Học Phật tại gia và học Phật xuất gia có gì khác nhau?
Cư sĩ có thể nói về quy y được không?
Cư sĩ có thể giảng kinh được không? Cư sĩ có thể hóa duyên được không?
Cư sĩ có thể trụ trì chùa và viện được không? Cư sĩ có thể vì tín đồ mà
niệm kinh, tụng và sám hối, siêu độ được không? Cư sĩ có thể tham gia và
can thiệp vào công việc của người xuất gia được không?
Thường có người hỏi 6 vấn đề trên đây. Theo lý lẽ mà nói thì tất cả điều
đó là công việc của tăng chúng xuất gia, không phải là điều mà cư sĩ
phải làm, nếu làm thì mất lập trường học Phật tại gia. Nếu không thì nên
xuất gia, không nên một mặt thì không ly tục xuất gia, mặt khác lại bắt
chước cuộc sống của xuất gia, muốn hưởng thụ quyền lợi của con người
xuất gia. Học Phật tại gia là để thu được lợi ích của Phật pháp, hộ trì
Tam Bảo, và sự ủng hộ bên ngoài của Tam Bảo, không phải là cốt lõi của
Tam Bảo.
Nhưng thời đại đã thay đổi, người xuất gia ít đi, số người cần Phật pháp
và Phật sự lại tăng lên. Ở những nơi không có người xuất gia hoặc rất
ít người xuất gia thì cũng cho phép cư sĩ tại gia nói về ba quy. Ba quy
là tôn kính Phật, Pháp, Tăng (Tam quy). Nghĩa là tăng nói về ba quy
không phải là cư sĩ tại gia nói ba quy, quy y tăng không phải là quy y
cư sĩ tại gia.
Tóm lại cư sĩ không thể làm quá chức phận của mình tự xưng là vị sư để
người khác quy y nhưng họ có thể thay mặt cho một vị Đại đức, Pháp sư
nào đó trong tăng bảo để tiến hành ba quy ở nơi mà không có người thuyết
pháp. Thế nhưng đối với chúng sinh nói chung, bất kỳ Phật tử nào cũng
có thể tùy lúc nói ba quy làm cho chúng sinh trồng được thiện căn, làm
nhân cho việc độ thoát sau này.
Nói về giảng kinh thuyết pháp thì khi Đức Phật còn tại thế đã có cư sĩ
thay thế Phật nói pháp, thậm chí còn có trưởng giả, cư sĩ thay thế Phật
giảng pháp cho chúng tăng. Như trong kinh Đại thừa có cư sĩ Duy Ma Cật
nói pháp, cũng có ghi chép Bà Thắng Mạn nói pháp, do đó việc cư sĩ nói
pháp không thành vấn đề.
Theo thói quen xưa nay thì cư sĩ không lấy việc nói pháp để nhận những
vật tiêu dùng cho sinh hoạt vì họ đã có phương thức sinh sống riêng của
mình, không được dựa vào nói pháp để sinh sống. Nhưng trong thời đại
hiện nay, tất cả mọi công việc hoằng pháp nên chuyên nghiệp hóa. Nếu cư
sĩ lấy việc hoằng pháp làm chuyên nghiệp thì nên có thù lao để bồi dưỡng
và chi phí về xe cộ đi lại cho họ. Nhưng nếu lấy việc giảng kinh nói
pháp làm thủ đoạn kiếm tiền, để được cúng dường nhiều rồi phát triển
không hạn chế việc này thì đó không phải là thái độ nên có của người cư
sĩ học Phật. Ngoài ra cư sĩ hiện nay và sau này làm công tác phục vụ cho
tính chất chuyên nghiệp và việc giáo dục văn hóa Phật giáo cũng nên
nhận một sự đãi ngộ thích đáng để duy trì sinh hoạt của gia đình.
Về việc hóa duyên thì điều đó có nghĩa là để những người không tiếp xúc
với Phật pháp có cơ hội tiếp xúc với Phật pháp. Vì vậy người Tỳ kheo lần
theo các nhà để khất thực để hóa thiện duyên, mục đích không phải là để
ăn uống mà để trồng thiện căn, tin Phật và học Phật pháp. Người ta hiện
nay nói đến hóa duyên là liên tưởng đến việc đòi người ta tiền, đó
không phải là ý cơ bản của Phật pháp. Tất nhiên là thông qua việc khất
thực để gia chủ bố thí, hai bên đều có lợi, song không thể nào đảo ngược
đầu đuôi, không được bề ngoài thì đưa Phật pháp cho người ta mà mục
đích là để kiếm tiền. Hiện nay phần lớn hóa duyên là để xây dựng các
chùa và viện, rất ít vì cuộc sống của cá nhân, cũng có một số là do đoàn
thể chùa, viện và cá nhân triển khai, đẩy mạnh công việc từ thiện giáo
dục văn hóa. Thí dụ như in kinh, mở trường học, xây bệnh việc, nhà mồ
côi, các cư sĩ tất nhiên cũng nên tham gia. Trong lịch sử cận đại Trung
Quốc, có một khất sĩ tên là Vũ Huấn lấy việc xin cơm để xây dựng trường
học. Việc cư sĩ hóa duyên để ủng hộ Tam Bảo tất nhiên là đúng vì phúc
lợi xã hội cũng là đúng. Nhưng nếu là nhằm xây nhà tư nhân hoặc lấy danh
nghĩa nhà thờ Phật, chùa, viện mà xoay sở kiếm lợi cho cá nhân thì làm
trái với luật nhân quả.
Kinh Pháp Hoa gọi chùa viện là tháp miếu, vốn là xá lợi để cúng Phật,
sau này mới được dùng để lưu giữ pháp bảo của Phật. Ở những nơi có Phật,
có pháp thì nhất định phải có các tăng chăm sóc bảo quản, vì vậy, bên
cạnh tháp miếu có phòng ở các tăng, đó là hình tượng hoàn thành việc trụ
trì Tam Bảo. Người thế tục gần gũi với Tam Bảo, nếu ở trong chùa viện
là để học uy nghi và cuộc sống tu hành của người xuất gia. Họ phục dịch
cho chúng tăng gọi là trồng ruộng phúc.
Trong kinh Phật chưa có tỉ dụ về cư sĩ trụ trì chùa viện nhưng trong
thời đại gần đây, Phật giáo Nhật Bản lấy cư sĩ tại gia làm trung tâm. Họ
ở trong chùa viện, sinh đẻ nuôi nấng con cái, đời đời nối nghiệp nhau,
đó là gia tộc những người lấy tôn giáo làm chức nghiệp, khác với tu sĩ
tại gia. Ngoài ra còn có Dương Nhân Sơn, Âu Dương Tiệm, Hành Thanh Tịnh
thời kỳ đầu Dân Quốc cũng đều lấy danh nghĩa cư sĩ để chủ trì sự nghiệp
giáo dục Phật pháp và văn hóa. Họ đều có đạo trường nhưng không gọi các
đạo trường là chùa, viện, tỉ dụ như tịnh xá Kỳ Viên, nơi khắc kinh Kim
Lăng, học việc Chi Na Nội...
Ngày nay không thiếu những tỉ dụ về các cư sĩ chủ trì các loại đạo
trường. Họ dùng các tên như tịnh xá học hội, học viện, liên xã, rừng cư
sĩ, hội cư sĩ, chứ không dùng tên các chùa viện. Nếu cư sĩ nhứt định
phải chủ trì chùa viện thì có thể đó là Lạt Ma của Mật giáo thuộc phái
tại gia, hoặc là thầy cúng của thần đạo giáo chứ không phải chủ trì. Bởi
vì, chủ trì chùa viện là những người đại diện chủ trì Tam Bảo, cư sĩ
không phải là một trong Tam Bảo ấy, làm sao có thể chủ trì được? Cả danh
và thực đều không phù hợp như vậy là trái ngược với luân lý Phật giáo.
Đã là Phật tử thì phải niệm kinh, sám hối. Phật giáo khuyến khích việc
tập trung lại cùng nhau tu hành. Khi còn sống và sau khi chết nên có
người cùng tu hành với mình, niệm Phật giúp nhau siêu độ. Do vậy, cư sĩ
tất nhiên có thể niệm Phật giúp người khác, siêu độ cho người ta.
Những môn đồ trai giáo thường ngày không kính trọng tăng bảo, nhưng hễ
có người nào qua đời cần siêu độ thì lập tức đến siêu độ cho vong linh
người chết và học những kinh Phật, bài sám hối mà tăng ni thường dùng để
có mặt ở đạo trường. Đã thuộc về các đoàn tụng kinh, đội sám hối có
tính chất nghề nghiệp thì tất nhiên họ không tránh khỏi được tính công
lao và hưởng thù lao, những hiện tượng này Phật pháp không cho phép.
Cũng có người hỏi cư sĩ có thể dùng chiêng trống để tụng niệm không? Vấn
đề này không nên đặt ra, chỉ cần dùng những dụng cụ ấy để tụng kinh,
sám hối, tu hành theo đúng nghi thức Phật giáo chứ không được dùng làm
phương tiện để kiếm tiền, sinh sống. Vấn đề là ở chỗ sau khi dùng chuông
trống tụng niệm rất có thể người này, người nọ mời mọc rất bận rộn đến
nỗi phải bỏ nghề nghiệp vốn có của mình biến Phật sự tụng kinh, sám hối
làm nghề của mình, đó là điều cần phải phòng ngừa. Cư sĩ tại gia có
nhiều cách sinh sống, nếu dùng phương pháp tu hành để nuôi sống thì tuy
không chết đói cũng không trở nên giàu có, người cư sĩ chính tín lẽ nào
lại lao vào những công việc này sao?
Còn những công việc của người xuất gia thì đó là công việc của chúng
tăng, tăng ni quản tăng ni, cư sĩ không nên tham gia, cũng không thể can
thiệp, cũng như anh không phải là thành viên của đoàn thể nào đó mà lại
can thiệp vào công việc của đoàn thể đó, tham gia đã không được huống
hồ lại can thiệp vào ? Cái gọi là công việc của chúng tăng là tình trạng
thanh tịnh trong cuộc sống, trong uy nghi giới luật của người xuất gia,
là sự va chạm, mâu thuẫn giữa các chúng tăng với nhau. Nếu cư sĩ thắc
mắc thì chẳng khác gì anh không phải là quân đội mà vào doanh trại quân
đội phán xét, bàn luận kỹ luật quân đội, hoặc xử lý công việc của quân
nhân.
Người xuất gia vốn cùng một thể và vì là người phàm phu, nên giữa họ với
nhau có thể có mâu thuẫn. Nhưng giữa chúng tăng không có sự thù oán
nhau, càng không thể có những mối thù không đội trời chung, có những va
chạm nhỏ thì giải quyết êm đẹp ngay, nên thường dùng phương thức không
rõ ràng dứt khoát để xử lý những việc nhỏ nhặt trong chúng tăng. Nếu cư
sĩ nhúng tay vào, thì ngược lại xé to sự việc ra làm cho lời ra lời vào
nhiều thêm. Vì vậy, cư sĩ vào chùa viện phải nhiệt tâm hộ trì không được
giúp người này, nói người nọ, bàn chuyện phải trái tạo nên những rối
rắm cãi cọ. Nói một cách thông thường, không nên xem mặt tăng mà xem mặt
Phật, vì tin Phật, học Phật mà anh hộ trì Tam Bảo, gần gũi với chùa
viện, do đó không nên vì thấy những hiện tượng chúng tăng không làm đẹp
mắt anh mà sinh ra hiềm nghi tự chuốc lấy phiền não.
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét