LỜI KHUYÊN CỦA NGÀI LONG THỌ
(Thư Gởi Cho Vua Gautamiputra)
(I)
TỔNG QUÁT VỀ ĐỨC HẠNH
Lời khuyên chung cho tăng sĩ và cư sĩ
1/ Sáu
Điều Ghi Nhớ: Sáu việc người Phật tử cần nhớ nghĩ: Phật,
Pháp, Tăng, Thí (Bố Thí), Giới, Thiên (chư Thiên.)
2/
Sống Vững Chắc Trong Mười Giới: Luôn luôn thực hành mười
hạnh thiện (Thập Thiện) bao gồm trong Thân, Ngữ và Ý. Khong
uống rượu. Ưa th1ch một đời sống lành mạnh.
Biết
rằng sự giàu sang không vững bền và không có tự tánh. Nên
cúng dường và hiến tặng chư tăng, bà la môn, người nghèo và
bạn hữu. Với đời sau, không có người thân nào bằng được sự
bố thí.
Cần
thực hành giới luật. Nó không hư họai, không sai lầm, không
xen tạp, không nhiễm ô. Giới là nền tảng cho mọi đức hạnh,
giống như đất nâng đỡ cho các lòai hữu tình và vô tình.
3/
Thực hành Sáu Ba La Mật: Làm phát trỉển những đức hạnh rốt
ráo: bối thí, giữ giới, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ để
trở nên bậc chiến thắng vĩ đại vượt qua bờ bên kia của biển
lớn sống chết.
Lời khuyên riêng cho cư sĩ
1/
Kính trọng Cha Mẹ:
Những
người thờ phụng cha mẹ cùng giòng giống với những bậc Phạm
Thiên và những bậc Thầy. Kính trọng cha mẹ sẽ tạo được tiếng
thơm và sẽ thăng tiến đến những cảnh giới cao cả hơn.
2/
Trai giới trong những ngày đặc biệt:
Không
sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, ăn không
đúng thời, ham thích giường ghế cao, ham thích ca hát, múa
và hoa. Giữ tám đức hạnh nầy, là đức hạnh của các vị A La
Hán, có thể bằng lời nguyện ban cho người khác hình dáng
đáng ưa của chư thiên cõi dục.
3/ Trừ
bỏ những lỗi lầm của tâm:
Coi là
kẻ thù những tính chất sau đây của tâm: keo kiệt, xảo quyệt,
dối trá, tham luyến của cải, lười biếng, kiêu mạn, ham muốn
tình dục, thù ghét, kiêu căng về giai cấp, hình dáng, học
vấn, tuồi trẻ và quyền lực.
4/
Chánh niệm:
Chánh
niệm là nguồn gốc của bất tử, không chánh
niệm là nguồn gốc của sanh tử. Do đó để phát
triển đức hạnh, hãy tinh tấn ở trong chánh niệm.
Những người lúc trước không có chánh niệm, nhưng
vể sau có chánh niệm như Nanda, Agulimala, Ajatasatru
và Udayana, cũng sáng rỡ như mắt trăng ra khỏi đám
mây.
5/
Nhẫn nhục:
Không
có sự sám hối tôi lỗi nào hơn đức nhẫn nhục,
do đó đứng để cho lòng sân hận có dịp sinh khởi.
Đức Phật dạy rằng bõ lòng sân hận sẽ đạt đến
sự bực không thối chuyển.
"Tôi
bị những người nầy lợi dụng, bị họ trói, bị
họ đánh bại, họ giật lấy tài sản của tôi."
Ôm giữ những tâm thù hận đó sẽ phát sanh những
tranh chấp. Người không ôn giữ tâm thù hận ngủ
một cách ngon lành.
6/
Chánh hạnh nơi thân, ngữ và ý:
Tâm
ý giống như hình vẽ trên nước, trên đất hay
trên đá. Những người nhiều nhiễm nên thực hành
cách đầu tiên. Những người cầu đạo nên thự
c hành theo cách sau cùng.
Đức
Điều Ngự đã nói: Ba lọai lời nói là dịu dàng,
chân thật và sai lầm giống như mật, hoa và đồ
bẩn. Hãt từ bõ cái sau cùng.
Có
bốn hạng người: đi từ ánh sáng đến ánh sáng
hơn, đi từ bóng tối đến bóng tối hơn, đi từ
ánh sáng đến bóng tối, đi từ bóng tối đến ánh
sáng. Hãy là hạng người đầu tiên.
7/
Biết bản chất của những người cộng sư:
Nên
hiều bàn chất con người giống như trái xoài: chưa
chín nhưng có vẻ chín, chín nhưng có vẻ chưa chín,
chưa chín và biểu lộ sự chưa chí, chín và biểu
lộ sự chín.
8/
Từ bỏ sự tham muốn vợ của người khác:
(a)
Kiểm sóat giác quan:
Không
nhìn ngó vợ của người khác. Nếu đã thấy, hãy
suy nghĩ tùy theo tuổi của họ: như mẹ, như em
hay chị. Nếu ham muốn vẫn còn thì hãy thiền quán
về bất tịnh.
Hãy
giữ gìn tâm như giữ gìn sự học vấn, đứa con
trai, kho tàng hay mạnh sống của mình. Hãy đem tâm
ra khỏi sự ham muốn khoái lạc như rút lui khỏi
con rắn độc, thuốc độ, vũ khí, kẻ thù hay lửa.
Đấng
Điều Ngự nói rằng: Tham muốn giông nhu trái
kimbu, chúng là nguyên nhân của thống khổ. Những
xích sắt nầy trói những kẻ mê muội trong ngục
tù sống chết cho nên hãy từ bỏ.
Giữa
người chiến thắng những ham muốn thoáng chốc và
vô thường của giác quan và người chiến thắng
quân địch ở chiến trướng, người trí biết rằng
người trước là người chiến thắng vĩ đại hơn
nhiếu.
Hãy
xem thân thể của một cố gái trẻ không trang sức
(và áo quần). Nó giống như một chiếc bình chứa
những đồ bần phủ bằng một lớp da, thật khó
lòng ưa thích với mùi hôi và những chất dơ bẩn
thoát ra từ chín cửa.
Giống
như người bịnh cùi hòan toàn nương tựa vào lửa
có được chút niềm vui, bàm víu vào những ham
muiốn sẽ không đem lại niềm vui.
(b)
Nhỗ sạch những nguyên nhân của tham luyến:
Hãy khéo léo nhận thức
đúng sự vật bằng trí tuệ cứu cánh. Đó là sự tu tập không gì
sánh.
Người thuộc gia cấp cao,
hình dáng xinh đẹp và có học thức nhưng không đươc tôn trọng
nếu không có trí tuệ và đạo đức. Người có trí tuệ và đạo đức
nhưng không có những điều kiện kia vẫn được tôn kính.
Tám tính chất của thế
gian: được, mất, chê, khen, xưng tụng, chế diễu, khổ, sướng
không đáng để trong tâm.
Không tạo tội lỗi dù vì
lợi ích cho ba la môn, tăng sĩ, trời thần, khách, cha mẹ,
con cái, hoàng hậu hoặc những người hầu vì không ai có thể
chia xẻ kết quả địa ngục với ta.
Dù có những hành vi tội
lỗi không kết thành quả tức thì, chúng sẽ kết thành quả sau
khi chết.
Đức tin, giới luật, bố
thí, học hỏi, biết tự hổ thẹn, biết hổ thẹn với người khác
và trí tuệ là bảy tài sản toàn bích. Hãy xem những tài sản
thông thường là không có giá trị.
Hãy từ bỏ sáu việc việc
làm mất phẩm giá và dẫn đến tái sanh trong những cảnh giới
xấu: hoang phí, lễ hội, lười biếng, chơi với bạn xấu, uống
rượu, đi đêm (đi lang thang không mục đích.)
Bậc Thấy của trời và
người nói rằng đức hài lòng là sự giàu có lớn lao nhất do đó
hãy luôn luôn hài lòng. Hài lòng với sự không giàu có, người
ta thực sự giàu có.
Như loài rồng chịu khổ
theo số đầu chúng có, con người khổ theo số tài sản mình sở
hữu. Tuy nhiên người ít ham muốn thì không như vậy.
Lời khuyên tăng sĩ và cư sĩ tu tập Pháp để sinh cõi Trời và
giải thoát
1/ Tổng quát:
Coi thực phẩm như thuốc,
không ghét, không tham. Ăn uống không vì sự cường tráng hay
sắc đẹp mà chỉ để duy trì mạng sống.
Hãy chỉ ngủ một cách tỉnh
táo giữa đầu đêm và cuối đêm thì thời gian ngủ vẫn không vô
ích (cho sự tu tập.)
Thiền định đúng đắn Bốn
Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả). Dù không đạt đến sự giác ngộ
tối thương thì cũng sẽ đạt được sự phúc lạc của cảnh giới
Phạm Thiên.
Từ bỏ những ham muốn, vui
và khổ của cõi dục nhờ Bốn Thiền Định (Tứ Thiền), những cảnh
giới Pham Thiên, Quang Âm Thiên, Biến Tịnh Thiên và Quảng
Quả Thiên sẽ đạt đến.
Nên nhớ một lượng muối
nhỏ có thể làm mặn một lượng nước nhỏ mà không thể làm mặn
nước sông Hằng. Giống như vậy, một tội lỗi nhỏ sẽ không làm
hỏng một cội công đức lớn.
Năm điều sau đây là những
tên trộm cướp công đức: Dối trá, tâm tổn hại, hôn trầm, tham
đắm và nghi ngờ.
2/ Pháp Giải
thoát:
Siêng
năng thực hành năm sức mạnh (năm lực): Đức tin, Tinh tấn, Chánh
niệm, Thiền định và Trí Tuệ (Tín, Tấn, Niệm,
Định, Huệ.) Đó là năm sức mạnh (trên con đường
giải thóat).
"Những
hành động do chính tôi tự tạo ra là nguyên nhần
không thoát ra khỏi được già. bịnh, chết, chia
ly." Lòng kiêu mạn sẽ ngăn cản sự khổi lên
tư tưởng nầy, ngăn cản con đường tu sửa.
Hãy
giữ Chính Kiến (cái thấy đúng) nếu muốn sinh vào
những cảnh giới cao thượng và giải thoát. Ch o
dù làm nhiều việc phước thiện nhưng với tà kiến
thì cũng sẽ bị những hậu quả xấu xa.
Hãy
nhận biết rằng thực sự con người vốn không có
hạnh phúc, vô thường, không có tự ngãi và bất
tịnh. Kẻ không có chánh niệm không thấy bốn điều
này sẽ bị hủy họai.
Sắc
không có tự ngã, tự ngã không có sắc, tự ngã
không ở trong sắc, sắc không ở trong tự ngã. Bốn
uẩn kia cũng đều rỗng không như vậy.
Uẩn
không sanh ra từ một dịp may, từ thời gian, từ
tự nhiên, từ nội tại, từ thượng đế, cũng
không phải không nguyên nhân. Chúng sanh ra từ vô
minh và khát ái.
Ba
điều trói buộc và chướng ngại con đường đưa
đến giải thóat: chấp cứng vào đạo đức và sự
khổ hạnh, cái thấy sai lầm về tự ngã và lòng
nghi ngờ.
VIệc
giỏai thoát chỉ tùy thuộc vào bản thân, không có
sự giúp đỡ nào của người khác làm được. Do
đó hãy chiêm nghiệm thực hành bốn chân lý vi diệu
bằng sự học hỏi, giữ giới và thiền định.
Luôn
luôn điều phục mình trong giới luật tối thượng,
trí huệ tối thượng và thiền định tối thượng.
Trên một trăm năm mươi giới toàn bộ ở trong ba
điều nầy.
Chánh
niệm về thân là con đường độc nhất đưa đến
giải thóat. Mấy chánh niệm, mọi đức hạnh sẽ
bị hủy hoại, do đó hã cố gắng giữ vững.
3/ Rút tỉa lợi lạc:
Cuộc đời vô thường, đầy
những bất trắc giống như bong bóng nước gặp gió, thờ ra mà
còn có thể thở vào, sau giấc ngủ mà có thể trở dậy được có
thể nói là những điều kỳ diệu.
Nên biết rằng thân thể
không có một chút bản chất nội tại nào nầy rối cuộc rồi sẽ
hủy hoại và bíến mất, tất cả mọi yếu tố thành sẽ phân tán
hết, để trở thành tro bụi, khô đi hoặc phân hủy thành những
thứ hôi thối, dơ bẩn.
Trái đất, núi Tu Di và
đại dương còn bị thiêu rụi khi bảy mắt trời xuất hiện vào
thời hoại kiềp, huống chi con người.
Vì mọi sự đều vô thường,
không có tự ngã, không có chỗ nương tựa, không kẻ bảo vệ,
không nơi an trú, hãy khởi tâm vượt thoát ra khỏi sanh tử.
Hãy làm cho cuộc đời mình
có được lợi lạc bằng việc tu tập Thánh đạo vì đuợc sanh làm
thân người còn khó hơn việc con rùa chui vào một lỗ trên
mảnh trôi bình bồng giữa đại dương.
Được sinh làm thân người
mà còn phạm tội lỗi thì còn ngu si hơn mửa vào bình vàng nạm
trân bảo.
Bậc Đại Trí nói rằng
nương tựa vào bạn đạo sẽ giúp thành tựu Thánh quả. Có rất
nhiều người được đến an vui nhờ nương vào đấng Điều Ngự.
(II)
KHỞI TÂM KINH SỢ SANH TỬ
Hãy sợ hãi sanh tử, nó là
nguồn gốc của những khổ đau như cầy không được, già, bịnh,
chết v.v...
Không có sự bền vững
trong sinh tử, trong đó cha có thể trở thành con, mẹ trở
thành vợ, kẻ thù trở thành bạn, hay ngược lại.
Sữa mà một người đã uống
còn nhiều hơn nước trong bốn biển lớn. Người đi theo con
đường thế tục sẽ phải tiếp tục uống.
Xương của một người nếu
chất thành một đống sẽ bằng hay cao hơn núi Tu Di; và số
lượng những người mẹ của một người còn nhiều hơn số hạt bụi
của cả trái đất.
Dù cho có sinh làm vua
cõi Trời như Trời Đế Thích rồi cũng sẽ bị đọa xuống nhân
gian vò nghiệp lực thuở trước. Dù đã có lúc đã là một vị chú
tể trong vũ trụ, cũng có lúc sẽ trở thành người tôi tớ cho
những người tôi tớ trong luân hồi.
Trãi qua sự hưởng thụ thú
vui vuối ve thân thể, ngực vú của những trinh nữ cõi trời,
rồi cũng sẽ trãi qua sự xúc chạm khủng khiếp của những hình
cụ làm tan nát những bộ phận của cơ thể trong địa ngục.
Trên đỉnh núi Tu Di, nơi
bàn chân chạm vào mặt đất với cảm giác dễ chịu và khóai
thích, hãy nghĩ đến sự khổ khi bước đi trên than đỏ, trên
những thân xác đã thối rữa.
Đã có lần dạo chơi trong
những khu vượn đẹp đẽ, chơi đùa vui vẻ với những trinh nữ
hầu hạ ở cõi trời, rồi cũng có lấn chân, tay, tai, mũi bị
cắt đứt bởi những chiếc lá sắc như lưỡi gươm trong vười địa
ngục. Đã có lấn vào trong sông Mandakini đấy sen vàng đẹp đẽ
của tiên nữ, rồi cũng có lúc sẽ vào sông Vaitarani muối nóng.
Đã có lúc hưởng được hạnh
phúc của các vị Trời cõi dục hay sự bình lặng của cọi Phạm
Thiên, sự tương tục của nghiệp lại sẽ làm nhân cho lửa địa
ngục A Tỳ. Đã có lúc đạt đến trạng thái của ánh sáng mắt
trời, mặt trăng, soi tỏa khắp thế gian bắng ánh sáng của
thân thể, rối lại trở lại trong bóng tối dày đặc không thể
thấy ngay cả bàn tay của chính mình.
Do đó hãy thắp sáng ngọn
đèn ba nhóm giới hạnh. Ngược lại, sẽ phải đi vào trong bóng
tối dày đặc không có ánh sáng mặt trời hay mặt trăng nào có
thể xuyên vào.
Những chúng sanh phạm tội
sẽ không ngừng chịu khổ trong những địa ngục: Samjiva,
Kalasutra, Pratapana, Samghata, Raurava, Avici v.v...
Ở đó có kẻ bịp ép như ép
dấu mè, có kẻ bị nghiền thành bột, có kẻ bị xẽ bằng cưa, có
kẻ bị bữa bằng rìu.
Có những kẻ bị rót đồng
sôi vào miệng, lại có những kẻ bị thương có ngạnh nung đỏ
đâm vào.
Có những kẻ bị đám chó
nanh sắt hung dữ vậy cắn; có những kẻ bị đám quạ móng vuối
dữ tợn, mõ nhọn bằng sắt nhào xuống mổ; có những kẻ dùng làm
thức ăn cho đám giòi bọ, ruồi nhặng và ong, đau đớn kêu la
khi chúng rút rỉa tạo thành những vết thương lớn.
Có những kẻ bị đốt cháy
trong những đống lửa; những kẻ khác nấu trong những chiếc
vạc sắt.
Nghe những sự khổ không
cùng của địa ngục, những kẻ tội lỗi cứng đầu không chút rùng
động, nhưng có biết đâu rằng chỉ khòanh khắc của một hơi
thở cũng sẽ đưa họ vào địa ngục. Hãy nghĩ đến, nhìn xem những
hình ảnh địa ngục, đọc, nhớ, nghe về chúng để khởi tâm sợ
hãi.
Giống như chấm dứt
lòng tham ái chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc cao cả nhất, sự đau khổ
trong địa ngục A Tỳ là sự đau khổ nhất trong mọi sự
đau khổ.
Dù mỗi ngày bị đâm ba trăm ngọn giáo trong thế gian nầy cũng
chi đau khổ bằng một phần nhỏ trong địa ngục.
Sự đau khổ trong địa ngục
có thể kéo dài hăng trăm triệu năm khi mà sức mạnh của
nghiệp xấu chưa hết.
Do đó hãy cố gắng khéo
léo không tạo những lỗi lầm dù nhỏ như hạt bụi, hạt giống
sinh ra những hậu quả xấu xa, qua thân, miệng và ý.
Những người không giữ đức
hạnh sẽ là nguyên nhân sinh vào những nơi chốn chịu nhiều sự
thống khổ dữ tợn như ăn thịt nhau, bị giết, trói, hành hạ
v.v...
Loại quỉ đói bị khổ đau
liên tục không dừng, không giảm do không giờ được thỏa mãn
điều ham muốn. Chúng phải chịu đựng sự sợ hãi, đói, khát,
lạnh, nóng và mệt ngất.
Có những kẻ quá đói mà
không thể ăn dù một miếng đồ ăn thừa và dơ bẩn vì chúng có
cái miệng nhỏ như lỗ kim mà bụng thì lớn như trái núi.
Có những kẻ thân thể trần
truồng với chỉ da và xương như phần ngọn của cây thốt nốt
khô. Có những kẻ vào ban đêm, từ miệng phóng ra những ngọn
lửa, cố nuốt những thức ăn là cát cháy đỏ lọt vào trong
miệng.
Có những kẻ đối với những
thức ăn dơ nhớp như máu, mủ, phân... cũng không thể kiếm
được, chúng đánh đánh vào mặt nhau, ăn mủ từ những bứu cổ
sinh ra từ cổ củ chính mình.
Với những kẻ đó, mặt
trăng cũng gây nóng như trong nắng hạ, mặt trời cũng gây
lạnh của mùa đông. Khi nhìn lên cây, họ thấy cây không có
trái, khi nhìn những giòng sông, họ thấy nước sông khô cạn.
Chị sự khổ đau không dứt
nhưng bị những nghiệp do những hành vi xấu trói chặc, có
những kẻ không chết được cho dù năm ngàn hay mười ngàn năm.
Đức Phật dạy: "Dù những
sự chịu khổ của càc loài quỷ đói khác nhau, chúng chỉ là một,
nguyên nhân là keo kiệt, bỏn xẻn và đê tiện."
Lại nữa, những vui thú ở
những cõi trời to lón bao nhiêu thì sự đau khổ của cái chết
và sự chuyển thân lại càng lớn lao. Do đó những bậc trượng
phu không nên mong muốn sinh vào cõi trời vì nó cũng sẽ có
ngày chấm dứt.
Khi sắp hết phước cõi
trời, tướng mạo trở nên xấu xí, không muốn ngồi yên, hoa
trang sức tàn héo, áo quần dơ dáy, mổ hôi xuất ra, những
điều chưa từng xảy ra đối với họ. Đó là năm triệu chứng báo
hiệu cái chết ở cõi trời.
Nếu không còn phước khi
chuyển thân từ cõi trời, họ có thể sẽ tái sinh trong lòai
thú, quỷ đói hay vào địa ngục.
Còn trong thế giới bán
thiên, tâm trí các vị a tu la, vì nghiệp lực ngăn che, luôn
luôn đau khổ vì lòng ganh tị tự nhiên đối với các vị trời.
Do đó sanh là là bất hạnh,
dù sanh vào cõi trời, loài người hay địa ngục, quỷ đói hoặc
thú vật. Do đó quán xét rằng sanh là điều không lành mạnh.
(III)
QUÁN SÁT TÍNH CHẤT CHÂN THIỆN CỦA NIẾT BÀN VÀ TU TẬP ĐỂ ĐẠT
ĐẾN NIẾT BÀN
(1) Lời
Khuyên Tổng Quát:
Như dập tắt ngọn lửa cháy
trên áo quần hay trên đầu, hãy nỗ lực để chấm dứt sự tái
sanh bằng những tu tập từ bỏ. Không có hướng đến nào tốt đẹp
hơn hướng đến nầy.
Hãy bằng Giới Định Huệ
đạt đến Niết Bàn an nhiên thanh tịnh, không tuổi tác, không
già chết, không cạn kiệt, không tùy thuộc đất, nước, gió,
lửa, mặt trời, mặt trăng.
Thực hành bảy chi giác
ngộ (bảy phần bồ đề): 1/ Trạch pháp (phân biệt chánh tà thật
giả 2/ Tinh tiến 3/ Hỷ (vui trong pháp)4/ Khinh an (thân tam
nhẹ nhàng) 5/ Niệm (nghĩ nhớ trong sạch) 6/ Định 7/ Xả (không
bị nhiễm ô do bên trong và bên ngoài) là con đường tích tập
công đức đưa đến Niết Bàn.
Không có định thì không
có huệ và ngược lại. Người có hai đức tính nầy sẽ biến đại
dương sanh tử thành một vốc nước nhỏ như nước đọng trong
vũng chân bò.
Đức Phật dạy từ vô minh
sanh ra hành (họat động của ý chí, tạo nghiệp), từ hành sanh
ra thức (tâm thức, kết sinh thưc), thức sanh danh sắc (tâm,
sinh lý của một chúng sanh), rối tiếp tục sanh lục nhập (sáu
giác quan), xúc (sự giao tiếp), thọ (cảm giác thích, ghét),
ái (ham muốn), thủ (bám giữ), hữu (hiện hữu), sinh (sinh ra),
lão tử (già chết). Khi có sinh thì những khổ đau dồn dập kéo
theo: lo buồn, bệnh, già, cầu không được, chết... Nế7 chấm
dứt sanh mọi khổ đau sẽ dừng lại.
Chân lỳ về Duyên Sanh là
kho tàng sâu xa quí báu của đấng Điều Ngự. Kẻ nhìn thấy đúng
đắn chân lý nầy là thấy được Phật tối thắng, bậc Chánh Biến
Tri.
Để có được đời sống an
vui, hãy thực hành con đường Bát Chánh: Chánh Kiến (thấy
đúng), Chánh Tư (suy nghĩ đúng), Chánh Ngữ (lời nói chân
chánh), Chánh Nghiệp (không trái giới luật), Chánh Mạng (nghề
nghiệp chân chính), Chánh Tinh Tấn (cố gắng làm việc lành,
bỏ việc ác), Chánh Niệm (nhớ nghĩ chân chánh về thân, thọ,
tâm, pháp), Chánh Định (không bị lôi kéo vào tà thiền).
Sanh là khổ, tham ái là
nguồn gốc của khổ, con đường thoát khổ là con đường Bát
Chánh. Hãy luôn luôn quán sát và thực hành Bốn Chân Lý Cao
Cả (Tứ Diệu Đế.) Dù sống giữa sự giàu sang sung túc, nhở
hiểu biết về Bốn Chân Lý, cũng sẽ vướt qua được những sự
nhiễm ô.
Người hiẩu rõ và thể
nghiệm được Chân lý không phải là những người từ trên trời
xuống hoặc từ trong đất vọt ra. Trước kia họ cũng là những
người bị nhiễm ô ràng buộc.
Cũng cần nói thêm rằng
đức Thế Tôn đã nói rằng tâm là gốc của mọi đức hạnh do đó
hãy điều phục tâm.
Những lời khuyên trên đây
dù còn có thể khó thực hành đối với những vị tăng sống đơn
độc. Tuy nhiện hãy cố gắng để làm cho cuộc sống có ý nghĩa
bằng những tu tập đã đề cập.
(2)
Khuyên Phát Nguyện Đại Thừa:
Vui theo công đức của tất
cả chúng sanh và hồi hướng tất cả công đức của thân miếng ý
với mục đích đạt đến quả Phật, và điều phục được thân và tâm.
Nhờ cống đức đó sẽ được tái sanh vô số lần trong cõi trời và
người.
Hãy sinh ra như Bồ Tát
Quán Thế Âm, bằng đức hạnh, cứu giúp những kẻ khốn khổ, phá
tan những sự khổ về bịnh, già, tham và sân. Hãy như đức A Di
Đà an tru vô lượng kiếp để cứu giúp chúng sanh.
Từ trí tuệ, giới hạnh và
bố thí, chiến thắng dục lạc cõi trời và cõi người, đạt được
quyền năng tối thượng, dập tắt nỗi sợ hãi và sự chết của vô
số chúng sanh, danh tiếng được lan truyền khắp cõi trời và
cõi người. Bây giờ hãy đạt đến cảnh giới không sợ, không già,
an tịnh, chỉ là danh và siêu xuất.
(Hết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét