1) Các vị A-la-hán và Phật tử phái
Nguyên thủy chỉ quan tâm đến việc tự giải thoát chính mình, chứ không
quan tâm đến lợi lạc của kẻ khác, họ có chủ đích hẹp hòi về vấn đề giải
thoát cá nhân, bởi vì họ “sợ hãi vòng sinh tử”, và vì vậy ít có lòng từ
bi đối với kẻ khác, và không đảm nhận các hoạt động nhằm đưa đến lợi lạc
cho kẻ khác. (?)
2) Đệ tử của lý tưởng Bồ tát và các Phật tử theo phái Đại thừa, quá quan
tâm đến các công tác xã hội nhắm mục đích làm lợi lạc cho kẻ khác đến
nỗi họ không thực hiện việc tu tập mà Đức Phật đã giáo huấn các đệ tử,
chẳng hạn như, điều phục tâm và phát triển trí tuệ. Họ đã quá bận rộn
với các nhiệm vụ xã hội nên đã từ bỏ việc tu tập thiền định. (?)
I. Hai lý tưởng Phật giáo cạnh tranh nhau:
Lý tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo
Nguyên Thủy và và lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại
Thừa. Nhận định này không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã
thể nhập lý tưởng Bồ tát trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận
giá trị của quả vị A-la-hán và quả vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của
người xuất gia. Vì thế, nói một cách chính xác hơn thì lý tưởng
A-la-hán và lý tưởng Bồ tát là những lý tưởng dẫn đạo cho cả Phật giáo
Tiền Nguyên Thủy lẫn Phật giáo Đại thừa.
Theo hình thái được truyền lại cho chúng ta ngày nay, điều quan trọng là
chúng ta phải nhận ra những lý tưởng này bắt nguồn từ nhiều khối lượng
văn bản khác nhau xuất phát từ nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử
phát triển Phật giáo. Nếu chúng ta không cứu xét điều này và chỉ so sánh
hai lý tưởng ấy như đã được mô tả trong các văn bản kinh điển Phật
giáo, chúng ta có thể cho rằng hai lý tưởng này khởi thủy đã được chính
đức Phật lịch sử thuyết giảng, và rồi chúng ta có thể giả định rằng đức
Phật – sống và giảng dạy ở thung lũng sông Hằng từ thế kỷ thứ 5 trước
Công nguyên – đã cho các đệ tử sự lựa chọn giữa hai lý tưởng này, như
thể Ngài đã nói “Đây là lý tưởng A-La-Hán, có những đặc điểm như thế
này, và đó là lý tưởng Bồ tát, có những đặc điểm như vậy. Hãy chọn con
đường nào các người thích”. Các kinh Đại thừa, như là Kinh Bát Nhã Ba La
Mật hay Kinh Pháp Hoa, cho chúng ta cảm tưởng rằng Đức Phật đã giảng
dạy cả hai lý tưởng ấy. Tuy nhiên những kinh này không phải là những bản
kinh xưa cổ đầu tiên. Trái lại, đây là những nỗ lực tương đối về sau
này để hệ thống hóa những hình thái tu tập khác nhau đã phát triển qua
một thời gian khoảng 400 năm sau khi đức Phật nhập Niết bàn.
Văn bản kinh điển Phật giáo cổ xưa nhất là bộ kinh Nikayas bằng tiếng
Pali (Nam Phạn) và những văn bản tương đương từ những trường phái đầu
tiên (được lưu lại trong bộ kinh A-Hàm bằng chữ Hán)- đã mô tả lý tưởng
của đệ tử Phật là quả vị A-la-hán. Kinh Đại thừa được hình thành một vài
thế kỷ sau bằng tiếng Sankrit (Bắc Phạn), đã mô tả lý tưởng Bồ tát là
hạnh nguyện của đệ tử theo tông phái Đại thừa. Giờ đây, một số người
tranh luận rằng bởi vì A-la-hán là lý tưởng của Phật giáo Nguyên thủy,
trong lúc Bồ tát là lý tưởng của tông phái Đại thừa sau này, như vậy thì
Đại thừa phải là tông phái Phật giáo tiến bộ hơn hoặc phát triển cao
hơn, một giáo lý thượng thừa so với giáo lý đơn giản và có tính chất căn
bản của bộ kinh Nikayas. Đây quả thật là một thái độ rất phổ biến trong
những tín đồ theo Đại thừa, mà tôi sẽ gọi là “ Phái thượng căn Đại
thừa”. Có một thái độ đối lập rất phổ biến trong những người bảo thủ cổ
xúy cho giáo lý kinh Nguyên thủy Nikayas, một thái độ mà tôi sẽ gọi là
“Phái Nguyên Thủy thuần túy”, những người này bác bỏ hoàn toàn những
phát triển sau này của lịch sử tư tưởng Phật giáo như là một sự lệch lạc
biến dạng, xa hẳn “tinh thần trong sáng ban đầu” của giáo lý xưa cổ.
Các vị theo ‘Nguyên Thủy thuần túy’ chỉ chấp nhận lý tưởng A-la-hán là
có giá trị và đôi lúc đã bác bỏ lý tưởng Bồ tát một cách mạnh mẽ.
Tôi cố gắng tìm một quan điểm công bằng cho vấn đề kinh tạng Nguyên thủy
và Đại thừa nhìn từ hai góc độ khác nhau, một quan điểm có thể dung nạp
sức mạnh của cả hai mà không rơi vào một sự hòa hợp dễ dãi, xuề xòa,
không xóa bỏ những bất đồng về mặt khái niệm giữa hai phái, không từ bỏ
tính trung thực đối với những văn kiện có tính cách lịch sử (tuy nhiên
vẫn công nhận rằng những văn kiện ấy không phải là hoàn toàn trong sáng
và không có thiên vị ). Điều này không dễ chút nào. Sẽ đơn giản hơn
nhiều khi chấp nhận lập trường của phái ‘ Nguyên thủy thuần túy’ hay
‘Thượng căn Đại thừa’ và giữ chặt quan điểm ấy không thay đổi. Tuy
nhiên, cả hai lập trường này đều có vấn đề ở chỗ cả hai đều bắt buộc
phải bỏ qua những sự kiện không thuận lợi cho họ. Mặc dù tôi đã xuất gia
theo tông phái Nguyên thủy, trong bài tham luận này, tôi sẽ không bảo
vệ cho ý kiến của một tông phái nào, hoặc cố gắng ủng hộ một quan điểm
có tính cách bộ phái. Mục đích của tôi là rút ra từ kinh điển những gì
kinh đã nói rõ ràng, và những gì kinh ngụ ý muốn nói, về hai lý tưởng
mang tính cạnh tranh nhau trong đời sống của người Phật tử. Cuối cùng,
khi tôi rút ra kết luận, tôi sẽ nói rõ kết luận là như vậy, và kết luận
này hoàn toàn của riêng tôi. Đôi lúc tôi sẽ không rút ra kết luận, thay
vào đó, tôi sẽ đặt câu hỏi, vạch ra những vấn đề trong lịch sử Phật giáo
mà tôi biết rõ, mà tôi không có may mắn để giải quyết được. Rất có thể
những gì tôi cho là quan điểm quân bình và tế nhị này sẽ bị những người
cổ vũ cho cả hai tông phái đả kích.
II – Đức Phật như một lý tưởng để hướng đến:
Tôi muốn bắt đầu bằng một nhận xét mà tôi nghĩ là cực kỳ quan trọng
nhưng ít ai đề cập, đó là, cả hai loại văn bản kinh điển – một mặt là
tạng kinh Nguyên thủy Nikayas và kinh A Hàm và mặt khác là các kinh điển
Đại thừa – theo một nghĩa nào đó đều nhìn vào chính đức Phật như là một
lý tưởng để hướng đến. Nghĩa là, đây không phải trường hợp Phật giáo
Nguyên thủy bỏ qua Đức Phật và thay vào đó lại xem các đệ tử của Ngài
như một lý tưởng để noi theo, còn Phật giáo Đại thừa đã đến cứu vãn tình
thế bằng cách phục hồi lại những gì các vị “Tiểu thừa” đã bỏ qua, nghĩa
là, chính Đức Phật là động lực khơi nguồn cảm hứng cho họ. Mà đúng hơn
là tôi muốn giữ nguyên ý kiến là đệ tử của cả hai tông phái Phật giáo
này – cùng những văn bản kinh điển chính thức từ đó hai tông phái này đã
phát triển – đều nhìn vào Đức Phật như một gương mẫu mà mọi Phật tử
chân chính đều cố gắng noi theo và vươn tới
Trước tiên hai tông phái này vẫn còn khác nhau bao lâu mà họ vẫn nhìn
Đức Phật từ hai góc độ khác nhau. Tôi sẽ dùng một hình ảnh so sánh tương
tự để minh họa điểm này và rồi sẽ đưa ra lời giải thích đầy đủ hơn. Ở
Tu viện của chúng tôi, tòa Chánh điện có hai cửa ra vào ở vào hai phía
đông và tây của tượng Phật. Nếu người ta nhìn vào tượng Phật sau khi
bước vào Chánh điện bằng cửa phía tây, thì hình tượng Đức Phật hiện ra
theo một góc độ làm nổi bật một vài đặc điểm trên nét mặt của Ngài. Nếu
người ta nhìn vào hình tượng của Ngài khi đi vào Chánh điện bằng cửa
phía đông, thì Đức Phật hiện ra theo một kiểu khác, góc độ ấy làm nổi
bật những đặc điểm khác trên nét mặt của Ngài. Tôi thấy đây là một hình
ảnh so sánh thích hợp đối với quan điểm của hai truyền thống Phật giáo
về Đức Phật và sự giác ngộ của Ngài. Tôi thấy cả hai tạng Kinh Nguyên
thủy Nikayas và Kinh A Hàm và tạng kinh Đại thừa cho chúng ta nhìn Đức
Phật và sự giác ngộ của Ngài từ những góc độ khác nhau, và như vậy cho
chúng ta những hiểu biết khác nhau về vấn đề thế nào là một đệ tử chân
chính của Đức Phật.
Để tóm tắt nét đặc trưng của hai quan điểm ấy, tôi muốn nói rằng kinh
tạng Nguyên thủy và A Hàm cho chúng ta nhìn Đức Phật từ ‘một góc độ
lịch sử thực tế’, trong lúc kinh điển Đại thừa cho chúng ta nhìn Đức
Phật từ ‘một góc độ huyền thoại siêu hình’. Bằng cách sử dụng những từ
này, tôi không có ý định dùng kinh tạng Nguyên thủy để làm giảm giá trị
của kinh điển Đại thừa, mặc dù tự nhiên là tôi xem kinh tạng Nguyên thủy
có vẻ gần gũi hơn với những lời giảng dạy của chính Đức Phật. Đúng hơn,
tôi chỉ cố gắng nêu lên những nét đặc trưng trong quan điểm mà hai tạng
kinh này sử dụng khi đề cập đến Đức Phật và diễn giải ý nghĩa sự hiện
hữu của Ngài đối với thế giới. Rồi từ hai quan điểm ấy, xác định những
gì đức Phật đã thành tựu qua sự giác ngộ của Ngài. Tuy nhiên, mặc dù là
một vị A-la-hán, chúng ta có thể gọi Ngài là ‘một vị A-la-hán với nhiều
đặc điểm khác biệt’, hơn nữa, Ngài không chỉ là một vị A-la-hán với vài
điểm đặc biệt, mà cuối cùng đó là một vị A-la-hán với những đặc điểm
khác biệt đã nâng Ngài lên tầm mức phi thường, trở thành bậc Đạo sư của
cả thế giới, một vị đứng trên tất cả các vị A-la-hán khác. Những đặc
điểm này có thể nói là đã mở cửa cho ‘quan điểm huyền thoại siêu hình’
về đức Phật như một cách cho chúng ta hiểu những gì đã tạo ra sự khác
biệt ấy. Một khi cách cửa này đã mở ra, thì Đức Phật được nhìn như một
vị đã hoàn thành viên mãn hạnh nguyện Bồ tát trải qua vô luợng kiếp,
trong đó Ngài đã hy sinh thân mạng mình bằng nhiều cách, nhiều lần, vì
lợi lạc cho chúng sanh, đây là khía cạnh huyền thoại của quan điểm đó.
Một lần nữa, Ngài được xem như vị đã đạt đến thực tại tối thượng, là Như
Lai, người từ Chân Như đến, và trở về với Chân Như, thế nhưng Ngài là
vị không trụ ở đâu cả, đây là khía cạnh siêu hình của quan điểm đó. Và
quan điểm huyền thoại siêu hình này trở thành đặc điểm của kinh điển Đại
thừa.
III . Quan điểm của kinh tạng Nguyên thủy:
Như tôi đã nói trên, có một ý nghĩa mà cả hai tạng kinh Nguyên thủy và
Đại thừa đều sử dụng trong các công trình của họ để chứng minh rằng một
người cần phải đáp ứng được những yêu cầu gì nếu ‘muốn đi theo bước chân
bậc Đạo sư’. Nhưng họ thực hiện công trình này theo hai lập trường khác
nhau. Tôi sẽ giải thích lập trường của kinh tạng Nguyên thủy trước, rồi
sẽ đến lập trường của kinh điển Đại thừa.
Kinh tạng Nguyên thủy bắt đầu bằng thân phận bình thường của con người
chúng ta và mô tả Đức Phật cũng khởi đầu từ thân phận con người giống
như vậy. Nghĩa là, đối với kinh Nguyên thủy, Đức Phật khởi đầu như một
con người bình thường chia sẻ đầy đủ mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài
sinh ra giữa chúng ta như một con người và phải chấp nhận những giới hạn
của kiếp người. Khi Ngài lớn lên, Ngài cũng phải đương đầu với tuổi
già, bệnh tật và cái chết không thể tránh được, tất cả đã hé lộ cho Ngài
thấy nỗi đau khổ sâu xa vẫn tiềm ẩn đằng sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời
sống, nỗi khổ ấy như đang chế riễu những niềm vui sướng rạng rỡ nhất của
chúng ta. Cũng giống như những nhà tư tưởng Ấn độ đương thời, Ngài tìm
kiếm một con đường giải thoát những đau khổ của kiếp người – và như Ngài
nói, Ngài tìm con đường giải thoát trước tiên là cho chính Ngài, chứ
không phải mang trong tâm tư hoài bão vĩ đại muốn cứu rỗi toàn thể giới.
Ngài đã ra đi, trở thành một nhà tu hành khổ hạnh và đã dấn thân vào
cuộc đấu tranh khắc nghiệt để tìm đường giải thoát. Cuối cùng Ngài đã
tìm ra con đường đúng đắn và đạt đến hạnh phúc Niết bàn. Sau khi giác
ngộ, Ngài suy nghĩ không biết có nên truyền bá con đường tu tập này cho
quần chúng không, và khuynh hướng đầu tiên của Ngài là giữ im lặng. Cần
ghi nhận ở đây là Ngài hầu như muốn theo đuổi con đường của một vi Độc
giác Phật. Chỉ sau khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ Ngài, Ngài mới
nhận trách nhiệm giảng dạy con đường giải thoát cho chúng sanh. Thành
tựu lớn lao của Ngài là đã chứng đắc Niết bàn, một trạng thái hoàn toàn
giải thoát mọi hệ lụy và khổ đau. Đây là mục tiêu vĩ đại, là cứu cánh
của tất cả nỗ lực tâm linh, là niềm an lạc vượt qua tất cả mọi lo âu,
phiền muộn bất an của thân phận con người bình thường. Bằng cách giảng
dạy con đường giải thoát, Ngài đã chỉ rõ cứu cánh này cho mọi người
biết, và những ai đi theo con đường này cũng sẽ đạt đến cứu cánh tối
thượng giống như Ngài.
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên của tất cả các vị A-la-hán, trong lúc
đó những ai đạt đến mục tiêu ấy bằng cách đi theo con đường của Ngài
cũng trở thành A-la-hán. Trong các bài kệ tán thán Đức Phật có nói rằng :
“Thế Tôn là bậc A-la-hán…” Chỉ một thời gian ngắn sau khi đắc đạo,
trong lúc đi đến thành Ba-la-nại để gặp năm vị tu sĩ, một du sĩ chận Đức
Phật lại và hỏi “ Ngài là ai ?” . Đức Phật trả lời : “ Ta là bậc
A-la-hán trong đời này, ta là bậc thầy tối thượng”. Như vậy, Đức Phật
trước tiên tuyên bố chính Ngài là một vị A-la-hán. Dấu hiệu để xác định
một vị A-la-hán là sự chứng đắc Niết bàn trong đời sống hiện tại. Danh
từ “ A-la-hán” không phải do đức Phật sáng chế ra, nhưng là một danh từ
đã lưu hành trước khi Ngài xuất hiện trong bối cảnh tôn giáo ở Ấn độ
đương thời. Danh từ này xuất phát từ động từ arahati , cónghĩa là “ xứng
đáng”, như vậy có nghĩa là một vị thật sự xứng đáng được cung kính và
cúng dường. Trong số những vị đi tìm kiếm chân lý tâm linh thời Đức
Phật, danh từ này được dùng để chỉ một người đã đạt đến cứu cánh tối
thượng, vì chính điểm này đã làm cho vị ấy xứng đáng được cung kính và
cúng dường. Theo quan điểm của kinh Nguyên thủy, cứu cánh tối thượng –
theo ý nghĩa chặt chẽ của giáo lý – là Niết bàn, và cứu cánh theo ý
nghĩa của con người là quả vị A-la-hán, một trạng thái của một người đã
chứng đắc Niết bàn trong hiện tại. Sự thành đạo của Đức Phật là đầy ý
nghĩa vì điều này đánh dấu việc chứng đắc Niết bàn đầu tiên trong thời
đại lịch sử ấy. Chúng ta có thể nói Đức Phật đã vươn lên chân trời lịch
sử như một vị A-la-hán, trong sự biểu hiện lịch sử này, Ngài đã soi sáng
tâm thức con người như một vị A-la-hán.
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều
người. Giác ngộ là vô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải
thoát tối thượng của Niết bàn. Trong kinh tạng Nguyên thủy, chúng ta tìm
thấy nhiều bài mô tả về tiến trình giải thoát của Đức Phật, và có những
bài kinh tương tự mô tả sự giải thoát của các vị đệ tử với lời lẽ giống
như vậy. Trong Trung Bộ Kinh bài 26, Đức Phật nói: “ Từ bản thân ta
phải chịu sinh, già, bệnh, chết, ta đã đạt được trạng thái không sanh,
không già, không bệnh, không chết, an ổn tuyệt đối, vượt khỏi hệ lụy, đó
là Niết bàn”.(Trung Bộ Kinh 1, trang 167 ). Vài tháng sau, khi Ngài
giảng pháp cho năm vị đệ tử đầu tiên, Ngài nói về các vị đệ tử ấy như
sau: “Khi những vị tỷ kheo ấy được ta giảng dạy và hướng dẫn, từ chỗ
phải chịu sanh, già, bệnh, chết, họ đã đạt được không sanh, không già,
không bệnh, không chết, một trạng thái an ổn tuyệt đối, đó là Niết bàn”(
TBK 1, tr 173). Như vậy, sự chứng đắc của các vị tỳ kheo ấy cũng được
mô tả bằng những từ ngữ giống hệt như những từ ngữ mà Đức Phật đã dùng
để mô tả sự chứng đắc của Ngài. Lại nữa, trong nhiều bài kinh – Trung Bộ
Kinh 4, 19, 36 – Đức Phật mô tả sự thành đạo của Ngài gồm có hai giai
đoạn. Trước tiên là Ngài đắc Tứ thiền. Thứ hai, trong canh ba của đêm
ấy, Ngài đắc Tam minh : Ngài nhớ lại được các đời sống trong quá khứ
(túc mạng minh) , Ngài thấy được sự sống chết của chúng sanh tùy theo
nghiệp của họ (thiên nhãn minh), và biết được sự đoạn diệt các lậu hoặc
(lậu tận minh). Nhiều bài kinh trong Trung bộ Kinh mô tả sự đắc quả
giác ngộ của các vị đệ tử cũng giống như vậy: trước tiên là đắc Tứ
thiền, rồi đạt được Tam minh (TBK 27, 51,53)
Trong Tương Ưng Bộ Kinh số 22:58, Đức Phật nói rằng cả Như Lai và các vị
đệ tử A-la-hán giống nhau ở chỗ đã giải thoát khỏi sự ràng buộc của ngũ
uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, sự khác nhau giữa các vị này
như thế nào? Câu trả lời của Đức Phật đưa ra đã chỉ rõ ưu tiên về thời
gian chính là điểm khác biệt: Như Lai là vị đầu tiên đã khởi xướng con
đường, là người tìm ra con đường, là người tuyên bố về con đường giải
thoát. Ngài là vị đã biết rõ đạo, khám phá ra đạo và tuyên thuyết về đạo
giải thoát. Đệ tử của Ngài cũng đi theo con đường ấy và sau đó cũng
đắc đạo. Cả hai đều cùng đi một con đường và cùng đắc đạo giống nhau.
Như vậy, Đức Phật nổi bật giữa các vị đệ tử A-La-Hán, không phải vì sự
khác biệt trong phạm trù chứng đắc, mà là sự khác biệt trong vai trò của
Ngài: Ngài là vị đầu tiên trong thời đại lịch sử ấy đã đắc quả giải
thoát, và Ngài đã phục vụ như một người dẫn đạo không ai sánh kịp khi
Ngài phổ biến con đường giải thoát cho mọi người biết. Ngài có những kỹ
năng khéo léo trong việc giảng dạy mà ngay cả những đệ tử xuất sắc nhất
của Ngài cũng không thể sánh kịp, nhưng về việc chứng ngộ siêu xuất thế
gian thì cả Đức Phật và các vị A-La-Hán đệ tử của Ngài đều là những vị
‘Phật’, những“bậc giác ngộ”, ở chỗ các ngài đã hiểu rõ thực tướng của
vạn pháp. Các ngài đã đoạn trừ các lậu hoặc và từ đó đã đạt đến hạnh
phúc an lạc của Niết bàn. Các ngài là những vị đã được giải thoát trọn
vẹn. Các ngài đã thấu hiểu trọn vẹn chân lý của khổ; đã đoạn trừ tham
ái, là nguồn gốc của khổ; đã chứng đắc Niết bàn, là sự đoạn tận mọi khổ
đau; và các ngài đã hoàn thành viên mãn việc hành trì Bát Chánh Đạo, là
con đường đưa đến sự chấm dứt mọi khổ đau.
Là người đầu tiên đã thành tựu viên mãn tất cả những thánh quả ấy, đức
Phật đã hoàn thành hai chức năng. Trước tiên, Ngài là một mẫu mực, một
gương mẫu tối thượng; tất cả mọi khía cạnh của cuộc đời Ngài đều là mẫu
mực, nhưng trên hết, chính bản thân Ngài đã chứng minh khả năng đạt được
giải thoát hoàn toàn mọi trói buộc của tâm, hoàn toàn thoát khỏi khổ
đau, thoát khỏi những cạm bẫy của vòng luân hồi sinh tử. Thứ hai, như đã
nói ở trên, Ngài phục vụ như một người chỉ đường, một người hiểu rõ con
đường và có thể giảng dạy con đường trong từng chi tiết phức tạp nhất.
Là người dẫn đạo, Ngài luôn luôn thúc đẩy đệ tử tận tâm tận lực để đạt
được cứu cánh tối thượng là Niết bàn. Ngài căn dặn họ phải nỗ lực tinh
tấn tu tập giống như một người có khăn đội đầu bị cháy đang nỗ lực dập
tắt ngọn lửa. Những ngọn lửa trong tâm chúng sanh là lửa tham, sân, si,
và dập tắt những ngọn lửa ấy là đạt đến Niết bàn. Những người đã dập tắt
được lửa tham, sân, si, là những vị A-la-hán.
IV- Làm thế nào để phân biệt Đức Phật với các vị A-la-hán khác?
Tuy nhiên, cũng không hẳn đúng khi nói rằng yếu tố ưu tiên về thời gian
là điểm duy nhấtphân biệt Đức Phật với các vị A-la-hán. Để đưa ra điểm
khác biệt, tôi muốn lấy hai công thức quen thuộc được dùng rất nhiều
trong các văn bản kinh điển, một công thức cho Đức Phật và một cho các
vị A-la-hán. Tôi đã trích dẫn lời mở đầu ca tụng Đức Phật, nay tôi xin
được trích dẫn đầy đủ : “ Ngài là bậc Ứng cúng (A-la-hán), Chánh biến
tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ , Điều ngự
trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật , Thế Tôn”.
Có mười danh hiệu trong câu tán thán Phật. Trong số mười danh hiệu này,
bốn danh hiệu cũng được dùng cho các vị đệ tử là: Ứng cúng, Minh hạnh
túc, Thiện thệ, Bậc Giác ngộ (Phật); sáu danh diệu chỉ dùng riêng cho
Đức Phật là: Chánh biến tri, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự
trượng phu, Thiên nhơn sư, Thế Tôn. Cần ghi nhận là trong sáu danh hiệu
ấy, ba danh hiệu (Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư) rõ
ràng nói lên ý nghĩa đặc biệt của Đức Phật đối với mọi người, trong lúc
theo tôi hiểu, thì ý nghĩa này cũng bao hàm trong chữ ‘Bhagava’. Ngay cả
thuộc từ mang ý nghĩa tuệ giác cũng có chủ ý chứng tỏ rằng Ngài là bậc
có thẩm quyền đáng tin cậy, nghĩa là, nhờ tuệ giác của Ngài, người khác
có thể tín nhiệm Ngài như một bậc dẫn đường cho họ. Vì thế khi Đức Phật
được tán thán như là ‘ Samma Sambudha’, là một ‘Bậc Chánh biến tri’,
điều này làm nổi bật không những sự giác ngộ trọn vẹn của Ngài mà còn là
địa vị thẩm quyền và đáng tin cậy của Ngài như một bậc thầy hướng dẫn
tâm linh.
Công thức dành cho các vị A-la-hán như thế này: “Vị tỳ kheo này là một
bậc A-la-hán, người đã đoạn trừ các lậu hoặc, đã sống đời phạm hạnh, đã
làm những việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã viên mãn cứu cánh, đã
hoàn toàn đoạn tận các kiết sử, người đã giải thoát hoàn toàn nhờ đạt
được tri kiến rốt ráo”. Tất cả các thuộc từ này cũng đúng đối với Đức
Phật, nhưng Đức Phật không được mô tả theo cách này, vì những từ ngữ này
nhấn mạnh đến việc thành tựu giải thoát của chính mỗi cá nhân, và Đức
Phật được ca ngợi, trước hết không phải là một vị đã đạt được giải thoát
cho riêng mình, mà là người đã mở cánh cửa giải thoát cho mọi người.
Nghĩa là, ngay cả trong những bài kinh cổ điển của tạng Nguyên thủy, ý
nghĩa “ có quan tâm đến kẻ khác” đã được dùng một cách tế nhị để mô tả
địa vị của Đức Phật, nhưng đã không dùng để mô tả các vị A-la-hán.
Theo kinh tạng Nguyên thủy, nội dung của sự giác ngộ của Đức Phật không
khác với các vị A-la-hán về mặt phẩm chất, sự giác ngộ này đóng một vai
trò khác trong điều mà chúng ta có thể gọi là một kế hoạch vĩ đại để cứu
độ toàn thể chúng sanh trong vũ trụ. Sự giác ngộ của Đức Phật có một
yếu tố chính là “hướng đến kẻ khác” đã được xây dựng ngay từ đầu. Nhờ
đức hạnh của sự giác ngộ, Đức Phật đã phục vụ như một bậc thầy vĩ đại,
người đã “mở cánh cửa bất tử”cho chúng sanh. Trong Tăng Chi Bộ kinh I,
xiii, I , nói rằng Ngài là bậc đã đản sanh vào cuộc đời vì an lạc của
chúng sanh, vì lòng từ mẫn đối với chúng sanh, vì hạnh phúc của chư
thiên và loài người. Trung bộ Kinh số 9 so sánh Ngài như một vị hiền giả
chăn dắt một đàn nai (mang ý nghĩa tất cả loài hữu tình) đi từ nơi hiểm
nguy đến nơi an ổn, TBK số 34 so sánh Ngài với một người chăn bò,dẫn
dắt đàn bò ( các vị đệ tử ) qua sông an ổn. Theo TBK số 35, Đức Phật
được các vị A-la-hán khác tôn kính bởi vì Ngài là người sau khi tự mình
chứng đắc giác ngộ, đã giảng dạy giáo pháp đưa đến giác ngộ, sau khi đạt
được an lạc, Ngài đã giảng dạy giáo pháp đưa đến an lạc, sau khi chứng
đắc Niết bàn, Ngài đã giảng dạy giáo pháp đưa đến Niết bàn. Ngài là bậc
toàn hảo về mọi phương diện, và điểm toàn hảo quan trọng nhất của Ngài
là khả năng giảng dạy giáo pháp thích hợp với căn cơ của tất cả những ai
đến xin Ngài hướng dẫn. Giáo pháp của Ngài luôn luôn thích hợp chính
xác với căn cơ của những ai đến cầu xin Ngài giúp đỡ, và khi tuân theo
lời chỉ dạy của Ngài, họ đều nhận được kết quả tốt đẹp, cho dù đó chỉ là
đạt được đức tin hay là đạt được giải thoát.
Các vi A-la-hán khác dĩ nhiên cũng có thể giảng dạy được, và nhiều vị đã
giảng dạy cho các nhóm đệ tử. Tuy nhiên, dù họ là những vị thầy, họ
cũng không thể so sánh được với đức Phật. Điều này đúng ít nhất là về
hai phương diện : thứ nhất, giáo pháp mà họ dạy cho người khác chính là
giáo pháp do Đức Phật thuyết giảng, và rốt cuộc thì Đức Phật là cội
nguồn trí tuệ của họ; thứ hai, khả năng giảng dạy của họ không bao giờ
sánh được với kỹ năng của Đức Phật về mọi phương diện, vì Đức Phật là
người duy nhất biết được trọn vẹn con đường giải thoát. Đức Phật là một
vị thầy có thể giảng dạy hết sức hữu hiệu như thế bởi vì sự giác ngộ của
Ngài – tuệ giác về Tứ diệu đế đưa đến đoạn trừ mọi phiền não – đã đi
cùng với việc chứng đắc thêm nhiều tuệ giác thù thắng khác được xem như
là kho báu đặc biệt của Đức Phật. Theo các kinh điển cổ xưa nhất, một số
tuệ giác chính yếu là thập lực của Như Lai ( TBK 70-71), gồm có tuệ
giác về khuynh hương khác nhau của chúng sanh, tuệ giác về mức độ trưởng
thành của năng lực chúng sanh. Những tuệ giác này giúp cho Đức Phật
hiểu được khuynh hướng tinh thần tự nhiên và căn cơ của bất cứ ai đến
xin Ngài hướng dẫn, và Ngài đã giảng dạy người đó theo một phương pháp
đặc biệt chứng tỏ hữu hiệu nhất, xét theo tính tình và hoàn cảnh riêng
của người đó. Vì vậy, Ngài là bậc ‘vô thượng sĩ điều ngự trượng phu”.
Trong lúc các vị đệ tử A-la-hán chỉ có khả năng giao tiếp giới hạn, Đức
Phật có khả năng giao tiếp hữu hiệu với chúng sinh trong nhiều cõi khác
nhau, cũng như với mọi người thuộc nhiều giai tầng khác nhau trong xã
hội. Khả năng này đã đưa Ngài lên địa vị “ bậc thầy của Trời và loài
người ( thiên nhơn chi đạo sư).
Như vậy chúng ta có thể thấy Đức Phật và các vị đệ tử A-la-hán cùng chia
sẻ một số đức tính chung, trước hết là sự giải thoát mọi phiền não và
tất cả các sợi dây ràng buộc các Ngài với vòng luân hồi sinh tử. Và
chúng ta cũng đã thấy Đức Phật khác biệt với các đệ tử của Ngài như thế
nào, có thể kể là :
1) Ngài đã đắc đạo trước tiên.
2) Chức năng của Ngài là một bậc thầy và là người hướng dẫn
3) Ngài đã đạt được một số đức tính và tuệ giác thù thắng khiến Ngài có thể hành xử như một vị thầy và một người dẫn đường.
4) Ngài cũng là vị được trời ban cho đầy đủ 32 tướng tốt và nhiều
nét đẹp khác. Điều này sẽ tạo được niềm tin ở những người muốn nương
theo dung sắc bên ngoài.
V. – Vấn đề Bồ tát
Như tôi đã nói trên rằng mỗi thái độ cực đoan –‘ Nguyên thủy thuần túy’
hay ‘Thượng căn Đại thừa’ đều bỏ qua những sự kiện không thuận lợi theo
quan điểm của họ. Phái “Thượng căn Đại thừa” bỏ qua sự kiện – bao lâu mà
chúng ta có thể xác chứng qua các văn bản ghi chép đầu tiên về những
lời giảng dạy của Ngài – là trong thị hiện lịch sử Đức Phật không dạy
Bồ tát đạo, lý tưởng này chỉ mới xuất hiện trong những tài liệu bắt đầu
có mặt ít nhất là một thế kỷ sau khi Ngài nhập diệt. Điều mà Đức Phật đã
dạy môt cách nhất quán, theo các văn bản đầu tiên, là việc chứng đắc
Niết bàn nhờ đạt quả vị A-la-hán. Vấn đề gây quan ngại cho phái “ Nguyên
thủy thuần túy” chính là hình ảnh của Đức Phật, vì trong Đức Phật chúng
ta gặp một con người, mà trong lúc Ngài là một vị A-la-hán, lại không
đắc quả A-la-hán như các vị đệ tử của Ngài, nhưng lại đắc quả vị Phật.
Trong chính kinh tạng Nguyên thuỷ, Ngài đã được mô tả không những là một
vị A-la-hán đầu tiên, mà còn là thành viên của một đẳng cấp khác – là
các bậc Như Lai – những vị đã sở đắc những đặc điểm phi thường khiến các
ngài khác biệt với tất cả chúng sinh, kể cả các vị đệ tử A-la-hán của
các ngài. Hơn nữa, kinh tạng Nguyên thủy đã xem các bậc Như Lai là tối
thượng trong toàn bộ thế giới hữu tình: “Này các tỳ kheo, ở bất cứ cấp
độ nào, có những loài hữu tình, dù không chân hay có hai chân, bốn chân,
hay nhiều chân, dù có sắc hay không sắc, dù có tưởng hay không tưởng,
hay không có tưởng và cũng không không có tưởng, ta tuyên bố Như Lai,
bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác là bậc tối thượng trong tất cả ”(Tăng Chi
Bộ Kinh 4:34).
Giờ đây, vì Đức Phật được phân biệt với các vị đệ tử đã giác ngộ của
Ngài theo cách như đã trình bày trên, hầu như đã quá rõ ràng là trong
các đời quá khứ, Ngài chắc hẳn đã đi theo con đường chuẩn bị cho Ngài
đạt đến kết quả tối thượng như vậy, và đó chính là con đường của một vị
Bồ tát. Thật ra, kết luận này là điểm đồng thuận chung giữa các trường
phái Phật giáo, dù là “Tiểu thừa” hay Đại thừa, điều này đối với tôi
khỏi cần bàn cãi. Theo tất cả các truyền thống Phật giáo, để đắc quả
giác ngộ tối thượng của một vị Phật đòi hỏi hành giả phải phát tâm theo
đuổi một đại nguyện và hoàn thành viên mãn hạnh nguyện Ba la mật, và
chính Bồ tát là vị đã hoàn thành đại nguyện ấy.Tuy nhiên, kinh tạng
Nguyên thủy và kinh A- hàm, là những văn bản kinh điển cổ xưa nhất, lại
im lặng một cách lạ lùng về vấn đề này. Trong kinh Nguyên thủy, Đức Phật
có đề cập chính Ngài như là một vị Bồ tát trong giai đoạn trước khi
Ngài thành đạo: trong tiền thân ngay trước đó, Ngài đã ở cung trời Đâu
suất, và trong giai đoạn đời sống cuối cùng trước khi thành đạo, Ngài là
Sa môn Gotama thuộc bộ tộc Thích ca. Nhưng Ngài đã không nói gì để gợi ý
là Ngài đã nhận thức rõ con đường Ngài theo đuổi là nhắm đến Phật quả.
Hơn nữa, không lâu sau khi Ngài thành đạo, khi Đức Phật suy xét xem có
nên giảng dạy giáo pháp của Ngài hay không, Ngài nói rằng trước tiên
Ngài có khuynh hướng muốn “nghỉ ngơi”(TBK 26/I/168), có nghĩa là, không
giảng dạy, điều này gợi ý là ngay cả sau khi thành đạo có thể Ngài đã
không hoàn thành sứ mạng của một vị Phật Thế Tôn , mà có thể sẽ trở
thành một vị Độc giác Phật.
Tuy nhiên, có những đoạn kinh khác đó đây trong tạng kinh Nguyên thủy đã
không cho chúng ta rút ra một kết luận xác định rằng Đức Phật chỉ thành
Phật một cách tình cờ hay thái độ do dự của Ngài bao hàm một khả năng
lựa chọn đích thực. Trái lại, những đoạn kinh ấy gợi ý rằng việc thành
tựu quả vị Phật đã được chuẩn bị từ nhiều kiếp trước. Mặc dù những đoạn
kinh ấy không nói rằng trong các tiền kiếp ngài đã đi theo con đường Bồ
tát hạnh để đạt đến Phật quả, kinh tạng Nguyên thủy đã có mô tả Ngài ở
cung trời Đâu suất trong tiền kiếp ngay trước đó (như tôi vừa ghi nhận
trên đây), và đã định sẽ trở thành vị Phật toàn giác trong kiếp tiếp
theo như là Sa môn Gotama của bộ tộc Thích ca, và điều này bao hàm rằng
trong những tiền thân quá khứ, chắc hẳn Ngài đã hoàn thành những điều
kiên tiên quyết khó khăn nhất để có thể đạt được địa vị tối thắng như
vậy, và trở thành một bậc cao thượng đáng kính trọng nhất trên đời. Khi
Ngài đầu thai vào bụng của mẫu hậu, một luồng ánh sáng vô lượng xuất
hiện trên trời, vượt qua ánh sáng của chư thiên, và luồng ánh sáng ấy
xuất hiện trở lại lúc Ngài chào đời. Khi Ngài ra đời, trước tiên Ngài
được các vị thần đón chào, và một giòng nước từ trên trời rót xuống để
tắm cho Ngài và mẫu hậu. Ngay lúc Ngài mới hạ sinh, Ngài đã đi bảy bước
và tuyên bố Ngài là bậc tối thượng trên đời ( TBK 123/III/ 120-123). Chư
thiên ca hát vui mừng, tuyên bố rằng vị Bồ tát đã xuất hiện vì lợi lạc
và hạnh phúc của chúng sanh (TUBK 686). Dĩ nhiên, những đoạn kinh ấy, có
thể xem như là đã được thêm vào kinh Nguyên thủy sau này, cho thấy một
giai đoạn mà “ huyền thoại về Đức Phật” đã tìm cách chen vào các bản
kinh cổ điển nhất. Tuy nhiên, nếu cho rằng luật nhân quả đã hoạt động
theo chiều hướng tâm linh trong lãnh vực con người, thì hình như khó ai
có thể đạt đến địa vị phi thường của Đức Phật mà không quyết tâm nỗ lực
trải qua nhiều kiếp để đạt đến quả vị tối thượng ấy.
Mặc dù có những suy xét như vậy, trong kinh tạng Nguyên thủy chúng ta
chưa bao giờ được thấy Đức Phật giảng dạy người khác đi theo con đường
hướng đến quả vị Bồ tát. Bất cứ lúc nào Ngài thúc đẩy các vị đệ tử xuất
gia của Ngài nỗ lực đạt đến mục tiêu gì, thì đó là nỗ lực đắc quả
A-la-hán, đạt được giải thoát, Niết bàn. Bất cứ khi nào các vị đệ tử
xuất gia đến yết kiến Đức Phật, họ đều xin Ngài hướng dẫn con đường đưa
đến quả vị A-la-hán. Những vị tỳ kheo được đức Phật khen ngợi giữa tăng
đoàn là những vị đã đắc quả A-la-hán. Khi các vị đệ tử tại gia đến yết
kiến đức Phật, họ luôn luôn xin Ngài hướng dẫn con đường tu tập để được
tái sanh vào cõi Thiên, đôi lúc đạt quả Dự lưu hay những con đường siêu
việt vượt thế gian ngay trong cõi đời này. Những đoạn kinh ấy cho ta
biết chắc rằng đối với kinh tạng Nguyên thủy, thì con đường đưa đến quả
vị A-la-hán là mục tiêu được qui định cho đời sống xuất gia, còn con
đường tái sanh lên cõi trời và các quả vị thấp hơn là mục tiêu được qui
định cho các đệ tử tại gia.
Tuy nhiên, chúng ta không cần phải chấp nhận kinh tạng Nguyên thủy theo
giá trị bề ngoài, mà chúng ta có thể đặt nghi vấn. Tại sao trong kinh
tạng Nguyên thủy, chúng ta chưa bao giờ thấy một ví dụ nào về một đệ tử
đến thỉnh cầu Đức Phật hướng dẫn con đường đi đến quả vị Bồ tát hay Phật
quả ? Và tại sao chúng ta không bao giờ thấy Đức Phật thúc đẩy các đệ
tử đi theo Bồ tát đạo ? Những câu hỏi này tự nó có vẻ hoàn toàn hợp
pháp, và tôi đã cố gắng tìm ra nhiều lời giải thích, dù cho không được
thành công hoàn toàn. Một giải thích cho là đã có lúc việc này xảy ra,
nhưng các nhà kết tập kinh điển đã thanh lọc và loại bỏ, bởi vì những
lời giảng dạy ấy không nhất quán với những lời giảng dạy hướng đến quả
vị A-la-hán. Giả thuyết này có vẻ không đứng vững, bởi vì nếu các bài
thuyết pháp về con đường đưa đến Phật quả đã có dấu ấn trên lời giảng
dạy đích thật của Đức Phật, thì các vị tăng kết tập kinh điển không thể
nào bỏ sót chúng. Một giải thích khác cho rằng trong giai đoạn khởi thủy
của Phật giáo, giai đoạn chưa có văn tự, Đức Phật chỉ là vị A-la-hán
đầu tiên giảng dạy quả vị A-la-hán và Ngài không khác biệt gì nhiều so
với các vị đệ tử A-la-hán của Ngài, những người đã đắc tam minh và có
các thần thông. Theo tài liệu này, kinh tạng Nguyên thủy là sản phẩm của
nhiều thế hệ tỳ kheo kết tập lại và như vậy đã làm tỏ lộ những dấu tích
của Đức Phật như một vị thánh và sự thăng hoa Ngài lên đến bậc tối
thượng (nhưng chưa phải là địa vị siêu nhân). Theo giả thuyết này, nếu
chúng ta có thể quay ngược cổ máy thời gian đến thời đại Đức Phật, chúng
ta sẽ thấy rằng Đức Phật khác với những vị đệ tử A-La-hán của Ngài
chính là ở chỗ Ngài đã đắc đạo đầu tiên và Ngài đã có những kỹ năng đặc
biệt của một bậc thầy, nhưng những khác biệt ấy không nhiều như kinh
tạng Nguyên thủy cổ sơ đã tạo nên. Tuy nhiên, địa vị này hình như đã
tước bỏ những đặc điểm nổi bật của Đức Phật: Ngài có khả năng phi thường
soi rọi đến tận đáy lòng những ai tìm đến Ngài để được hướng dẫn, và
Ngài đã giảng dạy họ bằng phương cách độc đáo thích hợp với cá tính và
hoàn cảnh của họ. Khả năng này biểu lộ một lòng từ bi sâu sắc, một tinh
thần phục vụ vị tha, phù hợp với khái niệm về Bồ tát hạnh hơn là khái
niệm kinh điển về hạnh nguyện bậc A-la-hán như chúng ta đã thấy mô tả
trong Trưởng Lão Tăng kệ hay các bài thi kệ “ mâu ni” trong Kinh Tập
Nipata.
Trong phần phân tích cuối, tôi phải thú nhận là tôi không thể đưa ra một
lời giải thích có tính thuyết phục. Dựa theo sự kiện là, trong những
thời gian sau này, rất nhiều Phật tử, theo truyền thống Nguyên thủy cũng
như Đại thừa, đã được lý tưởng Bồ tát khơi nguồn cảm hứng, thế mà quả
thật rất khó hiểu khi chúng ta thấy không có một lời giảng dạy nào về Bồ
tát đạo hay phương pháp hành trì Bồ tát đạo trong các bài kinh được xem
là đã truyền lại từ thời kỳ cổ sơ nhất của lịch sử văn học Phật giáo.
Đối với tôi, điều này vẫn là một câu đố bí hiểm không thể nào hiểu được.
Dù sao chăng nữa, những bản kinh chúng ta kế thừa không chứng tỏ một sự
khác biệt rõ ràng giữa chức năng “quan tâm đến chúng sanh” của Đức Phật
và cái gọi là “ tự giác ngộ” của vị A-la-hán như truyền thống sau này
đã mô tả. Chúng ta tìm thấy trong kinh tạng Nguyên thủy sự nhấn mạnh khá
nhiều đến các hoạt động vị tha nhắm đến việc chia sẻ giáo pháp với
người khác (mặc dù phải công nhận rằng, phần lớn sự nhấn mạnh này do Đức
Phật nói trong hình thức mệnh lệnh đưa ra cho các đệ tử của Ngài). Như
vậy, có rất nhiều bài kinh phân biệt bốn hạng người: những người chỉ
quan tâm làm lợi cho mình, những người chỉ quan tâm làm lợi cho kẻ khác,
những người không quan tâm làm lợi cho ai cả, và những người quan tâm
làm lợi cho cả hai; những bài kinh ấy ca ngợi nhất những người quan tâm
làm lợi cho cả hai. Và làm lợi cho cả hai có nghĩa là người thực hành
Bát Chánh Đạo và dạy cho người khác cũng thực hành như vậy; giữ đúng năm
giới và khuyến khích người khác cũng làm như vậy (TCBK 4:96-99). Trong
những bài kinh khác, Đức Phật cũng thúc giục những ai biết Tứ Niệm Xứ
nên giảng dạy cho bà con bạn bè về phương pháp tu thiền này, cũng vậy
đối với việc đoạn trừ ba hạ phần kiết sử để đắc quả Dự lưu, và Tứ diệu
đế ( TUBK 47:48, 55:16-17, 56:26). Trong thời kỳ đầu của công tác giáo
huấn đệ tử, Đức Phật đã thúc giục các đệ tử đi khắp nơi để thuyết giảng “
vì lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc, an vui, hạnh phúc của chư thiên
và loài ngườI”(LTI 21).Trong số những đức tính quan trọng của một vị đệ
tử xuất chúng là tài đa văn và khả năng thuyết pháp, hai đức tính có
liên quan trực tiếp đến lợi ích cho kẻ khác. Cũng vậy, chúng ta phải nhớ
rằng Đức Phật thành lập tăng đoàn ràng buộc bởi giới luật, và nội qui
được soạn thảo để giúp cho tăng đoàn hoạt động như một tập thể hoà hợp,
những giới luật ấy thường đòi hỏi từ bỏ lợi ích của cá nhân vì lợi ích
của tập thể. Đối với đệ tử tại gia, Đức Phật khen ngợi những người tu
tập vì lợi lạc cho bản thân, lợi lạc cho người khác, vì lợi lạc cho tất
cả thế gian. Nhiều vị đệ tử tại gia xuất sắc đã cải đạo cho đồng nghiệp
và láng giềng của họ và hướng dẫn họ tu tập đúng chánh pháp. Như vậy,
chúng ta có thể thấy trong lúc Phật giáo tiền Nguyên thủy nhấn mạnh rằng
mỗi người cuối cùng phải chịu trách nhiệm đối với số phận của mình, nêu
rõ là không ai có thể làm thanh tịnh kẻ khác hay cứu rỗi kẻ khác khỏi
nỗi khổ đau của vòng luân hồi, Phật giáo tiền Nguyên thuỷ cũng bao gồm
một chiều hướng vị tha vốn đã phân biệt Phật giáo với hầu hết các hệ
thống tôn giáo khác phát triển đồng thời ở miền bắc Ấn độ. Chiều hướng
vị tha này có thể được xem như là “hạt giống” từ đó lý thuyết Bồ tát
phát triển, và như vậy là một trong những yếu tố của Phật giáo cổ đại đã
đóng góp cho sự xuất hiện của tông phái Đại thừa.
VI.- Sự chuyển tiếp đến việc phát triển trọn vẹn khái niệm Bồ tát đạo
Có lẽ để có một giáo lý Bồ tát đạo phát triển trọn vẹn xuất hiện trong
Phật giáo, cần phải có một cái gì khác hơn là khái niệm về Phật quả mà
chúng ta tìm thấy trong các văn bản kinh điển Nguyên thủy cổ đại. Như
vậy, công trình thông thường so sánh quả vị A-la-hán của kinh tạng
Nguyên thủy với hình ảnh của vị Bồ tát trong kinh điển Đại thừa có lẽ đã
bị sai lệch đôi chút. Theo tôi thấy, thì một trong những yếu tố tiềm
ẩn bên dưới sự xuất hiện của lý thuyết Bồ tát được phát triển trọn vẹn
chính là sự chuyển hoá của khái niệm Phật quả cổ điển trong kinh tạng
Nikayas thành hình ảnh Đức Phật của đức tin và huyền thoại Phật giáo.
Điều này đã xảy ra trong thời kỳ Phật Giáo Bộ Phái, nghĩa là, giữa giai
đoạn Phật giáo tiền Nguyên thủy mà đại diện tiêu biểu là bộ kinh Nikayas
và việc xuất hiện của Phật giáo tiền Đại thừa. Trong thời kỳ này, đã
xảy ra hai khuynh hướng phát triển có ý nghĩa về khái niệm Phật quả. Thứ
nhất, con số các Đức Phật đã gia tăng, và thứ hai, các Đức Phật đã được
ban cho nhiều đức tính thù thắng hơn trước. Những phát triển này xảy ra
hơi khác nhau trong những trường phái Phật giáo khác nhau, nhưng cũng
có những nét chung nối kết họ lại với nhau.
Kinh tạng Nikayas đã đề cập sáu vị Phật xuất hiện trước Sa môn Gotama và
một vị sẽ xuất hiện sau Ngài, đó là Đức Phật Di Lặc. Giờ đây, vì thời
gian vũ trụ không có sự khởi đầu một cách rõ ràng hay sự chấm dứt có thể
quan niệm được, người ta có thể rút ra kết luận rằng ắt hẳn phải có
những vị Phật quá khứ, và như vậy số chư Phật quá khứ được gia tăng; có
những câu chuyện về một số vị Phật đã được lưu truyền và đưa vào thực
tại đời sống. Vì không gian là vô biên, với hệ thống thế giới như của
chúng ta được trải ra “mười phương trời”, một vài trường phái đã đặt sự
hiện hữu hiện tại của chư Phật trong những hệ thống thế giới ngoài thế
giới của chúng ta – chư Phật vẫn còn tại thế mà người ta có thể tôn thờ,
và nhờ uy lực của thiền định, người ta có thể thấy được thực sự bằng
cái nhìn thiền quán.
Những văn bản kinh điển của thời kỳ Phật Giáo Bộ Phái đã nâng cao năng
lực tuệ giác của Đức Phật đến mức độ cuối cùng gán cho Ngài những đức
tính của một đấng toàn năng. Ngài trở thành một bậc sở hữu được vô số
phép thần thông kỳ diệu. Mười tám “Pháp Phật nhiệm mầu”, không được đề
cập trong các kinh tạng cổ điển, đã được thêm vào. Huyền thoại và những
câu chuyện được lưu truyền mô tả những phương cách kỳ diệu Ngài đã giảng
dạy và chuyển hóa kẻ khác. Một số câu chuyện được tìm thấy trong các
bài kinh như: câu chuyện Ngài gặp tên giết người hàng loạt Angulimala,
ác quỷ Alavaka, người cùi khốn khổ Suppabuddha, vị Bà-la-môn nóng tính
Bharadvaja. Những chuyện ấy đã gia tăng theo cấp số nhân, tô vẽ một hình
ảnh Đức Phật như là một bậc đạo sư đầy sức sáng tạo không thể nghĩ bàn,
đã cứu rỗi đủ hạng người khổ đau và si ám. Ngài đã phá vỡ tính ngã mạn
của những người Bà-la-môn kiêu căng; đem lại an ủi cho những người mẹ
đau khổ và các bà vợ goá khốn cùng; Ngài xoá tan tính tự mãn của những
kiêu binh và giới quý tộc triều đình; Ngài đã xuất sắc vượt qua các học
giả thông thái trong các cuộc tranh luận và các du sĩ khổ hạnh muốn cạnh
tranh với Ngài về các ngón kỹ xảo thần thông; Ngài giáo huấn các vi
trưởng giả keo kiệt về điều kỳ diệu của hạnh bố thí; Ngài khơi nguồn
tinh tấn nơi các tỳ kheo phóng dật; Ngài chinh phục lòng kính trọng của
các vị vua và hoàng tử. Khi những người Phật tử nhìn lại bậc Đạo sư đã
nhập diệt của họ và suy nghĩ về những gì đã tạo nên tính cách vĩ đại phi
thường của Ngài, không bao lâu họ nhận ra rằng đức tính nổi bật nhất
của Ngài chính là lòng từ bi vô biên của Ngài. Không hài lòng với việc
giới hạn đức từ bi của Ngài đối với chúng sanh trong một kiếp, họ còn
thấy lòng từ bi ấy trải rộng ra đến vô lượng kiếp trong vòng luân hồi
sanh tử.
Trí tưởng tượng của họ đã sản sinh ra một kho tàng truyện tích rộng lớn
về các tiền thân của Đức Phật. Những câu chuyện ấy – Chuyện tiền thân
Đức Phật – kể về những tiền kiếp Ngài đã có ý thức chuẩn bị sứ mạng
thành Phật như thế nào bằng cách thực hành Bồ tát hạnh trong vô lượng
a-tăng tỳ- kiếp.
Trọng tâm của những câu chuyện ấy là tinh thần phục vụ và hy sinh. Chính
nhờ phục vụ kẻ khác và hy sinh thân mình vì lợi ích của kẻ khác mà Bồ
tát đã tạo được nhiều công đức và đạt được những đức hạnh đưa đến chứng
đắc Phật quả. Như vậy, trong tư tưởng Phật giáo được nhận thấy rõ ràng
qua các trường phái của thời kỳ Phật giáo tiền Nguyên thủy, chiều hướng
vị tha trong sự kiện thành đạo của Đức Phật đã được nhấn mạnh. Từ quan
điểm này, sự thành đạo của Đức Phật là đầy ý nghĩa, không những chỉ vì
điều này đã mở ra con đường đi đến Niết bàn cho nhiều người khác, mà
việc thành đạo ấy đã hoàn tất một công trình tu tập trải dài qua nhiều
a-tăng -tỳ-kiếp, khởi đầu bằng động lực vị tha và trải qua vô lượng kiếp
vẫn được duy trì bằng quyết tâm sống vì người khác. Trong giai đoạn tu
tập này, theo các truyện tích, thì vị Bồ tát tự mình thành tựu nhiều
công đức để chứng đắc Phật quả bằng cách hoàn thành viên mãn một số đức
hạnh tối cao, hạnh nguyện ba-la-mật, mà giờ đây những hạnh nguyện này đã
chiếm vị trí của các chi phần trong Bát Chánh Đạo của Phật giáo tiền
Nguyên thủy. Tôi phải nhấn mạnh rằng tất cả các trường phái của thời kỳ
Phật giáo Bộ Phái đều có chung hiểu biết này về Đức Phật, kể cả Phật
giáo Nguyên thủy.
Trong thời kỳ Phật Giáo Bộ Phái, các trường phái Phật giáo đã chấp nhận
ba “cổ xe” đi đến giác ngộ: cổ xe của bậc đệ tử A-la-hán, hay Thanh văn
thừa, được đa số đệ tử đi theo; cỗ xe của vị “Độc giác Phật”, là vị tự
mình chứng đắc mà không có đạo sư và cũng không giáo huấn chúng sanh,
hay Độc giác thừa, con đường này còn khó hơn; và cỗ xe của các đệ tử có
nguyện vọng thành Phật, hay Bồ tát thừa. Một khi tư tưởng này đã trở
thành phố biến trong dòng Phật Giáo Ấn Độ chính thống, tư tưởng về ba cỗ
xe không những đã được phái Đại thừa chấp nhận, mà cuối cùng cũng thể
nhập vào phái Phật giáo Nguyên thuỷ bảo thủ. Như vậy, chúng ta đọc thấy
trong các bài luận giải của phái Nguyên thủy sau này, như là bài của
Acariya Dhammapala và những vị khác, nói về ba cỗ xe như thế hay ba loại
bồ đề: sự giác ngộ của các vị đệ tử, của vị Độc giác Phật, và của Phật
Thế tôn.
VIII – Sự xuất hiện của tông phái Đại thừa như là Bồ tát thừa
Giờ đây vào một thời điểm nào đó trong giai đoạn này, việc diễn giải về
sự kiện thành đạo của Đức Phật đã đạt đến cao điểm trong khái niệm về Bồ
tát đạo hướng về cộng đồng Phật tử và đã mang một sức mạnh có tính qui
định, ít ra là đối với một số thành viên. Khi những vị đệ tử Phật này
suy nghĩ sâu xa về hình ảnh một người Phật tử lý tưởng phải như thế nào,
họ đã kết luận rằng đi theo bước chân Phật trong ý nghĩa cao nhất, sẽ
không còn đầy đủ nếu chỉ theo con đường Bát Chánh Đạo nhằm đạt đến Niết
bàn. Điều này vẫn được xem là một lựa chọn có giá trị, một sự lựa chọn
mà cao điểm là đạt đến giải thoát cho chính mình và những người có thể
chịu ảnh hưởng trực tiếp nhờ sự giảng dạy và đời sống gương mẫu của
mình; nhưng các vị hành giả này cho rằng, chính Đức Phật đã nhắm đạt đến
một quả vị cho phép Ngài hoạt động vì lợi lạc và hạnh phúc của chư
thiên và loài người. Vì vậy, họ cảm thấy rằng sự lựa chọn tối ưu, con
đường cao hơn để noi theo Đức Phật, là ra đi để tìm đường giải thoát đau
khổ cho chúng sanh mà Đức Phật đã đặt ra cho chính Ngài: bằng cách phát
tâm theo đuổi hạnh nguyện Bồ tát và đi theo Bồ tát đạo. Điều này đã
đánh dấu sự xuất hiện của Bồ tátthừa như một khái niệm về nếp sống lý
tưởng của người Phật tử, con đường ràng buộc người đệ tử chân chính của
Bậc Giác Ngộ.
Lý tưởng này xuất hiện từ một điểm khởi đầu khác với thời kỳ Phật giáo
tiền Nguyên thủy, từ một bối cảnh với tầm nhìn khác. Trong lúc Phật giáo
tiền Nguyên thủy lấy điều kiện chung của con người như điểm khởi đầu
của họ (như chúng ta đã thấy ở trên), và thậm chí họ còn nhìn Đức Phật
cũng bắt đầu như một con người phải hứng chịu những hệ lụy mong manh của
kiếp người, Phật giáo tiền Đại- thừa đã dùng bối cảnh vũ trụ trong một
phạm vi lâu dài cho việc hoàn thành Phật đạo của một vị Phật như là điểm
khởi đầu. Họ nhìn lại việc phát khởiBồ-đề-tâm đầu tiên của Ngài, những
hạnh nguyện ban đầu của Ngài, việc Ngài tu tập hạnh nguyện ba-la-mật
trải qua vô lượng kiếp, và dùng những hạnh nguyện này như là mục tiêu để
tu tập. Nghĩa là, họ nhìn quá trình này, không phải chỉ là việc mô tả
con đường một vị Phật đi theo, nhưng như là một lời khuyến cáo về con
đường mà người đệ tử Phật chân chính phải noi theo; những phiên bản sau
này của tông phái Đại thừa xem việc này như là hiện thực hóa khả năng
thành Phật đã tiềm ẩn sâu xa trong mỗi con người chúng ta.
Chúng ta có thể tưởng tượng một thời kỳ mà Bồ-tát-thừa đã được một số
đông ngày càng gia tăng những Phật tử chấp nhận một cách có ý thức
(trước tiên có lẽ chỉ bên trong nội bộ của một nhóm nhỏ các vị tăng), họ
là những người đi tìm sự hướng dẫn cho chính mình qua các bài giảng dạy
của tạng kinh Nguyên Thủy-Ahàm và các tập truyện Tiền Thân Đức Phật nói
về quá trình tu tập hạnh ba-la-mật trong các đời quá khứ của Đức Phật.
Họ vẫn là thành viên của các cộng đồng Phật giáo Bộ Phái và họ chưa có ý
thức rằng chính họ đang kết hợp lại như một chi nhánh để thành lập một
tông phái mới. Họ không nghĩ chính họ là Phật tử Đại thừa, nhưng chỉ là
một cộng đồng Phật tử phát tâm đi theo Bồ-tát-thừa, mà có lẽ họ đã chọn
tên Đại thừa chỉ với ý nghĩa là điều này tạo nên một “con đường vĩ đại”
đưa đến giác ngộ. Tuy nhiên, mặc dù họ có thể đã cố gắng giữ gìn trong
phạm vi truyền thống Phật giáo chính thống, một khi họ đã bắt đầu quảng
bá lý tưởng Bồ-tát, họ sẽ thấy rằng kinh tạng Nguyên Thủy-A hàm, vốn mô
tả những công phu tu tập cần thiết để giải thoát bản thân ra khỏi vòng
luân hồi sanh tử, không còn đáp ứng được nhu cầu của họ. Dĩ nhiên, họ
phải chấp nhận lời giảng dạy của kinh tạng Nguyên thủy là đầy đủ thẩm
quyền và uy tín, nhưng họ có cảm giác còn thiếu, vì những lời giảng dạy
ấy không cung cấp chi tiết về phương pháp tu tập và các giai đoạn của
con đường đưa đến quả vị Bồ-tát, mà mục đích không gì khác hơn là hoàn
thành viên mãn quả vị Phật. Giờ đây, cái mà họ cần là nguồn tài liệu
hướng dẫn chi tiết và đầy đủ thẩm quyền về phương pháp hành trì các hạnh
nguyện Bồ-tát. Có lẽ vì thế, để đáp ứng nhu cầu này, kinh tạng Đại thừa
bắt đầu xuất hiện trong bối cảnh Phật giáo Ấn độ thời ấy. Nói một cách
chính xác các kinh tạng ấy đầu tiên được sáng tác và xuất hiện như thế
nào vẫn còn là một vấn đề mà các học giả đương đại chưa biết được, vì
tất cả những gì chúng ta có được ngày nay là các kinh tạng Đại thừa phát
triển khá đầy đủ và đại diện cho Phật giáo Đại Thừa ở điểm mà chúng ta
có thể gọi là “ giai đoạn hai” của sự phát triển tông phái này. Thật
không may là chúng ta không thể dùng chúng để soi rọi lại các giai đoạn
đầu tiên của tông phái Đại thừa, khi các bản kinh ấy bắt đầu được hình
thành, ngay cả sau thời kỳ ấy , khi tư tưởng Đại thừa vẫn còn trong thời
kỳ phôi thai, đang tìm cách lên tiếng tuy vẫn chưa có hình thức diễn
đạt bằng văn bản tài liệu.
Giờ đây có hai thái độ đáng chú ý trong các kinh điển tiền-Đại thừa khi
đề cập mẫu mực dựa trên lý tưởng A-la-hán. Một thái độ xác nhận rằng lý
tưởng này có giá trị đối với người Phật tử tiêu biểu, trong lúc ca ngợi
Bồ-tát đạo như là cỗ xe thích hợp cho những người có đại nguyện. Thái độ
này vẫn xem lý tưởng A-la-hán, hay mẫu mực Thanh văn, với lòng kính
ngưỡng, trong lúc không tiếc lời ngợi khen cao quý nhất cho lý tưởng
Bồ-tát. Khi thái độ này được chấp nhận, hai con đường – cùng với con
đường đưa đến giác ngộ của vị Độc giác Phật –trở thành ba thừa có giá
trị, để tùy ý người đệ tử lựa chọn. Thái độ thứ hai được thấy trong kinh
điển Đại thừa là một thái độ đánh giá thấp và có vẻ miệt thị. Thái độ
này không những chỉ so sánh con đường đưa đến quả vị A-la-hán một cách
kém thuận lợi so với quả vị Bồ tát (vì tất cả tông phái Phật giáo đều
công nhận Bồ tát đạo đưa đến quả vị Phật là tối thượng ), mà lại còn hạ
thấp giá trị và chế nhạo lý tưởng cũ của Phật giáo cổ đại, và đôi lúc
còn đề cập lý tưởng này với sự khinh miệt. Thái độ đầu tiên đưọc thấy
trong các văn bản kinh điển Đại thừa như là Kinh Chư Hiền giả
(Ugrapariprccha ). Tuy nhiên, qua thời gian, thái độ thứ hai trở nên nổi
bật cho đến khi chúng ta tìm thấy những văn bản kinh như là Kinh Duy Ma
Cật (Vimalakirtinirdesa Sutra),trong đó đã chế nhạo các đại đệ tử của
Đức Phật như ngài Xá -Lợi Phất, Ngài Ưu-Ba-Ly, ngài Phú Lâu Na; hay
Kinh A-Dục Vương ( Asokadatta Sutra), trong đó có một vị nữ Bồ tát trẻ
tuổi từ chối bày tỏ lòng kính trọng đối với các vị đại đệ tử A-la-hán;
hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapundarika Sutra), trong đó so
sánh Niết bàn của các vị A-la-hán với lương của một người lao động làm
thuê. Trong môt số kinh, thậm chí họ còn nói rằng các vị A-la-hán cảm
thấy hổ thẹn và tự quở trách mình vì đã đắc quả A-la-hán, hay các vị
A-la-hán là kiêu mạn và đầy vọng tưởng. Không có gì cần phải tranh luận
khi nói rằng kinh Đại thừa thường có những đoạn rất sâu sắc và tuyệt mỹ.
Tuy nhiên, tôi tin rằng một thái độ hoà hoãn hơn đối với hình thái Phật
giáo cổ xưa đáng lẽ đã làm cho nhiệm vụ hòa hợp giữa các tông phái Phật
giáo dễ dàng hơn nhiều so với tình trạng hiện nay. Bên trong tông phái
Nguyên thủy, giáo lý Đại thừa về lý tưởng Bồ tát và việc tu tập các hạnh
nguyện ba-la-mật đã được thể nhập vào trong các bộ luận sau này, nhưng
không bao giờ mang tính cách miệt thị quả vị A-la-hán của Phật giáo lịch
sử cổ xưa.
VIII- Phá bỏ khuôn mẫu cố định xưa cũ
Trong phần trình bày này, tôi muốn dùng việc phân tích lịch sử để phá bỏ
khuôn mẫu cố định xưa cũ và những thành kiến đã chia rẽ tín đồ của hai
tông phái chính của Phật giáo. Từ đó chúng ta có thể xây dựng sự hoà hợp
của hai tông phái một cách lành mạnh chứ không mang tính cạnh tranh
nhau. Hai khuôn mẫu cố định xưa cũ như sau :
1) Các vị A-la-hán và Phật tử phái Nguyên thủy chỉ quan tâm đến việc tự
giải thoát chính mình, chứ không quan tâm đến lợi lạc của kẻ khác, họ có
chủ đích hẹp hòi về vấn đề giải thoát cá nhân, bởi vì họ “sợ hãi vòng
sinh tử”, và vì vậy ít có lòng từ bi đối với kẻ khác, và không đảm nhận
các hoạt động nhằm đưa đến lợi lạc cho kẻ khác.
2) Đệ tử của lý tưởng Bồ tát và các Phật tử theo phái Đại thừa, quá quan
tâm đến các công tác xã hội nhắm mục đích làm lợi lạc cho kẻ khác đến
nỗi họ không thực hiện việc tu tập mà Đức Phật đã giáo huấn các đệ tử,
chẳng hạn như, điều phục tâm và phát triển trí tuệ. Họ đã quá bận rộn
với các nhiệm vụ xã hội nên đã từ bỏ việc tu tập thiền định.
Tôi sẽ nói đến hai khuôn mẫu cố định này theo thứ tự, và bắt đầu với
khuôn mẫu các vị A-la-hán cổ đại. Mặc dù Đức Phật là vị tiền phong trong
việc khám phá ra con đường giải thoát, điều này không có nghĩa là các
vị đệ tử A-la-hán của Ngài chỉ gặt hái một cách ích kỷ những lợi lạc của
con đường ấy mà không làm gì cho chúng sanh. Trái lại, chúng ta đã tìm
thấy trong kinh điển rất nhiều vị đã tự mình trở thành những bậc thầy vĩ
đại có khả năng hướng dẫn kẻ khác đi đến giải thoát. Những vị nổi tiếng
nhất trong số đó là Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Đại Ca-Chiên-Diên, Ngài Mục
Kiền Liên và Ngài A Nan. Có tôn giả Phú-Lâu-Na đã đi đến một vùng quê
man rợ là Suncparanta, chấp nhận nguy hiểm đến tính mạng để giảng pháp
cho dân chúng ở đó. Có những nữ tôn giả như Khema và Dhammadina là những
vị giảng sư xuất chúng. Nữ tôn giả Patacaca, một bậc ni sư về giới
luật, và nhiều vị khác nữa. Trải qua 400 năm, kinh Phật được truyền
khẩu, truyền từ thầy sang đệ tử, và rõ ràng đã phải có hằng ngàn tăng ni
đã cống hiến cuộc đời để học kinh và dạy lại cho học trò, tất cả chỉ vì
mục đích duy trì Phật pháp cho thế gian.
Những tấm gương sáng do các vị đại đệ tử của Đức Phật tạo nên đã là mẫu
mực cho những Phật tử đi theo con đường A-la-hán trong suốt lịch sử.
Trong lúc những vị theo đuổi lý tưởng A-la-hán không phát những hạnh
nguyện cao thượng như những vị chọn lý tưởng Bồ tát, họ được khơi nguồn
cảm hứng nhờ tấm gương của Đức Phật và các vị đại đệ tử của Ngài để hoạt
động nhằm mục đích nâng cao đạo đức và tâm linh của chúng sanh với tất
cả khả năng của họ: bằng cách giảng dạy, bằng cách nêu gương, bằng ảnh
hưởng tâm linh trực tiếp, họ đã được khơi nguồn cảm hứng theo mệnh lệnh
của Đức Phật là: “Hãy ra đi để làm lợi lạc cho chúng sanh, vì hạnh phúc
của chúng sanh, vì lòng từ bi đối với thế gian, vì lợi ích, an lạc, và
hạnh phúc cho chư thiên và loài người”.
Mẫu mực đời sống của một đệ tử theo lý tưởng A-la-hán phù hợp với mẫu
mực đời sống của Đức Phật trong nhiều phương diện. Tôi lấy ví dụ về
những vị có thể chưa thật sự đắc quả A-la-hán nhưng đang tu tập theo mẫu
mực này và đã đạt đến một giai đoạn chứng đắc tâm linh cao hơn. Trong
giai đoạn đầu của đời sống xuất gia, họ có thể đi đến một ngôi chùa
trong rừng hay một trung tâm thiền định để được một vị thầy đạo đức cao
trọng huấn luyện. Rồi sau khi đã đạt đến một mức độ trưởng thành đủ để
có thể tự mình tu tập, họ sẽ đi sống riêng một mình để phát triển công
phu tu tập trong một thời gian chừng năm năm hoặc hơn. Rồi, vào một thời
điểm nào đó, thành quả tu tập của họ bắt đầu có ảnh hưởng đến người
khác. Họ có thể bắt đầu giảng dạy theo sáng kiến của mình, hoặc vị thầy
của họ có thể yêu cầu họ bắt đầu giảng dạy, hoặc những học trò tương lai
có thể nhận thức rằng các vị tỳ kheo này đã đạt đến một trình độ cao
siêu nào đó và yêu cầu những vị này hướng dẫn họ. Từ lúc này trở đi, các
vị tỳ kheo ấy bắt đầu thuyết giảng, và sẽ đến lúc họ có thể trở thành
những vị thầy hướng dẫn tâm linh đáng kính trọng, với nhiều đệ tử và
nhiều trung tâm tu học đặt dưới sự hướng dẫn của những vị tỳ kheo này.
Trái ngược với hình ảnh “ giải thoát riêng mình một cách ích kỷ” mà
những Phật tử Đại thừa đã gán cho những vị tu theo hạnh A-la-hán và
những vị theo Thanh văn thừa, những vị thầy xuất sắc nhất của truyền
thống Nguyên thủy thường giảng dạy cho hàng ngàn đệ tử xuất gia và tại
gia. Có nhiều vị làm việc một ngày mười giờ hoặc hơn. Ví dụ, trong thời
gian gần đây, Thượng tọa Mahasi Sayadaw ở Miến điện đã thiết lập hằng
trăm trung tâm thiền định ở Miến và đã làm chủ tọa Hội Đồng Phật Giáo
Thứ Sáu; Ngài Ajahn Chah đã có một tu viện chính và nhiều tu viện chi
nhánh ở Thái lan, Thượng tọa Pa Auk Sayadaw, U Pandita, và Ngài Blante
Gunaratana – là những vị thiền sư Nguyên thủy hiện nay – đã du hành khắp
thế giới để hướng dẫn các khóa tu; Ngài Ajahn Mahaboowa, vào tuổi 93 đã
nổi tiếng là một bậc A-la-hán, đã hổ trợ 60 bệnh viện ở Thái lan, và
thường xuyên thăm viếng bệnh viện để an ủi bệnh nhân và phân phát thuốc
men. Những vị không có khả năng hoạt động như các vị thiền sư vẫn có thể
trở thành những giảng sư về triết lý và giáo lý đạo Phật và cống hiến
cuộc đời của họ một cách vị tha để hướng dẫn quần chúng hiểu được Phật
pháp, hoặc bằng cách huấn luyện tăng ni, hướng dẫn Phật tử tại gia,
giảng dạy trong các trường thuộc tu viện Phật giáo, hay thuyết pháp tại
các chùa Phật giáo.
Theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy, hoạt động xã hội dĩ nhiên là
rất đáng ca ngợi, nhưng trong số tất cả các công đức có thể hiến tặng
cho kẻ khác, bố thí pháp vẫn là công đức cao quí nhất. Như vậy, việc
theo đuổi con đường giải thoát của một vị A-la-hán không phải là một nỗ
lực cá nhân riêng tư, mà có một ảnh hưởng sâu rộng và có thể tác động
lên toàn xã hội. Trong các quốc gia theo truyền thống Nguyên thủy, trước
khi có ảnh hưởng hư hỏng của Tây phương tràn vào, cả sinh hoạt của cộng
đồng xoay quanh sinh hoạt Phật sự. Các vị tỳ kheo tu thiền trong rừng
núi là nguồn cảm hứng và gương mẫu cho xã hội, những vị thuyết pháp và
giảng dạy trong làng đã giúp truyền bá Phật pháp vào đại chúng. Cộng
đồng Phật tử tại gia, từ vua cho đến dân làng, đều thấy nhiệm vụ chính
của họ là hộ trì tăng chúng. Vì vậy mục đích tối thượng của quả vị
A-la-hán đã trở thành mục tiêu của toàn hệ thống xã hội, được khơi nguồn
cảm hứng và duy trì bền vững nhờ lòng tận tâm phục vụ Phật pháp.
Những vị tìm đến cứu cánh Niết bàn không chờ đến lúc các ngài đắc quả
A-la-hán mới bắt đầu công tác hoá độ chúng sanh. Trong hệ thống này, bố
thí được xem là nền tảng của tất cả mọi đức hạnh khác, đó là công đức
đầu tiên và cũng là hạnh đầu tiên của thập độ Ba-la-mật.Như vậy, kinh
tạng Pali, và các vị tăng lúc thuyết pháp đều khuyến khích quần chúng bố
thí hết sức mình. Các Phật tử tại gia hộ trì tăng chúng với những nhu
cầu đơn giản như thực phẩm, y áo, chỗ ở và thuốc men. Họ cũng bố thí
rộng rãi cho những người nghèo khó và tàn tật. Ví dụ, ở Sri Lanka, những
cuộc vận động hiến máu rất phổ biến trong các ngày nghỉ lễ Phật giáo,
và nhiều người đã hiến mắt cho ngân hàng mắt, và hiến các cơ phận của họ
sau khi chết cho các công trình nghiên cứu khoa học. Tôi biết mới đây ở
Sri Lanka, hơn 200 vị tăng đã hiến thận, và không hề có ý nghĩ được đền
bù hay được lợi lộc riêng, mà chỉ vì họ muốn có cơ duyên được bố thí
một phần thân thể họ mà thôi. Các vị tăng có kiến thức Phật pháp và có
biện tài trở thành các vị thầy thuyết pháp và giảng sư. Những vị có khả
năng quản lý có thể trở thành những người phụ trách hành chánh quản lý
các tu viện. Một số ít có động cơ mạnh mẽ muốn nỗ lực để đạt được giải
thoát ngay trong đời này sẽ dành trọn tâm trí để hành thiền trong các
cốc nhỏ trong rừng. Các vị thiền sư đã đạt đạo sẽ cống hiến thời giờ để
giảng dạy thiền tập và cũng sẽ cố gắng dành thời giờ trau dồi công phu
tu tập của mình. Đôi lúc các vị ấy phải trì hoãn công phu tu tập để hoàn
thành nhiệm vụ giảng dạy.
Đã có quá nhiều hiểu lầm liên quan đến lý tưởng A-la-hán, và bây giờ đến
lượt lý tưởng Bồ tát. Tôi nghĩ rằng sẽ quá đơn giản khi đồng hoá việc
theo đuổi hạnh nguyện Bồ tát với việc tham gia công tác phuc vụ xã hội,
và cho rằng vị Bồ tát đã từ bỏ công phu tu tập trên con đường giải
thoát. Theo sự hiểu biết của tôi, nền tảng của Bồ tát đạo là phát khởi
tâm bồ đề, lànguyện vọng đạt đến giác ngộ tối thượng. Tâm này chỉ phát
khởi qua tinh tấn tu tập thiền định. Theo những nguồn văn bản có thẩm
quyền về thiền định của Phật giáo Đại thừa, để phát khởi tâm bồ đề, hành
giả phải rèn luyện tâm thức một cách có hệ thống để có thể nhận thấy
tất cả chúng sanh đều như cha mẹ, anh chị em của mình, và khởi tâm từ bi
vô lượng đối với họ, cho đến khi tri giác ấy trở thành hoàn toàn tự
nhiên. Điều này không dễ chút nào. Tôi đã đọc bài viết về đức Đạt Lai
Lạt Ma, Ngài nói chính Ngài đã cảm nhận được tâm bồ đề đích thực trong
một vài lần mà thôi, mỗi lần kéo dài một lúc thôi, điều này cho chúng ta
đôi chút khái niệm về việc đạt được tâm bồ đề là khó khăn như thế nào.
Tâm bồ đề không thể đạt được bằng cách thỉnh thoảng tham gia một ít công
tác xã hội rồi tự tin rằng mình đã phát khởi tâm bồ đề.
Đúng là vị Bồ tát phát nguyện làm lợi lạc cho chúng sanh theo con đường
rộng lớn hơn đệ tử của Thanh văn thừa, nhưng tất cả nỗ lực ấy có vẻ hời
hợt nếu chúng không đươc hổ trợ bởitâm bồ đề. Ngoài việc phát nguyện tâm
bồ đề, vị Bồ tát phải áp dụng tâm bồ đề qua việc thực hành lục độ
Ba-la-mật và những hành động hy sinh quên mình của vị đại Bồ tát. Lục độ
ba-la-mật bắt đầu bằng bố thí ba-la-mật. Hoạt động xã hội chắc chắn có
thể xếp vào hạnh này, vì nó liên hệ đến tài thí và vô úy thí. Nhưng
những việc bố thí đó, dù có giá trị như thế, cũng không thể sánh bằng
giá trị của việc bố thí pháp, vì bố thí pháp đưa đến chấm dứt vĩnh viễn
mọi khổ đau. Để có đủ khả năng bố thí pháp đòi hỏi những kỹ năng vượt xa
các công tác xã hội.
Hạnh ba-la-mật tiếp theo là trì-giới ba-la mật, việc tham gia công tác
xã hội có thể được xếp vào hoạt động đạo đức vị tha, những hành động có
lợi ích cho kẻ khác. Trong lúc tham gia công tác xã hội, vị Bồ tát cũng
phải tu tập hạnh nhẫn nhục – nhẫn nhục chịu đựng các hoàn cảnh khó khăn,
nhẫn nhục chịu đựng sự xem thường và xúc phạm của kẻ khác, như vậy vị
này đã hoàn thành hạnh nhẫn nhục ba-la-mật. Và công tác xã hội đòi hỏi
năng lực tinh tấn. Điều này giúp hành giả hoàn thành hạnh nguyện tinh
tấn ba-la-mật. Như vậy tham gia công tác xã hội có thể đóng góp vào việc
hoàn thành bốn hạnh nguyện trong lục độ ba-la-mật.
Nhưng vị Bồ tát cũng phải hoàn thành viên mãn hạnh nguyện thiền định
ba-la-mật và trí tuệ ba-la-mật, và hai hạnh này đòi hỏi việc thực hành
nếp sống thiền. Kinh Bát Nhã Ba-la-mật nói rằng trí tuệ ba-la-mật hướng
dẫn và điều khiển năm hạnh ba-la-mật kia, và nămhạnh ba-la-mật chỉ trở
thành “viên mãn” hay những đức hạnh siêu thế gian khi nào năm hạnh này
được nối kết với trí tuệ ba-la-mật. Nhưng trí tuệ ba-la-mật chỉ có thể
đạt được qua thiền định, bằng cách sống một cuộc đời tương tự như vị tu
theo hạnh A-la-hán.
Những kinh tiền-Đại- thừa, như Kinh Chư Hiền Giả ( Ugrapariprccha),
không khuyên các vị Bồ tát xuất gia cấp bậc sa-di nên tham gia công tác
xã hội, mà họ đã chỉ đường cho các vị sa-di ấy đi vào rừng và căn dặn
các vị ấy dành trọn nỗ lực để tu tập thiền định. Nếu chúng ta nhìn vào
lịch sử Phật giáo Đại thừa, dù ở Ấn độ, Trung hoa hay Tây tạng, chúng ta
sẽ thấy những vị đại sư Đại thừa như ngài Long Thọ ( Nagarjura), Vô
Trước (Asanga), và A-Đề-Sa (Atisha) ở Ấn Độ; ngài Huệ Năng ( Hui-Neng),
Trí Khải ( Zhi-Yi) và Huyền Trang ( Xuan Zang) ở Trung hoa; ngài
Lonchen, Gampola và Tsongkhapa ở Tây tạng; đều không nổi tiếng về việc
tham gia công tác xã hội, nhưng nổi tiếng nhờ những thành tựu của họ như
những triết gia, học giả hay Thiền sư. Chính Đức Phật đã chứng đắc quả
vị cao nhất về thiền định. Vì các vị Bồ tát nhắm mục đích thành Phật,
điều tự nhiên là họ phải rèn luyện thật hoàn hảo những kỹ năng thiền
định, vốn là đặc điểm của một vị Phật.
Mặc dù động cơ và nền tảng triết lý đối với những vị đệ tử theo Bồ tát
thừa khác với các vị đệ tử theo Thanh văn thừa, nếp sống của những vị đệ
tử thuộc cả hai tông phái không khác nhau nhiều. Hình ảnh quen thuộc
phổ biến của vị A-la-hán ẩn cư, đơn độc và hình ảnh rất tích cực hoạt
động và thân thiện với quần chúng của vị Bồ tát thật ra chỉ là giả
tưởng. Trong đời sống thực tế, cả hai giống nhau nhiều hơn người ta vẫn
tưởng. Những vị A-la-hán, và những người tìm cầu quả vị A-la-hán, thường
hoạt động để cải thiện đời sống vật chất và tâm linh của chúng sanh.
Các vị Bồ tát và những người có nguyện vọng theo Bồ tát hạnh, thường
phải trải qua nhiều thời gian dài nhập thất hành thiền để tu tập những
kỹ năng thiền định vốn rất cần thiết để họ có thể đạt đến quả vị Phật.
Họ cũng phải học tất cả giáo lý và con đường của Thanh văn thừa, tuy
không cần phải thực hiện con đường ấy. Các vị theo Bồ tát đạo phải học
để biết nhập định, thực hành thiền định và cuối cùng phải trở thành
thiện xảo với những pháp môn này. Các vị ấy sẽ phải quán chiếu Tam Pháp
Ấn của Phật giáo là vô thường, khổ và vô ngã. Các vị ấy phải đạt được
tri kiến tối thượng về Tam Pháp Ấn ấy. Những vị này khác với các vị
Thanh văn ở chỗ là các vị Thanh văn nhằm mục đích dùng tri kiến tối
thượng để đạt đến Niết bàn. Một vị Bồ tát sẽ kết hợp công phu tu tập của
mình với tâm bồ đề, với những hạnh nguyện Bồ tát, và lòng từ bi vô
lượng. Nhờ được nâng đỡ bởi các hạnh nguyện ấy, một vị Bồ tát sẽ có thể
quán chiếu bản chất của thực tại mà không đắc quả Niết bàn cho đến khi
vị ấy đã viên mãn tất cả những đức hạnh toàn thiện của quả vị Phật.
Trong số các hạnh nguyện ấy là hạnh bố thí và hồi hướng công đức về khắp
tất cả chúng sanh. Nhưng bố thí pháp là bố thí tối thượng mà một hành
giả có thể hiến tặng cho người khác, và công đức tối thượng mà một hành
giả có thể hồi hướng cho chúng sanh là giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn
họ thực hành Phật pháp. Mặc dù một vị Bồ tát dĩ nhiên có thể tham gia
các hoạt động xã hội như một biểu hiện của lòng từ bi, nhưng để đạt được
những giai đoạn cao hơn của Bồ tát đạo, vị hành giả sẽ cần nhiều kỹ
năng khác hơn là các kỹ năng dùng trong công tác xã hội, những kỹ năng
này gần giống với kỹ năng của vị tu theo hạnh A-la-hán.
IX – Để tiến đến việc hoà hợp lành mạnh của cả hai thừa
Theo quan điểm của tôi, cả hai con đường (hay hai thừa )- A-la-hán đạo
và Bồ tát đạo – có thể xem như những biểu hiện có giá trị về lời giảng
dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, cả hai phải tuân theo một số tiêu chuẩn
chính thức. Về vấn đề nguyên tắc, cả hai phải tuân theo những giáo pháp
căn bản như Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Tam Pháp Ấn, Lý Duyên Khởi . Về
vấn đề thực hành, cả hai phải biểu hiện nền tảng đạo đức tốt đẹp, tuân
theo khuôn mẫu rèn luyện của Tam vô lậu học về Giới, Định, và Tuệ. Tuy
nhiên, ngay cả khi ba tiêu chuẩn ấy được hoàn thành, trong lúc đi tìm
một sự hoà hợp lành mạnh của hai con đường này, chúng ta phải tránh cái
mà tôi gọi là chủ trương dung hòa “ nhẹ nhàng kiểu đế quốc” như lý
thuyết Nhất Thừa, lý thuyết này cho rằng chỉ có Bồ tát thừa là rốt ráo
và Thanh văn thừa chỉ là phương tiện. Lý thuyết này cuối cùng đưa đến
việc hạ thấp giá trị những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật lịch sử. Lý
thuyết này nói rằng những lời dạy của chính Đức Phật trong suốt 45 năm
hành đạo chỉ là những lời mô phỏng của bầu không khí tôn giáo ở Ấn độ
thời đại ấy và không diễn đạt được ý định của Ngài, mà những ý định này
chỉ được làm sáng tỏ trong các kinh điển Đại thừa giảng giải giáo lý
Nhất Thừa 400 trăm năm sau ngày Đức Phật nhập diệt. Công nhận giá trị
ngang nhau của hai thừa (hay ba thừa, nếu kể thêm Độc Giác thừa) cho
phép chúng ta có một thái độ bao dung hơn, biết tôn trọng tính xác thực
của Phật giáo Nguyên thủy và những sự kiện lịch sử về những lời giảng
dạy nguyên thủy của Đức Phật. Điều này cũng trang bị tốt hơn cho chúng
ta để công nhận khả năng của Phật giáo, trải qua nhiều biến chuyển đích
thực của lịch sử, đã bộc lộ những tiềm năng còn tàng ẩn trong lời dạy
của Đức Phật, những tiềm năng mà chính Đức Phật cũng không tiên liệu
được, nhưng đã làm phong phú truyền thống phát xuất từ Ngài như là suối
nguồn đầu tiên.
Khi chúng ta chấp nhận phương pháp này, chúng ta có thể thành tâm kính
trọng những vị hành giả đã tích cực hoạt động để thực hiện mục đích cuối
cùng của Phật pháp ngay trong hiện tại là chứng đắc Niết bàn, là sự
chấm dứt mọi khổ đau, bằng cách tu tập theo Bát Chánh Đạo cho đến giai
đọan cuối cùng. Chúng ta có thể tôn kính những vị đã thắp sáng lời dạy
của Đức Phật bằng cách chứng minh rằng những lời dạy này thực sự dẫn dắt
chúng ta đến giải thoát rốt ráo, đưa đến trạng thái vô sinh bất diệt,
mà Đức Phật vẫn thường ca ngợi, gọi đó là sự giải thoát vi diệu, thuần
tịnh, và vô thượng. Lại nữa, bằng cách dùng phương pháp này, chúng ta
cũng có thể tôn kính những vị đầy lòng từ bi đã phát nguyện đi theo Bồ
tát đạo, những vị đã phát đại nguyện này như một hành động vượt quá bổn
phận của họ, họ làm như vậy không phải vì đó là điều kiện cần thiết cho
sự giải thoát đích thực của chính họ. Chúng ta có thể tôn trọng và trân
quý lòng từ bi rộng lớn, những hạnh nguyện cao thượng, và tinh thần hy
sinh phục vụ chúng sanh của họ. Phật giáo đích thực cần cả ba: những vị
Phật, A-la-hán và Bồ tát. Phật giáo cần phải có Đức Phật khám phá và
giảng dạy con đường giải thoát; cần phải có các vị A-la-hán đi theo con
đường đó và xác nhận rằng Phật pháp đích thực đưa đến giải thoát, minh
chứng cho lời giảng dạy đó bằng những tấm gương của những vị đã sống
cuộc đời phạm hạnh thuần tịnh; Phật giáo cũng cần những vị Bồ tát phát
nguyện quyết tâm hoàn thiện đức hạnh để trong một thời điểm tương lai
nào đó, gần hoặc xa, chính họ có thể trở thành Phật và một lần nữa lại
tiếp tục chuyển Pháp Luân vô thượng của Đức Phật cho thế gian này.
Thư Viện Hoa Sen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét