Về nguyên tác mà nói thì trọng tâm của
giới không sát sinh là không giết người. Cho nên giết người là tội
nặng, giết các loại động vật khác là tội nhẹ.
Chúng sinh cố
nhiên là nhất loại bình đẳng như nhau. Nhưng chỉ có loài người là có thể
gây nghiệp ác (còn gọi là "hắc nghiệp" - nghiệp đen) mà bị đọa xuống
làm quỷ hoặc xuống địa ngục. Cũng chỉ có loài người mới có thể tu hành
nghiệp thiện (còn gọi là "bạch nghiệp" - nghiệp trắng) mà được lên thiên
đường, ra khỏi ba cõi, cho đến thành Phật. Còn các loài chúng sinh
khác, trừ một số trường hợp ngoại lệ rất ít, nói chung là không biết
thiện, ác là gì, chỉ có những hành vi tự nhiên tùy nghiệp mà chịu báo
chứ không có tạo tác của tâm ý. Cho nên con người là khí cụ để chở đạo
(Đạo khí) chỉ có con người mới có thể tu đạo và có thể hoằng đạo. Vì vậy
giới sát lấy việc răn cấm không giết người làm căn bản.
Giết người phải có đủ ba điều kiện : 1
- biết đó là người; 2 - có dự định mưu sát; 3 - giết chết. Không đủ ba
điều kiện ấy thì chỉ gọi là làm bị thương hoặc ngộ sát, không hình thành
tội giết người. Về con người, thì không kể tuổi tác, sang hèn, đã thành
hình hay chưa thành hình người, đã có trí khôn hay chưa có trí khôn, đã
khẳng định là người thì không được giết. Cho nên không được sát hại,
cũng không được lấy danh nghĩa cái chết an lạc để xử lý cho người tự họ
muốn tìm cái chết hoặc những người tàn phế đã trở thành vô tri vô giác.
Nếu làm trái với những điều đó tức là
phạm tội giết người. Ngày nay giới y học hô hào những người có điều kiện
cho các bộ phận cơ thể để ghép cho người cần thay thế, như lấy giác mạc
của mắt, lấy quả thận và các bộ phận khác của cơ thể để ghép cho người
khác. Đó là lấy một phần cơ thể của những người đã không còn khả năng xử
dụng nó nữa, làm cho nó sống lại. Đó là việc làm đáng khuyến khích. Nếu
họ cho khi còn sống có nghĩa là đã được sự đồng ý tự nguyện của họ. Nếu
sau khi họ chết mới dùng để lắp ghép thì trước đó phải được họ xác nhận
đồng ý khi còn sống. Nếu không làm như thế thì người chết có thể còn
một phần quyến luyến, chấp trước đối với di thể của mình mà sinh tức bực
oán giận, thậm chí còn ảnh hưởng tới ý nguyện chuyển sinh thiện đạo
hoặc con đường vãng sinh tịnh độ của họ.
Những người chết một cách tự nhiên thì
thông thường trong khoảng 12 giờ thần thức chưa lìa hẳn, vẫn còn phần
tri giác. Theo quan điểm y học mà xem xét thì chưa hẳn là đã chết thực
sự.
Nhưng nếu họ làm di chúc để lại nói rõ
việc cho một bộ phận cơ thể của họ để cứu chữa tính mạng của một hoặc
nhiều người khác thì đó là hạnh Bồ Tát xả thân cứu người. Vì vậy, nếu
khi còn sống, người tự nguyện cho cơ thể có viết di chúc để lại thì việc
lấy bộ phận cơ thể của họ để lắp ghép cho người khác không thành vấn đề
phải bàn đến.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng
ta, vì lý do giữ gìn môi trường vệ sinh tất phải xử lý vấn đề diệt ruồi,
nhặng, muỗi, kiến, châu chấu, bọ ngựa, chuộtv.v… Điều này đã có định lệ
ngay từ khi Phật còn tại thế. Trong nhà tắm của các Tỳ kheo do bồn tắm
lâu ngày không dùng, nên đầy rẫy sâu nhỏ. Các Tỳ kheo làm công việc dọn
dẹp không biết xử lý như thế nào? Phật nói "phải làm sạch nước bẩn, dọn
nhà tắm cho sạch". Tỳ kheo hỏi "sẽ làm hại đến sâu bọ". Phật nói: "đó
không phải là làm hại đến côn trùng mà để duy trì môi trường vệ sinh của
con người mà phải quét tước, dọn dẹp, không phải là mục đích sát thương
loài côn trùng cho nên không coi là sát sinh. Đương nhiên không được
phun thuốc có chất độc để giết hại côn trùng chỉ dùng các phương thức
quét tước, dọn dẹp tiêu độc để phòng ngừa hoặc ngăn cản không cho côn
trùng xâm nhập sinh sôi nẩy nở. Nếu môi trường vệ sinh được giữ gìn ngăn
nắp, sạch sẽ và được tiêu độc thì dẫu có côn trùng cũng không nhiều
lắm.
Trong lúc cày cấy cũng khó tránh khỏi
làm tổn hại đến côn trùng, nhưng vì cuộc sống của bản thân chúng ta,
không những lúc cày cấy mà cả khi đi, khi chạy thường ngày và khi làm
các công việc khác chúng ta cũng vô ý giết hại côn trùng. Vì vậy chỉ có
thường xuyên niệm Phật A Di Đà, nguyện cho các loài chúng sinh ngu si vô
trí sau khi chết được chuyển sinh thiện đạo hoặc siêu sinh tịnh độ thì
coi như không phạm giới sát sinh. Tất nhiên là nếu cẩn thận đề phòng,
giảm bớt những cơ hội làm sát thương côn trùng thì đó là biểu hiện của
lòng từ bi. Nếu đã biết rằng tự mình gây ra sát sinh mà trong lòng không
hối hận thì tức là không có lòng từ bi.
Đối với các loài rắn độc, thú dữ cùng
các loài côn trùng độc hại khác thì đó là do nghiệp kiếp trước của chúng
khiến nên như thế. Chúng làm hại con người nhưng không có mưu mô định
trước, tuy có hành vi ác nhưng không có ác tâm, vì vậy không xem chúng
gây ra nghiệp sát sinh. Loài người cần có sự cảm thông và bảo hộ chúng.
Đối với xã hội ngày nay mà nói thì
không những con người có khả năng phòng ngừa không để chúng gây hại mà
còn có thể hoạch định một phạm vi không gian khiến cho chúng được sinh
tồn, hoặc hạn chế khả năng sinh sôi nẩy nở quá nhiều của chúng để chúng
khỏi trở thành mối đe dọa đối với con người. Ở đây chúng ta nên dùng các
phương pháp phòng ngừa chứ không nên dùng phương pháp hủy diệt, không
những nhằm bồi dưỡng lòng nhân từ của loài người mà cũng là để làm hết
trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường thiên nhiên.
Nói chung người mới học Phật thường
chưa hiểu rõ định nghĩa thế nào là chúng sinh. Hơn nữa ngày nay lại càng
có người cho rằng thực vật cũng có sinh mệnh, thực vật cũng có tình
cảm, nếu nói không sát sinh thì không nên sát sinh đối với động vật đã
đành, mà cũng không nên sát sinh cả đối với thực vật nữa. Kỳ thực thì
sinh mệnh có thứ lớp của nó. Thực vật là loài chúng sinh vô tình, động
vật là loài chúng sinh hữu tình. Cái gọi là chúng sinh có thể chia làm
ba cấp: Loại cao cấp là loài người, có đủ 3 điều kiện: 1 - có tế bào
sống; 2 - có phản ứng thần kinh; 3 - có đủ tư tưởng và trí nhớ. Loại cấp
thấp là thực vật chỉ có tế bào sống không có thần kinh và trí nhớ. Tuy
có phản ứng về sống chết, không có cảm ứng vui sướng, đau khổ càng không
có tư tưởng và trí nhớ, nên gọi là loài vô tình. Loại cấp trung là động
vật. Chỉ có ít loài như chó, khỉ, ngựa, voi v.v… là động vật bậc cao,
có một trí nhớ nào đó, nhưng không có khả năng tư duy. Còn các động vật
loại thấp thì ngoài phản ứng thần kinh bản năng, không có tư tưởng và
trí nhớ, nhưng chúng có thần kinh tức có cảm giác đau khổ, biết sợ chết,
vì vậy loài sâu, kiến đều có bản năng tự nhiên biết trốn tránh khi có
nguy cơ tử vong. Thực vật thì không như thế. Cho nên giới hạn định nghĩa
sát sinh là các loại động vật biết sống chết không phải cả loài thực
vật.
Phật răn cấm các Tỳ kheo không được
chặt phá cây cỏ, đối với các loài vi sinh vật như vi khuẩn thì theo quan
điểm sinh vật học vì đó là các loại sinh vật nằm ở giữa động vật và
thực vật, không có thần kinh, lại không có tư tưởng và trí nhớ, không
thuộc chúng sinh hữu tình, có thể nói đó là những thực vật có hoạt động,
nên giết vi khuẩn không phải là sát sinh.
Đối với các loài vi sinh vật ở dưới
nước thì ngoài các vi khuẩn ra còn có những sinh vật tương đối cao cấp
tuy không có thần kinh nhưng có thể xếp vào loài động vật. Vì thế khi
Phật còn tại thế các Tỳ kheo khi dùng nước đều dùng nước đã qua túi lọc
nước, làm như vậy là để lọc ra những chúng sinh nhỏ bé nhưng tương đối
lớn, còn những loại sinh vật tương đối nhỏ thì không đáng kể. Như vậy là
dựa trên quan điểm từ bi, không nở lòng trông thấy các loài chúng sinh
vật mà không cứu độ. Còn đối với những loài mà mắt thường không thể
thấy, hoặc tuy trông thấy nhưng không phân biệt được là loại hữu tình
hay loại vô hình thì không cần phải biết đến.
Phật giáo chủ trương không sát sinh
chủ yếu ở tinh thần từ bi, coi chúng sinh đều bình đẳng, tất cả chúng
sinh đều có quyền sinh tồn và tự do. Mỗi người chúng ta đều sợ bị giết
hại, đều lo sợ chết chóc, các chúng sinh khác đều như vậy. Các chúng
sinh tuy phân biệt sang hèn, cao cấp. Nếu người người đều phát huy tinh
thần từ bi bình đẳng đó thì thế giới của chúng ta nhất định sẽ hài hòa,
hòa bình, giúp đỡ, kính trọng, yêu mến nhau, hòa hợp với nhau không có
sự ngăn cách, sẽ không có một người nào bị cố ý giết hại. Tuy nhiên
trong kinh Phật có nói: "Sát sinh thì chịu quả báo. Giết người thì phải
đền mạng, ăn của người nửa cân thì phải trả tám lạng". Điều đó đã nói rõ
sự thực của luật nhân quả. Quả báo là có thực, nhưng cũng không phải là
tuyệt đối không thể cải biến được. Bồi dưỡng tấm lòng từ bi mới là
trọng điểm của việc không sát sinh, cũng chính là tinh thần của Phật và
chư Bồ Tát giáo hóa độ thế.
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét