DUY MA CẬT VÀ LÝ TƯỞNG NGƯỜI CƯ SĨ
Daisaku Ikeda (The First
Mileage of Buddhism)
Nguyên Hảo dịch
NGÀI DUY MA CẬT (VIMALAKIRTI)
Với dự khởi dậy của phong trào
Ðại Thừa, Phật Giáo trải qua tiến trình trẻ trung
hóa. Vai trò then chốt của tiến trình nầy là những
người lãnh đạo trong cộng đồng cư sĩ, và vì vậy tôi
muốn để một ít thì giờ đề cập đến cách sống và sự
đóng góp của họ cho Phật Giáo thời trong kỳ xa xưa
đó. Việc nầy có thể được hoàn tất tốt nhất bằng cách
tập trung vào nhân vật Duy Ma Cật (Vimalakirti) như
được diễn tả trong cuốn Kinh Vimalakirti-nirdasha (Duy
Ma Cật Sở Thuyết Kinh) và thường được gọi là Kinh
Duy Ma Cật.
Duy Ma Cật, một thương gia
giàu có ở thành Vaisali (Tỳ Xá Ly), có biện tài,
giỏi tranh luận, có trí nhớ phi thường - ông là một
nhân vật có sức quyến rũ và bí ẩn không cùng. Không
giống như những đại đệ tử của Ðức Thích Ca Mưu Ni,
dường như tách rời hẳn ra ngoài đời sống thế tục
hàng ngày và hầu như hoàn toàn có vẻ nghiêm túc
trong sự giác ngộ của mình, ông sống một đời sống
tròn vẹn và không bị ràng buộc của một người cư sĩ
thật sự. Ông đại biểu cho sự tương phản hoàn toàn
đối với lý tưởng A La Hán được các tu sĩ Tiểu Thừa
tưng tiu, một đời sống hiện thân của tinh thần Ðại
Thừa trong việc khước từ tinh thần tu viện hạn hẹp
và nhấn mạnh rằng Phật Giáo được thành lập để đi vào
xã hội.
Ðối vớ giới Phật tử ở Ấn Ðố,
Trung Hoa, Nhật Bản, đặc biệt là những cư sĩ tại
gia, Duy Ma Cật đã trở thành một nhân vật được quảng
đại quần chúng biết đến. Ðiều nầy được minh chứng
khi chúng ta thấy rằng Kinh Duy Ma Cật ngày càng
được đọc rộng rãi hơn trong giới Phật Giáo Ðại Thừa
bên cạnh Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Có sáu bản dịch
tiếng Trung Hoa, trong đó có ba bản hiện còn. Trong
những bản nầy, bản thứ hai do Ngài Vimalakirti (Cưu
Ma La Thập, 344-413) dịch được coi như một bản văn
chương đẹp đẽ nhất và được đọc nhiều nhất. Bồ tát
triết gia Long Thọ (Nagarjuna) trong Ðại Trí Ðộ Luận
(Mahaprajna-paramitopadesha) đã trích dẫn từ Kinh
Duy Ma Cật nhiều hơn những kinh điển khác ngoài Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, và phái Thiên Thai cũng đặt Kinh
nầy vào một địa vị quan trọng lớn lao, có bản sớ
giải về Kinh nầy. Ở Nhật Bản, đó là một trong ba bản
Kinh mà thái tử Shotòku (Thánh Ðức) viết sớ giải,
hai bản kinh kia là Kinh Pháp Hoa và Kinh Thắng Man
(Shrimala).
Kinh Duy Ma Cật chia xẻ với
Kinh Pháp Hoa nét độc đáo trong số những kinh điển
Ðại Thừa gây ấn tượng và tác động mạnh nhất, và đã
ảnh hưởng lớn lao lên các thi sĩ và văn sĩ Trung Hoa
và Nhật Bản. Thi sĩ nổi danh của Trung Hoa thời
Ðường là Vương Duy chẳng hạn bày tỏ sự kính ngưỡng
của ông ta đối ới Kinh nầy bằng cách lấy tên Duy Ma
làn tên mình. Tác phẩm Hòjòki (Túp lều của tôi) của
Kamo no Chòmei, trong văn học cổ đại Nhật Bản, cũng
chịu ảnh hưởng sâu xa tư tưởng Kinh Duy Ma Cật, và
"túp lều mười bộ" được diễn tả là trực tiếp phỏng
theo căn phòng mười bộ của ngài Duy Ma.
Mặc dầu sự đẹp đẽ trong văn
chương, cũng như việc nó không thuộc vào một trường
phái riêng biệt nào, có thể là một phần nguyên do
làm cho bản Kinh phổ biến rộng rãi và lâu dài, nhưng
theo tôi, dường như nhân tố quan trọng nhất là ấn
tượng mà Duy Ma Cật đã gây ra nơi người đọc như là
một con người, và ông đã biểu lộ sự áp dụng thực
tiễn của tinh thần Ðại thừa một cách thích đáng. Bản
Kinh diễn tả Duy Ma Cật đã tranh luận với từng vị
một trong những đệ tử lớn của Ðức Thích Ca Mâu Ni
như thế nào và tiếp tục trình bày cách thế ông đã
đưa các ngài vào thế bí qua trí tuệ sắc bén và tài
hùng biện của ông. Ông còn đàm luận ngay cả với Ngài
Văn Thù (Manjushri), một vị Bồ Tát có Trí Tuệ siêu
việt, thảo luận về những vấn đề sâu xa nhất của
triết lý Ðại Thừa.
Tư tưởng Phật Giáo trong giai
đoạn trước khi có phong trào Ðại Thừa, như đã được
trình bày, tập trung vào hình ảnh của tu sĩ, người
sống nghiêm nhặt trong giới luật, và thực hành giáo
pháp của Ðức Thích Ca Mâu Ni để chứng Thánh quả. Duy
Ma Cật đứng trên lập trường hoàn toàn đối lập với
những viện sĩ đó, là một thương gia giàu có, một
công dân nổi bậc của thành Vaisali (Tỳ Xá Ly), được
đồng bào thương mến và rất gần gũi với họ. Ông có vợ
và gia đình, ông dấng thân trong những hoạt động
thương mãi, và thỉnh thoảng ông cũng có mặt trong
các khu vui chơi và nơi cờ bạc trong thành phố, để
truyền bá giáo pháp Ðại Thừa. Ông là một người thực
hành loại Giáo Pháp mà Giáo Hội tiền kỳ, với sự nhấn
mạnh vào tinh thần tu viện, không thể chấp nhận.
Chúng ta không có gì rõ ràng
ngoài bản kinh để có thể xác định sự hiện hữu của
Duy Ma Cật. Vị tăng sĩ Trung Hoa là Huyền Trang có
ghi lại rằng khi ngài viếng thành phố Tỳ Xá Ly trong
cuộc du hành sang Ấn Ðộ của ngài vào thế kỷ thứ bảy,
ngài được chỉ cho ngôi nhà xưa của Duy Ma Cật, cũng
như nhiều nơi được nói là Duy Ma Cật đã từng dạy tại
đó. Tuy nhiên, điều nầy cũng không đủ để chứng minh,
bởi vì rất nhiều nhân vật chỉ có trong văn chương
hay huyền thoại cũng được gán cho nơi sinh, chỗ ở, y
phục, vân vân. Với tất cả những gì chúng ta biết,
theo một vài nhà Phật Học, Duy Ma Cật có thể không
khác hơn là một hiện thân tưởng tượng của lý tưởng
cư sĩ do tín đồ Ðại Thừa tạo ra về sau.
Chắc chắn không có lý gì để có
thể bác bỏ một khẳng định như vậy, bởi vì, như chúng
ta biết, những học giả Tây phương xưa kia thường bác
bỏ việc Ðức Thích Ca Mâu Ni đã từng có trong lịch
sử, và Vua Ashoka (A Dục), cho đến khi khai quật
được những chỉ dụ của ông, được coi như một lãnh tụ
huyền thoại do những tín đồ Phật Giáo sùng tín dựng
lên.
Ngay dù nếu Duy Ma Cật là một
nhân vật thuần túy tưởng tượng, cũng không thể chối
bỏ giá trị của bộ kinh Ðại Thừa vĩ đại mà những hành
vi của ông được diễn tả trong đó. Không phải tính
lịch sử của Duy Ma Cật là quan trọng, nhưng chính
cách thức mà bản Kinh dùng ông để làm sáng tỏ lý
tưởng Bồ Tát, đưa ra những kích thước thực tiễn được
dùng để truyền bá Phật Giáo trong toàn bộ xã hội, và
trình bày một quan điểm sâu xa và cao thượng của sự
sống, nó siêu vượt tính cách nhị nguyên của có và
không. Duy Ma Cật chỉ là một cổ xe cho sự truyền bá
tinh thần Ðại Thừa.
Dù Duy Ma Cật là một nhân vật
thật hay chỉ trong văn chương, thành phố Vaishali
(Tỳ Xá Li), hậu trường của những hành động của ông,
không phải là một sản phẩm của tưởng tượng. Ðó là
một trung tâm thương mãi ở miền Bắc Ấn Ðộ và là một
nguồn cấp dưỡng quan trọng của phong trào Ðại Thừa.
Chính Ðức Thích Ca Mâu Ni đã tỏ ra rất chú ý đến
thành phố nầy và đã viếng nơi đây nhiều lần với đệ
tử của Ngài. Không lâu trước khi Ngài nhập diệt, khi
trên đường về thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), Ngài
đã dừng lại một thời gian tại đây, và khi rời thành
phố, Ngài nói: "Thành Tỳ Xá Li đẹp xiết bao!" Biết
điều nầy, chúng ta không quá ngạc nhiên nếu thật sự
có những tín đồ tại gia quan trọng như Duy Ma Cật ở
trong thành phố nầy.
Chúng ta không nên nghĩ rằng
những đệ tử nổi danh của Ngài chỉ là những vị Thanh
văn, mặc dầu những câu chuyện về các vị nầy được ghi
lại đầy trong kinh điển tiền kỳ. Trong những năm đầu
của giáo hội, chắc chắn Ðức Thích Ca Mâu Ni đã để
một thời gian dài thuyết dạy cho những người trẻ gia
nhập đời sống tu viện và quy tụ quanh Ngài. Nhưng
khi tiếng tăm Ngài được truyền rộng, càng ngày càng
nhiều người tìm đến nghe giáo pháp của Ngài, và số
nam nữ trở thành tín đồ tại gia của Ngài ngày càng
gia tăng là điều tự nhiên. Kinh điển có ghi lại Vua
Bimbisara (Tần Bà Sa La), cai trị nước Magadha (Ma
Kiệt Ðà), cũng như Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), cai trị
nước Koshala (Kiều Tát La), cả hai đều tín ngưỡng
Phật Pháp, và chúng ta cũng được nghe nói đến những
sự quy hướng trong giới thương gia giàu có như
Sudatta (Tu Ðạt), người đã cúng tịnh xá Kỳ Viên cho
Giáo Ðoàn.
Khi Ðức Thích Ca Mâu Ni nhắm
đến những tín đồ tại gia, chúng ta có thể chắc chắn
rằng Ngài đã hướng dẫn họ theo những sự tu tập khác
hơn những gì Ngài dạy cho giới tu sĩ, và vì vậy rất
hợp lý khi giả thiết rằng những giáo lý Ngài dạy cho
họ ở một mức độ nội dung nào đó khác hơn những gì đã
dạy cho tu sĩ. Nếu những giáo lý nầy thật sự về sau
kết tinh lại dưới hình thức những kinh điển Ðại
Thừa, chúng ta có thể phỏng đoán rằng chúng nhấn
mạnh trên bổn phận của người tín đồ tại gia để làm
lợi ích cho người khác hơn là cho chính bản thân và
phát triển Giáo Pháp vào trong toàn bộ xã hội.
Cảm tưởng của tôi là Ðức Thích
ca Mâu Ni trông cậy vào Giáo Ðoàn Tăng Lữ trong việc
bảo đảm phần giáo lý triết học và tôn giáo mà Ngài
đã nhiệt thành truyền dạy trong năm mươi năm sau khi
giác ngộ được lưu truyền một cách chính xác cho thế
hệ sau, trong khi Ngài quan tâm vào giới cư sĩ tại
gia, với tinh thần tích cực và kiến thức về thế gian
của họ, rằng họ có thể truyền bá giáo pháp của Ngài
vào trong lòng xã hội. Nếu giả thiết của tôi là
đứng, chúng ta có thể nói rằng Ðức Thích Ca Mâu Ni
trong giáo pháp của Ngài nhận thấy cả hai giới tu sĩ
và tại gia đều quan trọng như nhau và thấy rằng mỗi
giới có phận sự riêng và không thể thiếu giới nào.
XÂY DỰNG PHẬT QUỐC ĐỘ
Chúng ta hãy cùng nhau bỏ chút
thời gian xem xét bản dịch Kinh Duy Ma Cật của Ngài
Cưu Ma La Thập, và xem con người Duy Ma Cật như thế
nào.
Phần thứ nhất gồm có bốn phẩm,
nói về những sự việc xảy ra ở vườn Ambapali (Yêm La)
ở ngoại ô thành Vaishali (Tỳ Xá Li). Ambapali là một
kỹ nữ ở thành Vaishali (Tỳ Xá Li) và là một người
đàn bà rất sùng tín. Ở Ấn Ðộ thời bấy giờ, kỹ nữ và
gái mãi dân được chính phủ giám sát và bảo vệ.
Ambapali được coi như một trong những tài sản của Tỳ
Xá Li, không những có sắc đẹp, lại rất thông minh và
và có học. Cô ta rất giàu có và làm chủ những khu
vườn đẹp ở vùng ngoại ô, mà cô đã dâng cúng cho Ðức
Thích Ca Mâu Ni. Vì lý do nầy, Ngài và các đệ tử
luôn luôn ngụ tại khu vườn mỗi khi có dịp viếng Tỳ
xá Li. Trong thời gian được diễn tả trong Kinh Duy
Ma Cật, Ðức Thích Ca Mưu Ni đã cùng với tám ngàn tỳ
kheo và ba ngàn hai trăm vị Bồ tát nghỉ dưới bóng
những cây xoài trong khu vườn nầy.
Vào lúc đó, một người thanh
niên tên là Bảo Tích cùng đi với năm trăm thanh niên
quí tộc của thành Tỳ Xá Li, mỗi người cầm một cây
lọng bảy báu, đến viếng Phật. Ngay sau đó, Ðức Thích
Ca Mâu Ni làm cho năm trăm cây lọng báu hiệp thành
một cây lọng, với cây lọng lớn nầy, Ngài che mát các
cõi trong ba ngàn đại thiên thế giới. Ðoạn nầy có
thể hiểu là từ bỏ bản ngã riêng của năm trăm người
để sống trong đại ngã duy nhất của Phật. Ý nghĩa
tiềm ẩn của đoạn kinh là điều mà ở những kinh điển
khác trình bày với khái niệm "nhứt niệm tam thiên,"
tức ba ngàn đại thiên thế giới bao hàm trong một
niệm.
Bảo Tích, đầy lòng kính mộ,
tụng một bài kệ tán thán Ðức Thế Tôn. Trong đó có
đoạn rất nổi danh:
"Phật dạy Giáo Pháp chỉ một
âm,
Mà mỗi chúng sanh tùy bậc
hiểu."
Có nghĩa là mỗi người nghe
giáo pháp của Phật sẽ hiểu khác nhau tùy theo căn
tánh và khả năng. Dù Giáo Pháp có được trình bày
hùng hồn như thế nào, nếu người nghe chỉ có một quan
điểm hẹp hòi của Thanh văn hay Bích chi, người nầy
không thể hiểu giáo pháp Ðại Thừa của Ðức Phật. Mặt
khác, nếu người nầy có tâm hồn rộng rãi có thể phóng
tầm nhìn ra ngoài ba ngàn đại thiên thế giới, y sẽ
chứng nghiệm được ý nghĩa chân thật của Phật không
gì khó khăn. Ðoạn Kinh nầy là đoạn nhắc nhở cho
chúng ta, những người tầm cầu Giáo Pháp, rằng một
thái độ rộng rãi và cởi mở quan trọng như thế nào.
Sau đó, Bảo Tích hỏi Ðức Thích
Ca Mâu Ni những việc Bồ tát cần làm để chứng được
cõi Phật thanh tịnh. Ðức Thích Ca Mâu Ni trả lời như
sau: "Này Bảo Tích! quốc độ của tất cả chúng sanh là
Phật quốc độ của các Bồ Tát. Vì sao? Bởi vì các quốc
độ của Phật được giữ gìn do những chúng sanh được
các vị Bồ tát chuyển hóa, và được giữ gìn do những
chúng sanh được các Bồ tát giáo hóa. Quốc độ Phật
được mở rộng do nhiều chúng sanh chứng ngộ trí huệ
Phật, được mở rộng do những người giác ngộ tánh Bồ
tát nơi chính mình. Như vậy, quốc độ Phật của Bồ tát
là để làm lợi ích chúng sanh."
Bồ tát tu tập để thành tựu
pháp giới hay Phật quốc, Phật quốc nầy hoàn toàn
thanh tịnh, nhưng như đoạn Kinh nói rõ, "những quốc
độ Phật" nầy không phải "Cõi Tịnh Ðộ" ở phương Tây.
Những cõi Phật nầy có sẵn trong tâm linh của vị Bồ
tát khi phát nguyện làm lợi ích cho tất cả chúng
sanh và tinh tấn tu tập để chứng ngộ Phật quốc độ
đó. Nói cách khác, quốc độ Phật được quan niệm không
phải như là kết quả để đạt đến mà như là động lực,
hay một tiến trình, để đạt đến nó. Ðó là một điển
hình về tính chất năng động tiêu biểu của toàn bản
Kinh Duy Ma Cật. Ðoạn Kinh cũng có thể được coi như
là một công thức đo lường phạm vi truyền bá Giáo
Pháp mà một người đạt tới. Có nghĩa là, khi một hành
giả giảng dạy cho những người của một tôn giáo nào
đó, mức độ mà người nầy hiểu về sứ mệnh của mình
trong tư cách một Bồ Tát chuyển hóa người khác vào
giáo lý Ðại Thừa, để đưa họ vào cảnh giới trí tuệ
của Phật, và giải thoát cho tất cả chúng sanh, sẽ
quyết định mức độ thanh tịnh và sự đạt đến bao xa
trong quốc độ Phật mà người nầy thành tựu.
Tất cả những đoạn được trình
bày ở trên đều thuộc về phẩm thứ nhứt của Kinh, tên
là "Phật Quốc." Trong phẩn thứ hai, phẩm "Phương
Tiện," chúng ta sẽ xét đến nhân vật đáng lưu ý là
ngài Duy Ma Cật. Vimala trong tiếng Sanscrit (Phạn
ngữ) có nghĩa là "không ô nhiễm," và kirti có nghĩa
là "danh tiếng" hay "thanh danh." Ngài Huyền Trang
dịch là "Tịnh Danh" (Danh tiếng trong sạch), nhưng
ngài Cưu Ma La Thập dùng chữ Trung Hoa để diễn âm
Phạn ngữ. Vì bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập rất
nổi tiếng, nên ở Trng Hoa thường dùng tên Duy Ma Cật
hay Duy Ma để gọi ngài Vimalakirti (Tịnh Danh).
Bản Kinh cho chúng ta biết
rằng có một người giàu có ở Tỳ Xá Li tên là Duy Ma
Cật hay "Tịnh Danh," một đệ tử Phật Giáo tại gia có
nhiều phương tiện thiện xảo để chuyển hóa quần chúng
về với giáo pháp.
Theo Kinh, ông là một người
năng động. Những công cuộc đầu tư thương mãi của ông
phát đạt, và ông được cho biết là đã chịu khó ban bố
những của cải của ông của ông cho số động quần
chúng. Ông đi mọi nơi trong thành để hướng dẫn mọi
người, viếng các trường học và dạy dỗ các trẻ em
bằng phương pháp khéo léo, và có rất nhiều bạn bè cả
già lẫn trẻ. Ông cũng quen thuộc với những tác phẩm
phổ biến đương thời, và được nhiều người trong giai
cấp Ba La Môn mến mộ.
Kinh nói: "Khi ở với các đại
thần, ông dạy Giáo Pháp chân thật làm lợi ích cho
những đại thần tôn quý nhất." Có thể trong thực tế
ông đã có thời gian làm đại thần; vì ở Tỳ Xá Li đã
có một hình thức chính phủ cộng hòa, có thể rằng ông
đã được bầu giữ một chức vụ quan trọng. Dù thế nào,
ông cũng là một công dân xuất chúng của quốc gia.
Ðịa vị của Duy Ma Cật ổ Tỳ Xá
Li gợi cho chúng ta nhớ đến Socrates ở Athens, ngoại
trừ sự việc rằng Socrates không giàu có. Và nếu Duy
Ma Cật có ảnh hưởng lớn lao hơn Socrates, ông cũng
có diễm phúc hơn Socrates trong sự tín nhiệm của
đồng bào. Ðiều nầy được chứng minh hùng hồn trong
dịp ông bị bịnh, khi đó các vua, đại thần, người già
cả, cư sĩ, bà la môn, vương tử, và các quan lại,
tính tổng cộng có đến nhiều ngàn người, đến để hỏi
thăm sức khỏe. Ông được sự thương mến và cảm tình
như vậy.
Ðức Thích Ca Mâu Ni lúc bấy
giờ ở tại vườn Yêm La (Ambapali), và Ngài quyết định
phái người đến thăm hỏi Duy Ma Cật. Phẩm thứ ba và
thứ bốn, có tên là "Thanh Văn" và "Bồ Tát", diễn tả
việc Ðức Thích Ca Mâu Ni chỉ định từng vị một trong
mười Ðại Ðệ Tử của Ngài, tiếp đến là đức Di Lặc và
những vị Bồ tát khác, nhận lãnh trách nhiệm. Nhưng
mỗi vị nhớ lại việc trước kia bị Duy Ma Cật phản
bác, nói rằng mình không thích hợp với sự giao phó.
Nêu lên một ví dụ, Xá Lợi Phất
(Shariputra), được coi như một vị "trí huệ đệ nhứt,"
kể lại lúc xưa có một lần khi ngài ngồi kiết già
thiền định dưới một gốc cây, Duy Ma Cật xuất hiện và
giảng cho ngài về phương pháp đúng đắn về tọa thiền.
Ông nói: "Nầy ngài Xá Lợi Phất, không phải ngồi là
ngồi thiền. Ngồi thiền có nghĩa là không hiển lộ
trong ba cõi. Cũng có nghĩa là phơi bày chính mình
trong tánh tự nhiên trong đó thân và tâm đều không
còn. Có nghĩa rằng tu hành Phật Ðạo trong lúc làm
những công việc hàng ngày trong thế gian. Ðó gọi là
ngồi thiền."
Và ngài Xá Lợi Phất không có
câu trả lời, chỉ ngồi lặng thinh. Vì lý do đó, ngài
giải thích với Ðức Thích Ca Mâu Ni rằng mình không
thể nhận lãnh trách vụ thăm hỏi sức khỏe Duy Ma Cật.
Những đoạn Kinh nầy đại biểu
một sự tấn công vào các đệ tử của Ðức Thích Ca mâu
Ni và quan điểm Tiểu thừa của họ, và những sự tu tập
dưới quan điểm Ðại Thừa. Như vậy, những thí dụ vừa
được trích dẫn, những sự tu tập của Tiểu Thừa, bị
phê phán về chủ nghĩa hình thức mà họ rơi vào, và
không lưu ý đến nội dung và tác dụng thực tiễn của
sự tu tập. Tinh thần tiêu biểu của Ðại Thừa rất rõ
ràng ở đây.
Ghi ra ở đây một điều thích
thú là mỗi vị trong mười đại đệ tử đều bày tỏ cùng
một tư thế và thú nhân rằng mình không có khả năng
so sánh với Duy Ma Cật, lý tưởng của Bồ Tát Ðại
Thừa. Tuy nhiên, với nhiệt tâm tấn công lý tưởng
Thanh Văn hay Bích Chi của Tiểu thừa, đôi khi đã cho
phép nó đi ra ngoài những giới hạn của lý lẽ. Ví dụ
trong kinh Duy Ma Cật, ngài Xá Lợi Phật từ đầu đến
cuối bị coi như một người hề. Tuy nhiên, trong thực
tế, chúng ta biết ngài là khác hơn là một người hề,
trong đời sống thực đã đóng một vai trò quan trọng,
cùng với những vị đại đệ tử khác, ở trong tầng lớp
lãnh đạo của giáo đoàn do Ðức Thích Ca Mâu Ni dựng
nên.
Nichiren Daishònin viết trong
Gosho: "Tác phẩm nầy được gọi là Kinh Duy Ma Cật chỉ
là một tùy tùng thứ yếu thấp xa dưới Kinh Pháp Hoa."
Nói một cách khác, vì Kinh Duy Ma Cật chưa bao giờ
vượt ra ngoài mức độ phê phán Tiểu Thừa, nó không
bao giờ đến được chỗ cao vợi đại biểu nơi Kinh Pháp
Hoa. Kinh Duy Ma Cật vì vậy chỉ được coi như một
loại dẫn nhập vào Kinh Pháp Hoa, và đó là điều mà
Nichiren Daishonin gọi là "tùy tùng."
Một số học giả coi Kinh Duy Ma
Cật và Kinh Pháp Hoa là cùng một "gia đình" trong
kinh điển Ðại Thừa. Nhưng Duy Ma Cật, người mà người
ta nghĩ rằng phải vượt lên trên mối bận tâm của
những sự phân biệt, dường như bị ám ảnh với sự khác
biệt giữa lý tưởng Thanh Văn và Bích Chi của Tiểu
thừa và lý tưởng Bồ Tát của Ðại Thừa. Sự không thể
vượt qua những sự phân biệt đó tạo ra một vết rạn
nứt chính trong Kinh Duy Ma Cật.
vị bồ tát làm lợi ích người
khác như thế nào?
Phần thứ hai trong bản dịch
của ngài Cưu Ma La Thập, từ phẩm thứ năm đến phẩm
thứ chín, đưa chúng ta vào căn phòng mười bộ của Duy
Ma Cật. Bồ tát Văn Thù (Manjushri) thay mặt Phật đến
thăm bịnh Duy Ma Cật. Có tám ngàn Bồ tát, năm trăm
vị Thanh văn, và một trăm ngàn chúng trời cùng đi
với ngài. Mọi người đều chắc chắn rằng những lời đối
đáp giữa đức Văn Thù và Duy Ma Cật sẽ rất đáng nên
nghe, và họ vây quanh náo nức chờ đợi.
Căn phòng Duy Ma Cật đang nằm
chờ họ không có một thứ gì ngoài chiếc giường và chỉ
rộng một trượng tức khoảng mười bộ. Nhưng đủ chỗ cho
tất cả mọi người đến thăm. Ðiều nầy thật khó cho
người duy lý bình thưòng có thể hiểu và chấp nhận.
Ngài Xá Lợi Phất cũng vậy, ở
phẩm thứ sáu, chúng ta được biết ngài đã bối rối
trước hiện tượng mà Duy Ma Cật nói với ngài: "Thưa
ngài Xá Lợi Phất! chư Phật và Bồ tát có pháp giải
thoát tên là Bất Tư Nghì. Khi Bồ tát trụ nơi pháp
giải thoát đó, lấy núi Tu Di (Sumeru) để vào trong
một hột cải vẫn không thêm không bớt. Lại nữa, hình
núi Tu Di cũng không thay đổi, và trời tứ thiên
vương và chư thiên cõi trời ba mươi ba (Ðao Lợi)
cũng không biết là mình vào trong đó. Chỉ những
người đáng độ được mới biết được rằng núi Tu Di vào
trong hạt cải. Ðó gọi là pháp môn Bất Tư Nghì Giải
Thoát."
Ðoạn kinh thật sự là một phô
bày giáo lý Tánh Không (Sunyata) của Ðại Thừa. Những
sự đối đáp giữa ngài Văn Thù và Duy Ma Cật cũng đặt
nền tảng trên khái niệm tánh không nầy hay tính chất
rổng không, hay vượt ngoài, mọi đặc tính có thể diễn
tả. Trong phẩm thứ chín, tên là "Nhập Bất Nhị Pháp
Môn," khái niệm nầy được thảo luận dưới nhiều góc
cạnh, được diễn tả như "không có cũng không không
có, không sinh cũng không diệt, không hữu vi cũng
không vô vi." Ðó là tính Bất-Nhị không thể hiểu được
bằng ngôn ngữ thông thường, cảnh giới nhất nguyên
tuyệt đối.
Chính cảnh giới nầy mà Bồ tát
dùng nhiều cách tu tập để đạt tới. Bây giờ chúng ta
tìm xem những sự tu tập nầy gồm những gì. Ðể làm
việc nầy, chúng ta trở về với Duy Ma Cật như ông
được diễn tả trong phẩm thứ năm, "Thăm Bịnh." Ngài
Văn Thù đến bên cạnh Duy Ma Cật hỏi vể tính chất của
chứng bịnh. Duy Ma Cật trả lời với những lời lẽ
tuyệt vời như sau:
"Do từ si mê sinh ra ái, từ đó
mà bịnh tôi phát sinh. Vì tất cả chúng sanh bịnh,
nên tôi bịnh. Nếu bịnh của chúng sanh không còn, thì
bịnh tôi không còn. Vì sao? vì Bồ tát đi vào trong
sanh tử vì lợi ích chúng sanh. Vì có sanh tử nên có
bịnh. Nếu chúng sanh không còn bịnh thì Bồ tát không
còn bịnh. Ví như ông trưởng giả chỉ có một người
con. Nếu người con bịnh thì cha mẹ bịnh theo, nếu
con lành bịnh thì cha mẹ lành bịnh. Bồ tát cũng như
thế, thương tất cả chúng sanh như con. Nếu chúng
sanh bịnh, thì Bồ tát bịnh, nếu chúng sanh lành thì
Bồ tát lành. Ngài hỏi tôi: "Nguyên do từ đâu mà tôi
bị bịnh?" Bịnh của Bồ tát là do tâm đại bi."
Chúng ta thấy rõ ràng rằng
bịnh của Duy Ma Cật, không phải do từ sự mất điều
hòa của cơ thể, mà ở bản chất thuộc về tinh thần.
Thông thường một người khỏe mạnh không thể hiểu
những nỗi khổ của người bịnh. Tuy nhiên ở đây chúng
ta được trình bày cho thấy một công việc khó khăn
hơn: không chỉ hiểu mà còn san sẽ những nỗi khổ của
người khác và lấy đó làm nỗi khổ của mình. Ðức Phật
được diễn tả là vẫn còn nỗi khổ bịnh và vô minh, mặc
dù ít hơn chúng sanh bình thường nhiều. Lý do là vì
Ngài chia xẻ những khổ đau và vô minh của kẻ khác,
nhận lấy cho mình.
Tuy nhiên những tín đồ Tiểu
thừa đã đánh mất tầm nhìn về tinh thần trong những
giáo lý nguyên thủy của đức Thích Ca Mâu Ni và chỉ
quan tâm đến sự hoàn thành việc tu tập cá nhân. Vì
vậy Ðại Thừa khởi dậy với quan điểm đối nghịch để
làm thăng bằng việc đó, lý tưởng Bồ tát tìm sự giác
ngộ Phật Tánh qua việc lợi ích người khác. Ðể làm
việc đó, trước tiên người đó phải đặt mình vào vị
trí chia xẻ những đau khổ của người khác.
Duy Ma Cật tiếp tục với việc
giải thích những hạnh của Bồ tát như sau: "Bồ tát
quán sát các quốc độ Phật là hằng cữu và thoát ngoài
sinh tử, ngài làm cho những quốc độ nầy phô bày mọi
vẻ thanh tịnh cho chúng sanh được thấy - đó là hạnh
của Bồ tát. Bồ tát cầu Phật quả, thuyết Pháp, nhập
Niết bàn, ngài vẫn không bỏ đạo Bồ tát - đó là hạnh
của Bồ tát."
Nghe những lời nầy của Duy Ma
Cật, tám ngàn thiên tử đi theo ngài Văn Thù chứng Vô
thượng Chánh giác.
Mục đích của đoạn kinh văn nầy
là muốn làm sáng tỏ rằng vị Bồ tát, khi thực hành
những pháp môn tu tập cho bản thân, cũng nổ lực tạo
"quốc độ Phật" hay thế giới lý tưởng trong xã hội
thực tiễn mình đang sống. Không giống với người tín
đồ Tiểu Thừa, trong khi theo đuổi lý tưởng A la Hán,
chỉ cố gắng để giải thoát bản thân thoát khỏi khổ
đau và vô minh, vị Bồ tát an trú trong mức độ hiểu
biết cao về Giáo Pháp, và từ chỗ nầy, cố gắng không
ngừng trong việc tạo quốc độ Phật để làm lợi ích tất
cả chúng sanh. Ðó là trách nhiệm cao cả của triết lý
Ðại Thừa phó thác cho vị Bồ tát.
Ðể kết luận cuộc đàm thoại
hùng hồn và thâm sâu giữa Duy Ma cật và ngài Văn Thù
về bản chất của vị Bồ Tát, một thiên nữ trong gia
đình của Duy Ma Cật đột nhiên xuất hiện rải hoa trời
lên đại chúng. Những hoa nầy rơi đụng các vị Bồ tát
thì rớt xuống đất, những hoa rơi đụng các vị Thanh
văn thì bám dính vào họ. Xá Lợi Phất và và những đệ
tử Thanh văn của Ðức Thích Ca Mâu Ni cố gỡ những hoa
nầy nhưng không được.
Vị thiên nữ cười, hỏi ngài Xá
Lợi Phất: "Tại sao ngài lại gắng sức rứt bỏ những
hoa đó?"
Xá Lợi Phất trả lời: "Thiên
nữ, tôi cố gắng rứt bỏ chúng vì những hoa nầy không
thích hợp cho những người tu sĩ!"
Nhưng vị thiên nữ tự mình cũng
có khả năng tranh luận với ngài Xá Lợi Phất, "vị đệ
nhất trí tuệ" trong hàng đệ tử của Ðức Thích Ca Mâu
Ni. Thiên nữ nêu ra rằng những đoá hoa tự chúng
không có mối bận tâm về việc thích hợp hay không
thích hợp. Rõ ràng chỉ vì ngài Xá Lợi Phất và những
vị Thanh văn khác vẫn còn nuôi dưỡng những bận rộn
và những dấu vết của tâm phân biệt rằng những hoa
bám vào họ. Ðối với người tu Ðạo vẫn còn sợ hãi luân
hồi, các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều trở thành
nguồn cội của vô minh, cửa ngõ để ma quỹ nhập vào.
Rõ ràng rằng vị thiên nữ đã
thắng trong ván đầu. Tuy nhiên, ngài Xá Lợi Phất đã
chế nhạo vị thiên nữ một cách không thông minh lắm.
Ngài hỏi: "Thiên nữ, vì sao cô không chuyển đổi
tướng nữ nhân?"
Thiên nữ trả lời bằng cách
hiển lộ thần thông chuyển ngài Xá Lợi Phật bién
thành tướng nữ, làm cho ngài rất khiếp đảm, và
chuyển thân tướng mình thành thân tướng ngài Xá Lợi
Phất.
Một lần nữa, cùng một vấn đề
được nêu ra: Xá Lợi Phất, đại biểu cho quan điểm
Tiểu Thừa, không thể ra khỏi lối suy nghĩ theo những
phạm trù cứng nhắc. Quan điểm của Chánh Pháp, nhận
chân tính bình đẳng của tất cả chúng sanh, dù nam
hay nữ đều như nhau. Như lời thiên nữ nói, rút từ
những lời dạy của đức Thích Ca Mâu Ni: "Trong tính
bình đẳng của tất cả chúng sanh, không có tướng nam
hay tướng nữ." Lối suy nghĩ của toàn đoạn văn rất
gần với tư tưởng của phẩm mười hai trong kinh Pháp
Hoa, trong đó, long nữ chuyển thành tướng nam và
chứng Phật quả.
Một điểm cuối cùng xin ghi
nhận là trong những đoạn nầy là sự nhiệt thành cầu
giác ngộ của những ngưởi đến gặp Duy Ma Cật. Trong
đó, có một vị cư sĩ với đức tin và trí tuệ sâu xa
tên là Duy Ma Cật, vị cư sĩ nầy được sự ngưỡng mộ
của tất cả nhựng người liên hệ với ông.
GIÁO LÝ BẤT TƯ NGHÌ
Kinh Duy Ma Cật thường được
tán dương ở bố cục đầy kịch tính của nó, và chắc
chắn sự chuyển đổi hình tướng một cách thú vị giữa
thiên nữ và Xá Lợi Phất mà chúng ta vừa diễn tả là
màn hài đáng lưu ý trong toàn bộ vở kịch. Trong
chương tám, "Phật Ðạo," Duy Ma Cật và Bồ tát Văn Thù
tranh luận sôi nổi vể vấn đề tánh giác ngộ của Phật,
trong khi ở phẩm thứ chín, "Nhập Bất Nhị Pháp Môn,
"ba mươi hai vị Bồ tát chứng được nhiều cảnh giới
trong Bất Nhị Pháp môn.
Phẩm nầy thường được coi như
điểm cao tột của kinh, vì nó chứa một câu bất hủ "sự
im lặng của Duy Ma Cật, giống như tiếng nổ của sấm
sét." Từng vị một, các Bồ tát trình bày quan điểm
của mình về tánh chất của pháp môn bất-nhị. Nhưng
đến phiên Duy Ma Cật, ông chỉ ngồi lặng yên. Như vậy
ông đã bày tỏ bằng thái độ rằng cảnh giới bất-nhị
luôn luôn bên trên và bên ngoài mọi ngôn ngữ, một
nơi mà mọi tác động của tâm đều chấm dứt.
Ngài Văn Thù, tràn đầy ngưỡng
mộ trước sự trả lời của Duy ma Cật, tán thán: "Hay
thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó
mới thật là nhập Bất Nhị pháp môn." Chúng ta được
biết rằng năm ngàn vị Bồ tát lúc bấy giờ liền chứng
vô sanh pháp nhẫn, một bậc giác ngộ cao hơn.
Phần cuối của Kinh, từ phẩm
thứ mười đến phẩm thứ mười bốn, đề cập đến đức Phật
tên Hương Tích ở cõi Chúng Hương, thuyết Pháp bằng
cách dùng những mùi hương vi diệu.
Những tranh luận giữa Duy Ma
Cật và Bồ Tát Văn Thù tiếp tục cho đến gần giờ trưa
và ngài Xá Lợi Phật bâng khuâng về việc ngọ trai.
Theo giới luật của các tăng sĩ thời bấy giờ, cấm
không được ăn bất cứ thức ăn gì sau giờ ngọ. Ðiều
mỉa mai là Xá Lợi Phật gia nhập đoàn thể tu sĩ để
giải thoát khỏi những lo lắng và nhiễm ô trần thế
lại lo lắng về bửa ăn trưa, người ta không thể ngăn
được sự cảm thương đối với ngài. Duy Ma Cật nhận
thấy điều đó, hỏi: "Ngài có nghĩ rằng ngài có thể
nghe Pháp trong khi bận tâm về thực phẩm?" Ðó là một
sự lưu tâm tử tế nhất, nhưng Duy Ma Cật nói tiếp
thêm: "Nếu ngài muốn một thứ gì để ăn, xin hãy chờ
một lát. Tôi sẽ dâng cho ngài thứ thực phẩm mà ngài
chưa từng bao giờ nếm đến." Ông xin thỉnh một bữa ăn
hương từ cõi Chúng Hương. Người sứ giả mà Duy Ma Cật
gởi đến cõi Chúng Hương thấy mình ở trong một cảnh
giới không ngôn ngữ và văn tự nào có thể diễn tả,
nhưng Phật Pháp hoàn toàn được dạy bằng các loại
hương thơm. Không có Thanh văn hay Bích chi trong
cõi đó, những vị trí tuệ còn giới hạn trong Tiểu
Thừa; cõi đó chỉ có toàn Bồ tát đạt đến sự thanh
tịnh cao tột, các ngài chỉ sống bằng hương thơm.
Cõi Chúng Hương, mặc dù với
những tính chất thần thoại của nó, được diễn tả một
cách vô cùng sống động, và chúng ta thấy những năng
lực tưởng tượng lớn lao của các tác giả Ðại Thừa.
Bởi vì họ quan niệm Chánh Pháp là một thứ có thể
khai mở và giải thích những bí ẩn của nguồn sống, họ
có cảm tưởng rằng nó có thể trình bày dưới hình thức
những cảnh giới hay cái thấy siêu vượt sự tưởng
tượng thông thường của con người. Như vậy, để diễn
tả Giáo Pháp không phải được trình bày bằng ngôn từ
mà bằng các loại hương là một việc làm chấn động tâm
thức để đi vào một thức giác siêu việt.
Ðoạn Kinh cũng tiếp tục nói rõ
rằng, nhìn từ cõi Chúng Hương, thế giới của chúng ta
là một nơi đầy tội lỗi và đồi bại, đây dẫy những
chúng sanh với tâm linh nhì nhằn và có khuynh hướng
về những mục tiêu thấp kém nhất, làm cho chư Phật và
Bồ tát khó khăn trong việc hóa độ. Vì lý do nầy, chư
Phật buộc phải dùng ngôn từ để dạy thay vì bằng các
mùi hương, và chư Bồ tát phải sinh vào trong những
cảnh giới thấp kém để chiến đấu một cách mãnh liệt
và không ngừng trong việc khắc phục sự xấu ác.
Duy Ma Cật, khi nghe các vị Bồ
tát ở cõi Chúng Hương nói như vậy, trả lời rằng các
vị Bồ tát ở thế giới chúng ta có "mười điều thiện."
Mười điều thiện nầy bao gồm những những hạnh mà các
ngài tu tập. Những hạnh chính là sáu ba la mật, gồm
bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
và trí huệ. Danh sách đơn giản những giới luật hay
sự tu tập được xử dụng cho tín đồ Ðại Thừa có ý
hướng tạo sự mâu thuẩn mạnh mẽ với 250 hay 500 giới
dành cho các tu sĩ Tiểu Thừa.
Tám Ðiều sau đây mà vị Bồ tát
tuân giữ trong đời sống tu hành ngày nay cũng là từ
khuôn mẫu của ông. Vì Tám Ðiều nầy rất thiết thực về
mặt đạo đức cho con người ngày nay, cả nam cũng như
nữ giới, tôi xin trích ra đầy đủ:
1. Lợi ích chúng sanh mà không
mong đền đáp.
2. Chịu mọi điều khổ thế cho
chúng sanh.
3. Bao nhiêu công đức thành
tựu đều hồi hướng cho chúng sanh.
4. Có lòng bình đẳng đối với
chúng sanh, khiêm nhường đối với chúng sanh, không
khởi tâm chướng ngại đối với chúng sanh. Ðối với Bồ
tát, xem như Phật.
5. Những Kinh chưa nghe, nghe
không nghi; không tranh luận với các vị Thanh văn.
6. Không ganh tỵ khi người
khác được cúng dường, không kiêu căng với thu hoạch
của mình, luôn kiểm soát tự tâm.
7. Thường xét lỗi mình, không
nói điều xấu của kẻ khác.
8. Luôn giữ tâm không lay
chuyển và tinh tấn trong mọi hạnh lành.
Nếu có người hết lòng trong
việc làm lợi ích và cứu giúp người khác, người đó có
thể thực hiện tám điều nầy. Người ta có thể thấy
ngay rằng, ngược lại với những giới luật tiểu tiết
và khắt khe của Tiểu Thừa, những điều nầy từ bản
chất là những mục đích đạo đức rộng lớn trong việc
hướng dẫn tư cách và hành động của một người.
Sau đó, Kinh một lần nữa trở
lại với khu vườn Âm La (Pabapali), nơi đây lý lịch
thật của Duy Ma Cật được cho biết thêm, và chấm dứt
với sự phó chúc bản Kinh cho ngài Di Lặc (Maitreya)
và A Nan (Ananda).
Tên khác của Kinh Duy Ma Cật
là Bất Tư Nghì Giải Thoát, và chắc chắn nhân vật Duy
Ma Cật, như được diễn tả trong Kinh, đầy những sự bí
ẩn và kỳ diệu. Ông đại biểu cho lý tưởng cư sĩ tại
gia như được định hình từ hai ngàn năm trước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét