đi đâu cả (vô khứ vô lai), không cần phải dùng Con Tàu Vũ Trụ để du hành mà chỉ ngồi yên trong “Thiền Định” và quán sát Thế Giới Chúng Sanh trong vô số các cõi nước bằng ngũ nhãn: (nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật Nhãn), quán sát bằng Tâm với Ánh Sáng Bát Nhã vi diệu. Vì Pháp Thân Như Lai trùm khắp Hư Không vô biên và tất cả Pháp Giới, nên có thể Hóa Thân hay Ứng Thân ở mọi nơi và mọi thời như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba đời nhiều kiếp là một niệm”. Trong giấc Chiêm Bao, Chúng Sanh cũng nhìn thấy Thế Giới trong Mộng bằng Tâm và Ánh Sáng của Tâm (khác với Ánh Sáng Mặt Trời), nhưng Tâm này là Tâm Vọng hay Tâm Mê điên đảo và bị hạn chế theo Nghiệp Thức! Còn Tâm mà Chư Phật dùng để quán sát hay Hóa Thân, Ứng Thân trong các cõi nước là Tâm mà Phi Tâm là cái Tâm : Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa trùm khắp tất cả Pháp Giới, thường chiếu thường soi rõ ràng chân thật, không nơi nào mà chẳng đến, không nơi nào mà chẳng biết, không nơi nào mà chẳng thấy và chỉ trong một Niệm là cả Pháp Giới Chư Phật hiển bày hay thâu nhiếp tất cả các cõi nước. 
          Đây là cái Pháp Giới bất tư nghì của Chư Phật và Bồ Tát, là Pháp Giới Sự Sự vô ngại: không còn ngăn ngại giữa Không Gian và Không Gian kể cả Không Gian của các cõi siêu hình như  Địa Ngục, Ngạ Quỷ, A Tu La…, giữa Thời Gian và Thời Gian kể cả ba đời quá khứ hiện tại và vị lai, giữa Không Gian và Thời Gian, nghĩa là Thế Giới không còn Không Gian và Thời Gian để phân biệt: có thể đặt vô lượng Thế Giới trong một hạt bụi vi trần, có thể thâu nhiếp vô số kiếp trong một niệm, có thể đặt quá khứ, hiện tại vào vị lai, có thể đặt vị lai quá khứ vào hiện tại. 
          Đối với cái Không Gian dung thông vô ngại nầy, Kinh Hoa Nghiêm nói:
 “Bao nhiêu vi trần trong thế giới
   Trong mỗi vi trần thấy các cõi
   Bửu quang hiện Phật vô lượng số
   Cảnh giới tự tại của Như Lai”.
          Có thể đem vô lượng núi Tu Di hay vô lượng Thế Giới nhét vào đầu sợi lông mà tất cả Thế Giới đó vẫn dung thông không ngăn ngại và thể tướng thì vẫn như cũ, không thay đổi:
“Vô lượng vô số núi Tu Di
  Đều đem vào một sợi lông
  Một thế giới để vào tất cả
  Tất cả Thế Giới để vào một
  Thể Tướng thế giới vẫn như cũ
  Vô đẳng vô lượng đều cùng khắp”.
          Về Thời Gian thì cũng dung thông vô ngại, văn kinh nói : 
“Kiếp quá khứ để hiện, vị lai
  Kiếp vị lai để quá, hiện tại
  Ba đời nhiều kiếp là một niệm
  Chẳng phải dài ngắn: hạnh giải thoát”.
          Tất cả kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai đều chỉ nhiếp trong một niệm, nghĩa là vượt Thời Gian, bởi vì Thời Gian chỉ là tương đối và nó chỉ có trong cõi Mê:
“Tôi hay thâm nhập đời vị lai
  Tất cả kiếp thâu làm một niệm
  Hết thảy những kiếp trong ba đời
  Làm khoảng một niệm tôi đều nhập” .
          Chẳng những vậy, mà Không Gian cũng dung thông với Thời Gian, và cái Không-Thời-Gian chỉ là tương đối, không có thật, nó bị ngăn ngại trong cõi Mê, đối với Chư Phật mười phương, nó không còn ngăn ngại: 
                                        “Khắp hết mười phương các cõi nước
                                          Mỗi đầu lông có đủ ba đời
                                          Phật cùng quốc độ số vô lượng
                                         Tôi khắp tu hành trải trần kiếp
                                         Trong một niệm tôi thấy ba đời
                                         Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử
                                         Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
                                         Như huyễn, giải thoát và oai lực”. 
          Vì không ngăn ngại trong khắp Không Gian các cõi từ mười phương Chư Phật cho đến các cõi Mê trong sáu ngã Luân Hồi, cho nên Phật, Bồ Tát có thể Hóa Thân hay Ứng Thân trong khắp các cõi để hóa độ chúng sanh. 
 “Vung tay bắt lấy Hư Không
   Rõ ràng nắm được Sắc hồng hà sa
   Trời Đâu Suất, cõi Ta Bà
   Phiêu du sáu nẻo sơn hà độ sinh ”.
                                          (Ngộ Thâm).
          Dù là dạo chơi khắp các Cõi 10 phương Chư Phật, nhưng chẳng thấy hình bóng của Chư Phật nơi nào cả vì ở đây là Phật Vô Tướng là Phật Gốc, còn Phật với 32 tướng tốt chỉ là Phật Ngọn; vì Phật có tới những ba thân: Ứng Thân, Báo Thân và Pháp Thân; ở đây Sắc mà Vô Sắc, Không mà Vô Không: Sắc tức Bát Nhã, Không tức Bát Nhã, không có cái Không cũng như không có cái Có, mà là cái Rốt Ráo Rỗng Suốt của Bát Nhã Ba La Mật Đa, cũng là cái Rỗng Thênh Không Thánh, cái Bổn Lai vô nhất vật, cái Hư Không - Rỗng Rang - Emptiness. Cái Hư Không vi diệu này khi cần hiển Sắc là ra Sắc, hiển Không là ra Không, tạo ra ba ngàn Thế Giới, dựng ra Không Gian Vũ Trụ Cõi Ta Bà, Cõi Trời, Cõi A Tu La, biến ra Black Holes với Không Gian 10 chiều, 20 chiều…Vô Vi biến hóa:‘‘Không tức thị Sắc’’.
          Tóm lại, từ cái “Không Gian - Space” 4 chiều của Cõi Ta Bà, 10  chiều của Black Holes…hay Không Gian của các Cõi Trời, Cõi A Tu La…đều là những Không Gian của Cõi Mê, do Tâm Mê vọng hiển mà duyên khởi, giống như Biển nổi ngàn Sóng và cái “Sắc Không” nhìn thấy nơi ấy cũng là Mê. Phải vượt lên khỏi những Không Gian của Thế Giới Mê ấy để đạt đến cái “Hư Không - Rỗng Rang - Emptiness” và phải phá vỡ luôn chính cái Hư Không này mới là đạt tới mục đích tối thượng là gặp được Đạo hay chứng Đạo, ngộ nhập Bát Nhã, đạt tới Niết Bàn Vô Trụ, Vô Sanh. Và khi đó: “Sóng tức là Nước” và “Sắc tức thị Không”. Thật ra khi đã Ngộ rồi thì cái Hư Không này cũng không có mà chỉ duy nhất là Tánh, Tự Tánh là cái Chơn Nhất Bát Nhã, cái Không rốt ráo, Tổ Tông của muôn loài chúng sanh và vạn hữu !
“Rõ ràng Trống Rỗng, Rõ ràng Không,
  Rõ ràng Không Huyễn tức Không Không.
  Nếu ai vỡ được Hư Không Huyễn
  Ta sẽ cùng nhau nhận Tổ Tông ” .
                                                       (Ngộ Thâm).
          Còn đối với cái Sắc, từ hạt Nguyên Tử duyên khởi sinh ra đủ thứ mọi vật chất và thành lập cả cái Vũ Trụ bao la này thì quả thật là vi diệu. Cả một Thế Giới vi mô vi diệu trong một hạt Nguyên Tử với những hạt electrons nhảy múa điên cuồng để thao tác làm ra vật chất (Sắc). Cả một Thế Giới Vũ Trụ vĩ mô vi diệu trong đó những Hành Tinh nhảy múa điên cuồng quay tròn để thành lập Vũ Trụ (Sắc). Tất Cả và Tất Cả cũng chỉ là Mê, là cái Bóng của Bát Nhã biến chiếu ra:  Không tức thị Sắc”. Và cái thấy “Sắc Không” này cũng là Mê. Phải vượt trên cái “Sắc Không” này: Sắc tức Bát Nhã, Không tức Bát Nhã và như thế “Sắc Không” là Một. Phải phá vỡ luôn cái Sắc, phá vỡ luôn hạt Nguyên Tử và khi đó cả Vũ Trụ sụp đổ trở về cái KHÔNG tuyệt đối của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là Sóng trở về Nước, Sắc trở về Không, là Chân Tông của Vạn Hữu.                                                            
                                  “Tác hữu trần sa hữu            
                                    Vi không nhất thiết không”.
                                    (Hạt Bụi nầy có thì Vũ Trụ nầy có
                                    Hạt Bụi nầy không thì Vũ Trụ nầy không có ).  
          Bởi vì hạt Nguyên Tử là một đơn vị nhỏ nhất và là căn bản vật chất của cả Vũ Trụ , nên Nguyên Tử tan hoại trở về Không, thì Vũ Trụ cũng tan hoại trở về Không:  
                  VT = ∑ sigma [Nguyên Tử] =  ∑(0) = 0 . 
           Mỗi Nguyên Tử là một niệm Vô Minh: niệm niệm duyên khởi trùng trùng sinh ra thế giới Mê là Vũ Trụ. Dứt niệm đạt đến Vô Niệm, Vô Tâm thì Nguyên Tử tận diệt và khi đó Vũ Trụ hay Thế Giới Mê tan hoại. 
 “Rõ ràng Sắc Sắc, Rõ ràng Không,
  Rõ ràng chẳng Sắc, tức Chân Tông.
  Nếu ai vỡ được Sắc trong Mộng
  Xin hãy cùng nhau luận Tổ Tông”. (Ngộ Thâm). 
          Tóm lại, mặc dù không thể thực hiện được bằng thực tế mà chỉ là lý thuyết suông, Con Tàu Vũ Trụ của Nhà Bác Học Einstein vượt Không  Gian bằng vận tốc ánh sáng sinh ra những hiệu ứng làm co giãn Không Gian và Thời Gian, giảm kích thước Con Tàu tới zero (0): “Sắc tức thị Không” và Con Tàu biến mất, chuyển khối lượng thành năng lượng: E = MC2 thì cái năng lượng này cũng là một hình thức khác của cái Sắc, tức là Sắc, không phải là cái “Sắc tức thị Không” của Bát Nhã Ba La Mật Đa! Ngay cả khi Con Tàu du hành vào Black Hole (Hố Đen) với Không Gian cong 10 chiều và mất tích trong Black Hole để chứng minh rằng Sắc tức thị Không thì chính cái thế giới Black Hole này là thế giới Hữu Vi, tuy không thấy được bên trong Black Hole là gì, nhưng người ta vẫn nhìn thấy cái Tướng của nó là Black Hole phân biệt trong Không Gian do đó Black Hole vẫn là Sắc và có Hình Tướng và như vậy những gì chứa bên trong Black Hole đều là Sắc, kể cả Con Tàu Vũ Trụ của Einstein bị mất tích trong đó. Rốt ráo, Sự đã không đạt mà chính cả Lý cũng không đạt được mặc dù chỉ là lý thuyết suông! Còn thấy Sắc Không thì vẫn còn là cõi Mê, vẫn còn trong Thế Giới Hữu Vi, không phải là cái lý Sắc Không của Bát Nhã Ba La Mật Đa.  
“Vô Không, Không bất hữu
  Vô Sắc, Sắc vô hình
  Sắc Không đồng quy nhất
  Tĩnh thổ đắc an ninh”. ( Bồ Đề Đạt Ma). 
 (Chẳng Không, Không chẳng có
  Chẳng Sắc, Sắc không hình
  Sắc Không về một mối
  Đất tịnh được an lành). 
          Thật ra với nhãn thức phàm phu, thấy Sắc là Sắc, Không là Không và phân biệt trên cái Tướng Sắc Không là chỉ thấy cái Bóng Trăng dưới mặt nước. Theo Tổ Đạt Ma thì chẳng có cái Không mà cũng chẳng có cái Sắc. Phải là cái Sắc mà chẳng Sắc, Không mà chẳng Không và Sắc Không qui về Một và cái Một rốt ráo hay là cái Chơn Nhất này mới là cái Chân Sắc hay là Chân Không đồng một Thể Tánh, là bất nhị, là cái Không “rốt ráo” của Chư Phật và Thiền Sư, là cái Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Do đó phải phá vỡ luôn cái Sắc đối đãi và cái Không đối đãi nhị nguyên này trong Giấc Mộng Ban Đêm cũng như Giấc Mộng Ban Ngày (nhắm mắt chiêm bao hay mở mắt chiêm bao) để đạt tới cái lý Sắc Không Rốt Ráo của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứng được cái Thân Thật là Pháp Thân hay cái Thực Tướng Vô Tướng không nhân không pháp, ngộ nhập Bát Nhã, đạt Niết Bàn vô trụ: 
“Sắc Không đồng qui NHẤT
  TĨNH THỔ đắc an ninh”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét