Trong đời sống, mỗi người chúng ta đều bị bao vây bởi những sự vật, tức là những hiện tượng ở chung quanh ta. Những sự vật ấy muôn hình vạn trạng, tỉ dụ như cây cỏ, núi sông, thân hình chúng sinh, bàn ghế, miếng thịt, ly rượu v.v.... tất cả tạo nên vũ trụ này. Con người thường đi lạc vào trong đó, tương tự như một thứ mê-đồ-ảo-phố và không biết đường nào ra khỏi. Và các sự vật tuy thỉnh thoảng có đem lại cho ta những thích ứng nho nhỏ, nhưng vì tính cách vô thường của chúng, thường gây cho ta những nỗi phiền não triền miên. Vậy chúng ta cằn tự hỏi : những sự vật đó là cái gì vậy, và chúng có một cội nguồn nào không?
Câu hỏi này, thực ra từ Ðông sang Tây, các hệ thống triết học hoặc tôn giáo đều đã đặt ra cùng đưa lời giải đáp. Lối giải đáp tuy nhiều nhưng tựu trung có thể xếp thành hai loại :
* Một số tư tưởng gia duy vật thiển cận, hoặc khoa học gia máy móc thì cho rằng vũ trụ này chẳng có một cứu cánh gì hết, nó chỉ được tạo nên do sự chuyển động hỗn độn của vô lượng phần tử vật chất, và sự chuyển động theo “ngẫu nhiên” ấy chỉ tuân theo luật tắc của đa số thống kê (loi des grands nombres) mà thôi.
* Lối giải đáp thứ hai gồm đa số những hệ thống triết học và tôn giáo lớn, tỉ dụ như Parmenide, Pythagore, ấn Ðộ giáo, Ki-tô giáo, Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo v.v.... Trận doanh này đề xướng rằng vũ trụ có một cứu cánh và một cội nguồn, cũng như có các luật tắc nghiêm minh của nó, và con người hoặc bất cứ chúng sinh nào cũng cần hiểu rõ những luật tắc đó mới mong thoát ra khỏi mê-đồ-ảo-phố của sự vật...
Tôi thiển nghĩ, lời giải đáp thứ hai là đúng. Vì sao?
Vì các bậc thành lập những nền tôn giáo lớn đều là những bậc thánh nhân, đã xa lìa vọng ngữ, đã khổ công thăm dò thực tại tuyệt đối, và các vị đã đồng thanh đề xướng như vậy.
Và cũng vì sự chuyền động theo ngẫu nhiên của các phần vật chất đều vấp phải luật tắc “Entropie”. Entropie có nghĩa là chiều hướng tự nhiên của sự chuyển động vật chất là tiến tới sự quân bình hóa về mức độ tinh lực. Trong khi những sự vật như cây cối hoặc con người đều là những thực thể rất bất-quân-bình-hóa về mức độ tinh lực (asymétrique) cho nên sự chuyển động ngẫu nhiên của vật chất không có một tí xác xuất (probabilité) nào để tạo thành con chó hoặc người được.
Hãy kiểm sơ qua những hệ thống giáo lý, để coi những lời giải đáp về cội nguồn sự vật :
** Ấn Ðộ Giáo quan niệm rằng cội nguồn của vũ trụ là một Ðại Linh thể gọi là Brahman. Linh hồn của con người là một Tiểu linh ngã hay Atman. Vũ trụ là một giấc mộng của Brahman, những thời kỳ thành-trụ hoại-không của vũ trụ là một nhịp thở ra, rồi thở vào của Brahman. Sự tu luyện của con người là tiến tới sự thể nhập của Tiểu linh ngã vào Ðại ngã. Cần ghi rằng những quan niệm của Ấn Ðộ giáo rất cao và hay, nhưng chưa được trọn vẹn bằng đạo Phật.
** Ki-tô giáo quan niệm rằng vũ trụ được sáng tạo bởi Thượng Ðế. Sự triển khai giáo lý của Ki-tô giáo còn sút kém so với Ấn Ðộ giáo vì quá thiên trọng về khía cạnh nhất nguyên thần hóa và không nói tới khía cạnh nhất nguyên phi thần hóa.
** Khổng giáo là một đạo lý về thế gian pháp, dạy cách vật trí tri, chính tâm thành ý và cách xử thế. Tuy là đạo lý thế gian, nhưng cũng không khuôn mình theo đạo học. Về cuối đời, do sự san định kinh Dịch, Khổng Tử đã mở một cửa ngõ vươn lên hình nhi thượng học, coi Thái cực hoặc Vô cực như cội nguồn của vạn vật.
** Lão giáo đã vươn lên một mực độ về hình nhi thượng học cao hơn Khổng giáo. Nếu Khổng giáo chú trọng vào bình diện ý thức của con người, thì Lão giáo đã đi sâu vào tiềm thức và muốn đạt tới chỗ vắng lặng rỗng rang gằn như tịch diệt của tâm thức. Lão giáo quan niệm cái vòng Vô cực như cội nguồn của vạn vật.
** Phật Giáo còn đi xa hơn nữa đi sâu vào cái Vô thức để rồi phá vỡ Vô thức và đạt tới cái Thực tại cuối cùng, rốt ráo vắng lặng tịch diệt. Nhờ sự thể nhập sâu vào những cơn tam muội lớn (lớn hơn những cơn tam muội của những vi giáo chủ khác), bậc Ðại giác là Phật đã chỉ rõ ràng cái Thực tại cuối cùng đó chẳng phải là cái gì khác, mà chính là Diệu Tâm. Ngoài Tâm ra, không thể có Phật. Diệu tâm này cũng chính là Chân không... Gọi là Chân không nhưng chính là Diệu hữu, vì từ Chân không này đã biến hiện ra tất cả chúng sinh cảnh giới và vũ trụ. Vì vậy, tất cả sự vật đều là có, nhưng không thực coù. Nó chỉ có, tương tự như những huyễn tượng, như một giấc chiêm bao, như một tuồng ảo hóa, vì nó đều do nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm mà khởi lên. . .TVHS
Chúng ta thường nói tới Tam giáo động nguyên. Nếu chân lý được coi như một cây đại thọ thì Khổng giáo là hoa lá, Lão giáo là cành cây, và Phật giáo chính là thân cây cùng gốc cây. Những kinh Ðại thừa của nhà Phật có bộc lộ khá nhiều những chân lý về sự cấu tạo Hoa tạng thế giới, về không gian, về thời gian, về sự chuyền động.
Ngày nay, khoa học càng ngày càng đi sâu vào lãnh vực cực tiểu và cực đại và càng đi sâu bao nhiêu càng chứng tỏ sự chân xác của những lời trong kinh Phật. Có thể nói rằng không có một sự khám phá mới nào của khoa học có thể đi ngược lại với lời kinh.
Cho nên, một nhà học Phật là Henri Percheron đã từng viết : “Ngày nay, đạo Phật du nhập Tây phương, và kẻ đồng minh lớn nhất của giáo lý Phật lại chính là khoa học...” Trên đây là một vài ý kiến đơn sơ để đỏng góp với bạn đọc, trong việc tìm hiểu con đường trở về Nguồn của các tôn giáo và của đạo Phật. .
Mới đọc kinh Ðại Thừa. Tôi bàng hoàng nhận thấy rằng: trong các kinh, chư Phật nhiều như cát sông Hằng, khác miệng nhưng đồng lời, đều khẳng định rằng “các cõi, các thế gian đều chỉ là BIẾN HÓA, các chúng sinh chỉ là biến hóa. Biến hóa của cái TỰ TÂM ấy. Dệt nên bởi những quang minh của Thần Lực cùngNguyện Lực của chư Phật cùng đại Bồ Tát, cũng như được dệt nên bằng quang minh Nghiệp lực của chúng sinh. Những quang minh của Nghiệp này, xoay vần miên viễn từ vô thủy, lần lần bị nặng nề bởi vọng tưởng vọng tình, nên xoay tròn hữu nhiễu, kết lại thành những hình hài chúng sinh cùng những cảnh giới y báo.”
Cho nên tất cả thế gian này chỉ là một trường biến hiện của Thức tâm, một trường nhân duyên trùng trùng khởi lên, một trường ào ảnh... chẳng phải hư, nhưng cũng chẳng phải thực.
Những điều đó thường được giảng dạy trong các kinh, nhất là kinh Hoa Nghiêm. Tôi bàng hoàng vì lời kinh xưa không ngờ rằng lại rốt ráo xác nhận cái khả năng BIẾN HÓA KHÔNG CÙNG của Tâm thức; vì đó chính là giấc mơ thưở nhỏ của tôi. Từ đó tôi say mê kinh Ðại Thừa và chính chân lý ấy làm tôi sống. Ðôi khi tôi trộm nghĩ rằng: một người chỉ cần có một niềm TÍN GIẢI sâu chắc vào chân lý Duy Tâm sở hiện, thì có thể đi qua các cõi, các kiếp một cách thong dong yên ổn, tuỳ duyên kiếp ứng.... Vì sao? Vì đó là giáo lý tối thượng về Ðạo lý vận hành của pháp giới này và các vị Quỷ thần vương đều phải kính trọng.
Mới đọc kinh Ðại Thừa. Tôi bàng hoàng nhận thấy rằng: trong các kinh, chư Phật nhiều như cát sông Hằng, khác miệng nhưng đồng lời, đều khẳng định rằng “các cõi, các thế gian đều chỉ là BIẾN HÓA, các chúng sinh chỉ là biến hóa. Biến hóa của cái TỰ TÂM ấy. Dệt nên bởi những quang minh của Thần Lực cùngNguyện Lực của chư Phật cùng đại Bồ Tát, cũng như được dệt nên bằng quang minh Nghiệp lực của chúng sinh. Những quang minh của Nghiệp này, xoay vần miên viễn từ vô thủy, lần lần bị nặng nề bởi vọng tưởng vọng tình, nên xoay tròn hữu nhiễu, kết lại thành những hình hài chúng sinh cùng những cảnh giới y báo.”
Cho nên tất cả thế gian này chỉ là một trường biến hiện của Thức tâm, một trường nhân duyên trùng trùng khởi lên, một trường ào ảnh... chẳng phải hư, nhưng cũng chẳng phải thực.
Những điều đó thường được giảng dạy trong các kinh, nhất là kinh Hoa Nghiêm. Tôi bàng hoàng vì lời kinh xưa không ngờ rằng lại rốt ráo xác nhận cái khả năng BIẾN HÓA KHÔNG CÙNG của Tâm thức; vì đó chính là giấc mơ thưở nhỏ của tôi. Từ đó tôi say mê kinh Ðại Thừa và chính chân lý ấy làm tôi sống. Ðôi khi tôi trộm nghĩ rằng: một người chỉ cần có một niềm TÍN GIẢI sâu chắc vào chân lý Duy Tâm sở hiện, thì có thể đi qua các cõi, các kiếp một cách thong dong yên ổn, tuỳ duyên kiếp ứng.... Vì sao? Vì đó là giáo lý tối thượng về Ðạo lý vận hành của pháp giới này và các vị Quỷ thần vương đều phải kính trọng.
Nghiêm Xuân Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét