Các vị A-la-hán khi còn thân này, các
ngài sanh hoạt bình thường nhưng không có niệm duyên theo cảnh. Vì thế
nói các ngài đang ở trong Hữu dư y Niết-bàn. Bởi Niết-bàn là vô sanh.
Còn niệm là còn sanh. Dứt niệm mà hằng tri giác, đó là vô sanh, là
Niết-bàn.
Tôi có một câu chuyện muốn nói cho quí vị nghe. Chuyện này cũng với tinh thần chỉ Ông chủ chớ không có gì lạ.
Một sáng, khi xả thiền ra tôi có tuyên
bố với một số người rằng: “Tôi quả thật là con ngỗng chúa biết uống
sữa, lọc nước chừa lại”. Câu nói đó quí vị nghe lạ đời phải không? Đây
là câu nói của các Thiền sư Trung Hoa thời xưa. Lúc trước tôi học tôi
tu, đọc câu đó tôi cũng biết nhưng biết hơi ngờ ngờ. Bây giờ đem một bát
sữa lại bảo chúng ta uống, chúng ta khôn hơn con ngỗng, nhưng chúng ta
có lọc riêng sữa một bên nước một bên, để uống sữa chừa nước lại không?
Huống là con ngỗng khờ hơn mình tại sao nó biết lọc sữa uống, còn nước
chừa lại.
Như vậy tại sao Thiền sư lại nói như
con ngỗng chúa uống sữa, lọc nước chừa lại. Quí vị thử nghiệm xem uống
sữa lọc nước lại là gì? Cái gì là sữa, cái gì là nước? Nếu mình không
biết rõ cái gì là sữa, cái gì là nước thì thôi cứ uống hết cho rồi. Uống
cạn ly cạn bát, chớ không có cách nào khác. Vậy muốn lọc sữa chừa nước
lại thì phải lọc bằng cách nào? Dùng phương tiện gì để lọc? Đó là một
vấn đề nan giải.
Ngày xưa tôi hiểu rõ rằng, sữa là chỉ
cho cái chân thật của mình, nước là chỉ cho cái giả dối. Cái thật giả nó
lẫn nhau, khó mà lựa lọc được. Hiểu vậy thì được rồi, nhưng bảo phải
lọc cái này bỏ cái kia thì thật là khó vô cùng. Nói khó nhưng không ngờ
nó lại dễ. Khi thấy nó rồi thì rất là dễ.
Tôi xin hỏi lại, chúng ta ngồi thiền
để làm gì? Là tập làm con ngỗng chúa lọc sữa uống chừa nước lại đó. Vậy
thì cái gì là sữa để uống, cái gì là nước để chừa lại? Hiểu thì hiểu,
nhưng nói ra thì nói không được. Nói không được và làm cũng chưa được
luôn. Bởi vậy nên rồi chúng ta trở thành ngỗng con, chớ không phải ngỗng
chúa.
Khi nhìn thấy cái đó rồi, tôi mới
thông cảm ngày xưa trong kinh dạy các vị A-la-hán có hai thân: Một là
còn thân xác thịt này mà đã ở trong Niết-bàn gọi là Hữu dư y Niết-bàn.
Hai là thân xác thịt này hoại diệt đi, hoàn toàn nhập Niết-bàn gọi là Vô
dư y Niết-bàn. Sau khi thân hoại diệt nhập Niết-bàn thì chúng ta dễ
hiểu, vì Niết-bàn là vô sanh. Còn thân này đi đứng là còn sống, còn sống
là còn sanh, sao lại được Niết-bàn? Đó là điều tôi thắc mắc. Bởi vì
Niết-bàn, nghĩa chánh là vô sanh. Đó là một nghi vấn tôi thầm đặt ra mà
chưa tự giải đáp thỏa đáng. Nhưng khi hiểu được con ngỗng chúa uống sữa,
chừa nước lại thì tôi liền hiểu qua nghĩa Hữu dư y Niết-bàn của các vị
A-la-hán.
Chỗ này tôi sẽ nói chậm, từ từ để cho
quí vị vừa nghe vừa gẫm, mới thấy rõ được lẽ thật. Tất cả chúng ta tu ai
cũng sợ vọng tưởng dấy khởi, cho nên vọng khởi là liền bỏ, liền dẹp.
Khi bỏ dẹp rồi, lúc đó nói mình không còn vọng tưởng. Nhưng chú thứ hai
thứ ba trồi lên rồi bỏ dẹp… cứ làm như vậy suốt buổi có mệt không? Quả
là còn nhọc hơn mấy người nông phu cuốc đất ngoài đồng nữa, phải không?
Ra đồng cuốc đất, dỡ cuốc lên cuốc xuống, làm mệt đứng chống cuốc thở,
ngó trời ngó mây chơi. Còn mình ngồi đó, một giờ hai giờ có dám nghỉ
không? Lúc nào cũng phải dòm chừng, cứ hết chú này tới chú khác trồi lên
liên miên. Một hai giờ đồng hồ không nghỉ chút nào hết.
Như vậy người tu mới nhìn qua thấy
thảnh thơi quá, ngồi lim dim đó thôi, không có gì quan trọng. Mà thực là
đổ mồ hôi hột, không có chút rảnh rỗi, nhàn hạ. Bởi vì chúng ta quen
nhìn mọi sự vật bên ngoài theo lối hình thức phân biệt tướng mạo, vì vậy
cái gì có hình tướng, cái gì có phân biệt thì chúng ta hiểu nhận, còn
cái gì không hình tướng, chúng ta lại không biết.
Ai cũng nói tâm là cái biết của mình,
là phần tinh thần của mình. Như vậy khi khởi nghĩ phân biệt hơn thua,
phải quấy, tốt xấu là chân hay giả? Đến lúc những thứ đó lặng xuống thì
cái chân cũng lặng xuống mất tiêu phải không? Đó là chỗ mà lâu nay chúng
ta không biết. Không biết uống sữa chừa nước lại là vậy.
Tôi nói xa như người tu Thoại đầu.
Thoại đầu là gì? Thoại là câu nói, đầu là ở trước câu nói. Thí dụ như
khởi niệm: “Trước khi cha mẹ chưa sanh, ta là gì?” thì từ “trước khi cha
mẹ chưa sanh” là thoại, khi chưa khởi câu đó là đầu. Nên sau này các
Thiền sư thường nói chúng ta khán thoại vĩ, chớ không phải khán thoại
đầu. Vĩ là đuôi, đuôi câu nói. Khán đuôi câu nói, chớ không khán được
đầu câu nói. Cứ nhớ “trước khi cha mẹ chưa sanh ta là gì?” mà không thấy
được cái trước khi khởi câu nói. Chưa thấy cái trước khi khởi câu, đó
là chưa khán tới thoại đầu.
Chúng ta ngồi thiền chỉ biết vọng
tưởng. Thấy vọng tưởng sanh, vọng tưởng diệt, chớ không biết cái đầu,
trước khi vọng tưởng khởi hay là cái cuối, sau khi vọng tưởng lặng. Như
vậy trước khi vọng tưởng dấy lên là cái gì? Sau khi vọng tưởng diệt là
cái gì? Bởi khi vọng dấy lên chúng ta nhớ “có vọng, buông”. Buông cái
này lặng rồi, một lát cái khác dấy lên. Vọng trước lặng, cái khoảng
trống trước khi qua vọng thứ hai, là cái gì? Chúng ta chỉ nhớ vọng tưởng
lặng, vọng tưởng sanh thành ra cứ đánh lộn hoài, nhọc nhằn quá phải
không? Còn cái khoảng giữa khi nó lặng rồi, mà chưa có cái thứ hai dấy
lên, là gì? Đó là chỗ mà chúng ta quên.
Khi vọng tưởng thứ nhất lặng, chừng
một giây hay hai giây mới thấy vọng tưởng thứ hai dấy lên, thì khoảng
trống giữa cái thứ nhất với cái thứ hai đó, chúng ta hữu tri hay vô tri?
Hữu tri tức là có tâm. Vọng tưởng dấy lên thì có suy nghĩ, cái suy nghĩ
đó là cái biết động. Mỗi một niệm dấy lên là động, động là tướng sanh
diệt. Khi nó lặng, khoảng giữa này không có dài, nhưng vẫn có một khoảng
giữa trước khi niệm thứ hai dấy lên. Khoảng giữa đó, nếu không có tri
thì niệm thứ hai dấy lên mình không thấy. Nhưng niệm thứ hai vừa trồi
đầu lên, mình thấy liền, như vậy trong khoảng giữa đó mình có tri hay vô
tri? Có tri. Cái tri của khoảng giữa đó là cái tri sanh diệt hay cái
tri bất sanh bất diệt? Có tướng mạo gì không?
Khi chúng ta khởi nghĩ nhớ ba, nhớ má,
thì hình bóng ba má hiện ra. Ta liền nói “vọng, buông!” Buông thì nó
lặng xuống, im lìm được một chút lại dấy lên nhớ chú, nhớ bác. Khi đó
hình dáng chú, bác hiện ra. Như vậy khoảng giữa này biết mà không có
bóng dáng, không có dấy niệm. Vậy khoảng giữa đó là cái gì? Đó, tôi muốn
chỉ cho tường tận chỗ này. Nếu không nói tường tận, quí vị sẽ không
hiểu được. Cứ nghĩ rằng hôm nay tôi ngồi một giờ đồng hồ thấy cả trăm
vọng tưởng. Chỉ thấy vọng tưởng thôi, mà không thấy cái gì khác. Như vậy
là quên sữa mà chỉ uống nước.
Bây giờ chúng ta phải nhìn lại cho kỹ,
khoảng giữa của hai niệm có một khoảng, nhiều khi được một giây hai
giây, hoặc một phút hai phút, sau đó mới có niệm thứ hai. Vậy một hai
phút đó là một hai phút chúng ta đang sống với cái gì? Biết mà không
khởi động là cái gì? Là cái biết không sanh diệt. Dấy niệm là cái biết
sanh diệt. Cái biết sanh diệt vùng lên mình thấy, rồi nó lặng đi. Khoảng
trống đó không có niệm sanh diệt, thì đó là khoảng trống của cái không
sanh diệt. Bởi vì khoảng trống đó mình vẫn biết mà. Mình biết mà không
có dấy động, biết mà không có bóng dáng, thì cái biết đó thuộc cái không
sanh diệt.
Như vậy ngồi hai tiếng đồng hồ, giả sử
quí vị có hai trăm lần vọng tưởng, nếu quí vị tỉnh thì trong hai trăm
lần vọng tưởng đó, cho mất đi một tiếng đồng hồ, còn lại một tiếng lặng
lẽ đó, quí vị đang làm gì? Đang ở đâu? Chỗ này phải nhìn cho thật sâu
mới biết hết giá trị của nó. Như vậy trong một trăm lần vọng tưởng mất
một giờ động, nhưng cũng có một giờ tịnh, phải không? Một giờ tịnh là
không mê. Vừa dấy niệm chúng ta liền thấy, đó là yên tịnh trong cái rõ
ràng thường biết. Góp lại từng chặng từng chặng rõ ràng thường biết đó
được một giờ, như vậy buổi ngồi thiền đó hữu ích hay vô ích? Tối thiểu
chúng ta cũng được một giờ yên tịnh. Đằng này chúng ta cứ nhớ một trăm
lần vọng tưởng mà bỏ quên cái khoảng lặng quí giá đó. Vì vậy, cứ nghĩ
buổi ngồi thiền hôm nay vô ích quá. Lát nghĩ cái này, lát nghĩ cái kia.
Một lát mới nghĩ, thì khoảng giữa “một lát” đó cộng lại xem bao nhiêu?
Điều này nếu không giải thích quí vị cứ lầm, cứ ngỡ rằng mình tu sao chỉ
thấy toàn vọng tưởng, vô ích quá!
Đang trên đường tu mà muốn được rỗng
rang, sạch làu làu, không còn gì hết sao được. Phải chia chứ! Chia cho
vọng một chút phần. Vậy mới tu. Tu là đang giành cái nào nhiều, cái nào
ít. Hoặc là vọng tưởng nhiều thì khoảng yên lặng ít; hoặc là khoảng yên
lặng nhiều thì vọng tưởng ít, đi từ từ như vậy. Vậy chúng ta xác nhận
lại một lần nữa xem khoảng không có vọng tưởng là cái gì?
Ở đây, tôi chưa cắt nghĩa thẳng mà tôi dẫn chuyện vòng vo tam quốc một chút. Ngày xưa Tổ Huệ Khả than với Tổ Bồ-đề-đạt-ma:
- Tâm con không an, nhờ Hòa thượng dạy pháp an tâm.
Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo:
- Đem tâm ra ta an cho!
Ngài Huệ Khả sực tìm. Lúc trước, Ngài nhớ nó chạy lăng xăng hoài sao bây giờ dòm lại nó mất tiêu. Khi đó, Ngài bạch với Tổ rằng:
- Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.
Tổ Đạt-ma bảo:
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Ngay đó Tổ Huệ Khả nhận ra, biết được đường vào. Biết được đường vào, nhưng phải trải qua thời gian khá dài tu tập.
Một hôm Tổ Huệ Khả thưa:
- Bạch Hòa thượng hiện nay con bặt hết các duyên.
Tổ Đạt-ma bảo:
- Coi chừng rơi vào không.
Ngài nói:
- Rõ ràng thường biết làm sao không được.
Tổ Đạt-ma liền nói:
- Ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế.
Nghĩa là sao? Nghĩa là bặt hết các
duyên mà rõ ràng thường biết thì ông được như vậy, ta được như vậy, chư
Phật cũng được như vậy. Chư Phật được như vậy nên các ngài thành Phật.
Bây giờ ta được như vậy rồi ta cũng sẽ thành Phật, ông được như vậy ông
cũng sẽ thành Phật. Vậy chỗ rõ ràng thường biết đó tên gì?
Trên đường tu, nhiều khi chúng ta mắc
kẹt ở ngôn ngữ, văn tự, mà không thấy được bản chất thật, giá trị thật
của sự tu. Bây giờ chúng ta phải thấy giá trị thật của nó. Hiện giờ
chúng ta ngồi thiền, dấy niệm liền biết, không dấy niệm cũng biết. Giữa
hai niệm dấy lên chúng ta đều biết. Chính khoảng giữa rõ ràng thường
biết đó, Tổ Huệ Khả nói bặt hết các duyên.
Chúng ta chỉ mới bặt được mười phần
trăm, hai chục phần trăm hoặc năm chục phần trăm các duyên thôi. Như vậy
so với Tổ, chúng ta còn cách xa nhiều, nhưng cũng có một phút, hai phút
bặt các duyên rồi. Chỗ bặt hết các duyên ấy gọi là gì? Gọi là gì mà chư
Phật như vậy, Tổ như vậy, chúng ta cũng như vậy? Chính cái không thể
gọi đó nên có rất nhiều tên gọi. Ông chủ cũng là một tên gọi. Ông chủ
không có hình dáng. Khách lên thì có hình dáng, mà chủ thì không có hình
dáng. Bởi không hình dáng cho nên khó nhận. Còn khách lên thấy có hình
dáng nên dễ nhận. Vì vậy suốt mấy giờ ngồi thiền, chúng ta chỉ thấy
khách chớ không thấy chủ. Đó là vì chúng ta sơ suất. Nếu chúng ta nhìn
kỹ, niệm dấy lên là khách, khi nó lặng xuống thì Ông chủ ngồi sờ sờ đó.
Nhưng tại vì ổng ngồi trong màn, khuất đi nên khó thấy.
Niệm khởi là duyên, nếu hết các duyên
mà rõ ràng thường biết thì chỗ đó chính là chỗ Tổ Bồ-đề-đạt-ma ấn chứng
cho Tổ Huệ Khả. Ấn chứng bằng cách “ông như thế, ta như thế”, tức ta và
ông không khác nhau. Con dấu thế nào in xuống giấy trắng hiện ra thế ấy,
không sai chạy, gọi là ấn chứng. Chẳng những ông như thế ta như thế mà
chư Phật cũng như thế luôn. Ba bốn con dấu giống hệt nhau. Đó là ấn
chứng sâu đậm. Hiểu cho tới nơi rồi chúng ta mới thấy cái giá trị của sự
tu.
Khi khách dấy lên chúng ta thấy, khách
lặng chúng ta nói không thấy. Chúng ta không thấy là không thấy khách,
chớ không phải không cái thấy. Ai thấy khách? Ai thấy không khách? Ông
chủ chớ ai. Như vậy niệm lặng tức là Ông chủ sờ sờ. Vì Ông chủ thấy lúc
này nó lặng nè, khách ra khỏi nhà rồi. Như vậy có vắng Ông chủ lúc nào
đâu.
Vậy mà chúng ta cứ than “ngồi thiền
sao cứ loạn hoài!” Tuy loạn hoài nhưng Ông chủ vẫn ngồi đó chớ đâu. Nếu
không quên Ông chủ, thì nó loạn cười với nó chơi “mấy chú hề mà”. Cái
thật sờ sờ ở đây thấy mấy chú đang diễn trò. Tu như vậy mới thật là hữu
hiệu. Người không biết tu thì sự tu của mình cảm thấy như vô ích. Năm
ngoái ngồi cũng vọng tưởng, năm nay ngồi cũng vọng tưởng, chắc năm mười
năm nữa cũng vọng tưởng! Tu như vậy buồn chết.
Phải thấy năm ngoái trong một giờ bao
nhiêu lần vọng tưởng, năm nay một giờ bao nhiêu lần vọng tưởng. Nó thưa
từ từ. Mà thưa vọng tưởng từ từ, thì Ông chủ hiện ngày càng rõ hơn, phải
không? Vọng tưởng càng vắng, Ông chủ càng hiện sờ sờ, chớ có thiếu chỗ
nào. Nghiệm cho chín chắn mới thấy giá trị của sự tu, còn nghiệm chưa
chín chắn thì chỉ thấy vọng tưởng chớ không thấy gì nữa hết. Tu như vậy
tức là vô ích rồi.
Cứ thế mà thấy tới thấy lui, Ông chủ
không vắng mặt lúc nào hết. Cho nên trong nhà thiền quở trách không cho
chúng ta ngủ, vì ngủ thì hết thấy. Thà là thức, dù nó chạy lên chạy
xuống nhưng quan trọng là mình vẫn thấy nó, thì không mất Ông chủ. Nếu
nó lặng mà không biết gì hết thì mất Ông chủ. Nên Phật nói khi chúng ta
ngủ như đi vào hang quỉ. Vọng tưởng tuy nó điên đảo một chút nhưng Ông
chủ vẫn có mặt đó để quán sát nó. Còn vào hang quỉ thì thôi hết thấy ai,
khách không mà chủ cũng không luôn. Vì vậy khi vọng tưởng, không ai
đánh, không ai véo tai; nhưng ngủ gục là bị đánh, bị véo tai. Bởi vì lúc
đó ta quên mất Ông chủ rồi. Mất cả chủ khách thì phải kêu dậy, chớ
không thì đi sâu vào trong hang quỉ tối sao! Hiểu cho thật kỹ chúng ta
mới thấy ý nghĩa, giá trị của người tu thiền.
Như vậy quí vị nhớ lại, ở trước tôi
nói con ngỗng uống sữa chừa nước lại. Cũng vậy nội tâm chúng ta giống
như một bát chứa sữa nước lẫn lộn. Bây giờ chúng ta phải lọc bỏ nước,
uống sữa thôi. Nước là cái gì? Là các chú vọng tưởng. Chú nào tới mình
đều loại ra, không theo. Loại ra rồi, lúc đó mình đang làm gì? Đang uống
sữa. Vậy mà quí vị không biết, cứ than hoài, tu sao thấy vọng không.
Nếu hết vọng không biết gì nữa, đó là không biết uống sữa. Dù đã loại
nước ra rồi nhưng tới sữa không biết uống, thành con ngỗng đói kêu la om
sòm.
Sữa hiện khi nước bị loại. Cũng như
khi vọng tưởng lặng thì cái hiện tiền đó là mình, chớ ai? Mình hiện
tiền, hay nói cách khác là Ông chủ hiện tiền, thấy rõ, nghe rõ, biết rõ,
không có nghi ngờ gì hết. Thấy, nghe, biết mà không có một bóng dáng,
không có một khởi nghĩ. Cái biết đó thuộc loại gì? Nếu so với cái biết
có hình có bóng thì nó thế nào? Có hình có bóng là vọng. Vọng là động là
sanh diệt là nhân tạo nghiệp sanh tử. Còn cái biết này lặng lẽ không
hình không bóng, mà rõ ràng thường biết. Cái rõ ràng thường biết là nhân
gì? Là nhân vô sanh, tức là Niết-bàn.
Như vậy chúng ta ngồi thiền vắng vọng
tưởng một phút, hai phút, ba phút… thời gian đó chúng ta đang ở trong
cái gì? Đang ngồi trong Niết-bàn, phải không? Cho nên các vị A-la-hán
khi còn thân này, các ngài sanh hoạt bình thường nhưng không có niệm
duyên theo cảnh. Vì thế nói các ngài đang ở trong Hữu dư y Niết-bàn. Bởi
Niết-bàn là vô sanh. Còn niệm là còn sanh. Dứt niệm mà hằng tri giác,
đó là vô sanh, là Niết-bàn.
Chúng ta cứ ngỡ rằng vào Niết-bàn là
vào một cảnh giới rực rỡ, có đủ thứ sung sướng, tươi đẹp… Tưởng Niết-bàn
như vậy là Niết-bàn tưởng tượng. Niết-bàn là vô sanh, vô sanh mà hằng
tri hằng giác, chớ không phải vô sanh mà vô tri vô giác. Cái hằng tri
hằng giác đó cũng gọi là Phật tánh. Như vậy được cái vô sanh hằng tri
giác đó là nhập được Phật tánh của mình. Nếu nhập được Phật tánh của
mình thì gọi là Phật chớ gì! Chúng ta cứ mong thành Phật được ngồi trên
tòa sen có hào quang rực rỡ, ông Phật đó là ông Phật gì? Ông Phật đó là
ông Phật sanh tử, hoặc là Báo thân, hoặc là Hóa thân. Phật Pháp thân thì
không có hình tướng.
Như vậy chúng ta có tu sẽ được kết quả
rất cụ thể, còn người không biết tu hết nghĩ chuyện này đến nghĩ chuyện
nọ liên miên. Trong khi cái biết thầm lặng luôn ở bên mình thì lại
không hay, không nhớ tới. Do không nhận được cái hằng tri hằng giác thầm
lặng ấy, nên chỉ nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ phải nghĩ quấy, cho đó là
tâm. Chấp giữ khư khư thân sanh diệt và tâm sanh diệt là mình thì trách
gì không đi trong luân hồi muôn kiếp sao được. Bởi cho cái sanh diệt là
mình nên vừa mất cái sanh diệt này liền ôm cái sanh diệt khác, cứ liên
miên như vậy, nên đi trong luân hồi vô số kiếp.
Nếu bây giờ biết rõ thân này là vô
thường sanh diệt, tâm phân biệt hơn thua phải quấy cũng vô thường sanh
diệt; chỉ có cái hằng tri hằng giác, không hình không tướng đó mới thật
là mình. Cái đó có bị lửa đốt cháy không? Không. Vì vậy nên nói hoa sen
trong lò lửa.
Nói thân vô thường vì thân bị lửa vô
thường thiêu đốt, cháy mòn dần. Thí dụ như một cây củi tươi, đút vô lò
lửa. Ban đầu củi tươi cháy chậm, lần lần củi khô cháy nhanh hơn, cuối
cùng nó bắt cháy hết. Cũng như vậy, hồi ta sanh ra đến lớn lên năm mười
tuổi, đầu tóc xanh. Năm tháng chất chồng, lửa vô thường đốt riết bây giờ
đầu bạc trắng. Hồi xưa mặt mày no đầy, bây giờ bắt đầu nhăn nheo. Nó
hiện tướng khô đó, khô rồi thì tới cháy rụi. Rõ ràng chúng ta mang thân
vô thường, bị lửa vô thường đốt cháy. Có khi nó cháy gấp, có khi nó cháy
muộn, nhưng nhất định phải cháy.
Song trong cái vô thường đó, ngầm có
một cái chân thường, tức là cái không có hình tướng, hằng giác hằng tri.
Không hình tướng nên đâu bị vô thường, hằng giác hằng tri nên đâu phải
là không. Trong nhà Phật nói chỗ đó “không phải có, không phải không”
(phi hữu, phi vô). Bởi vì nó không phải có theo hình tướng vô thường,
không phải không vì nó hằng giác hằng tri.
Trên đường tu chúng ta nghiệm, nhận kỹ
mới thấy, từng phút từng giây chúng ta đang tiến chớ không phải là vô
ích. Nhưng vì lâu nay không ai giản trạch cho mình biết, cứ cho rằng
ngồi thiền phải yên, phải lặng; mà sao mình ngồi vọng tưởng hoài, chưa
yên chưa lặng nên coi như mình tu chưa có kết quả. Năm năm, mười năm
nhìn lại thấy cũng còn vọng tưởng, bèn than: “Ôi, mười năm rồi mà tu vẫn
không có kết quả gì!” nên thối Bồ-đề tâm.
Nếu quí vị ngồi thiền từ đầu giờ đến
cuối giờ, chịu khó để ý ngày nay nghĩ mười lần, ngày mai còn chín lần,
ngày khác còn tám lần… Như vậy là đã thấy bước tiến của mình. Niệm khởi
và vô thường là điên đảo. Qua những cái đó chúng ta có những phút giây
sống với cái chân thường. Từ niệm điên đảo mà thức tỉnh, chúng ta sống
lại với cái bình lặng Vô thượng Chánh giác. Như vậy là mình có giác, chớ
đâu phải hoàn toàn mê.
Giả sử chúng ta còn vọng tưởng mà Ông
chủ vẫn hiện tiền hoài thì có thiệt thòi gì đâu. Mỗi niệm dấy lên Ông
chủ thấy quở nó, nó liền mất. Lát sau nó dấy lên niệm khác, Ông chủ thấy
lại quở nó, nó liền mất. Cứ như vậy, trong nhà có khách bước vô, chủ
chào hỏi, xong khách bước ra. Đến người khác bước vô, chủ cũng chào hỏi…
Cả ngày khách tới lui tấp nập, nhưng Ông chủ vẫn có mặt để chào hỏi
khách thì có thiệt thòi gì đâu! Chỉ sợ không có Ông chủ, khách vô làm
quyền ở trong nhà thì mới nguy. Chớ còn trong nhà có chủ, khách bước vô,
chủ chào rồi đưa ra. Như vậy Ông chủ có thiếu vắng lúc nào đâu?
Vậy mà nhiều người than thở hoài, “tu
lâu mà không có kết quả”, vì quên Ông chủ của chính mình. Nên biết giờ
ngồi thiền không phải thiệt thòi, mà chẳng những giờ ngồi thiền thôi,
cho tới giờ đi tưới hoa, nhổ cỏ, nấu cơm, lặt rau v.v… quí vị cũng biết
rõ từng niệm khởi. Đó là quí vị không thiếu Ông chủ. Ông chủ vừa thấy
dấy nghĩ liền đuổi đi, như vậy có gì mất mát đâu? Nếu giờ nào cũng có
Ông chủ, tức là giờ nào mình cũng có ông Phật. Tuy tu chưa thành Phật,
mà lúc nào cũng có Phật hộ cho mình. Đó là Phật luôn luôn gia hộ cho
mình không bị mấy đứa phàm tục chen vô.
Ngược lại cứ rong ruổi, thả trâu chạy
cùng đường cùng xá, chiều lại thắp hương cầu Phật phù hộ cho con, mà
không chịu nhận ông Phật thường trực gia hộ bên mình. Đó là lối tu quên
gốc chạy theo ngọn ngành. Cái gốc đó không xa, ở gần bên mình. Nên chúng
ta thường hay nói tu là cốt trở về cố hương. Cố hương ở đâu? Nếu nghĩ
cố hương cách đây chừng năm trăm hay một ngàn cây số là sai lầm. Chúng
ta phải nhớ cố hương ở ngay dưới gót chân mình chớ không ở đâu xa hết.
Chúng ta đang đứng trên cố hương mà quên mình đang đứng trên cố hương,
cứ nhìn đằng này đằng kia kiếm tìm cố hương. Đang đứng trên đất cố
hương, mà cứ nhìn ra ngoài nên nói quê hương xa mù, không biết ở đâu.
Như vậy mới thấy chúng ta hết sức điên
đảo. Cái thật hiện tiền lại quên, chỉ đuổi theo cái tưởng tượng, cái
mình ước mơ. Bây giờ muốn trở về cố hương, chúng ta phải làm sao? Chúng
ta phải chịu khó nhìn xuống chân mình thì thấy chớ gì. Vì muốn cho quí
vị thấy cố hương nên tôi mới khuyên mỗi khuya mỗi tối, quí vị ngồi nhòm
xuống một chút. Đừng nhìn đi xa, nhìn xa thì quên bẵng quê mình. Nhìn
xuống để thấy mình đang ngồi, đang đứng tại quê hương cũ của mình. Đó là
chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Còn nếu quên, chạy đi tìm đầu này góc nọ
là chúng ta mê. Quên là mê. Mê cố hương hiện tiền nên chạy tìm nơi nọ
nơi kia. Tất cả chúng tu hành là quay lại, nhận thẳng nơi mình, chớ
không có ở đâu xa.
Trở lại đề tài tôi nêu ở trước là con
ngỗng chúa chỉ uống sữa chừa nước. Chỗ rõ ràng thường biết không dấy
niệm là sữa. Niệm khởi sanh diệt là nước. Nếu chúng ta ngồi thiền hoặc
đi lại, mà cứ nhìn nhận cái rõ ràng thường biết, không chạy theo cảnh
bên ngoài, gọi là biết uống sữa chừa nước lại. Đó, chúng ta đang làm một
công tác lọc lựa, cái gì không phải thật mình thì loại ra; còn Ông chủ
thật thì mình nhận và sống với Ông chủ. Đó chính là công phu tu của
mình. Nếu một giờ không có vọng tưởng, hằng tri hằng giác, thì giờ đó
gọi là giờ Niết-bàn.
Như vậy ngay nơi thân phàm tục này
cũng vẫn có Niết-bàn. Nhưng Niết-bàn đó chưa trọn vẹn, chỉ là Niết-bàn
từng chặng, từng khoảng thôi. Lát thì sanh tử, lát thì Niết-bàn, còn
chập chờn chớ chưa hoàn tất Niết-bàn. Chừng nào như Tổ Huệ Khả, mọi
duyên đều sạch, không còn một niệm nào nữa, lúc đó chúng ta vẫn sống,
vẫn đi lại, mọi công tác chúng ta vẫn làm mà tâm hằng giác, hằng thanh
tịnh, đó là Hữu dư y Niết-bàn. Như vậy Niết-bàn xa không? Kiếm ở đâu?
Chúng ta có quyền được Niết-bàn không? Có ai không có quyền đó không?
Lâu nay chúng ta cứ nghĩ Phật, Bồ-tát
mới có Niết-bàn, còn mình là phàm phu ngu si nên vô phần. Bởi vì chúng
ta cứ ngỡ Niết-bàn chỉ có, khi tu đến hoàn toàn viên mãn. Chúng ta biết
mình có nhân Niết-bàn rồi, thì quả Niết-bàn sớm chầy gì cũng sẽ được.
Như vậy ai cũng có khả năng, ai cũng có thể tu được quả Niết-bàn. Nên
khi tôi thấy rõ việc này rồi, tôi cười vì hồi xưa đến giờ chúng ta cứ
nghĩ rằng sữa với nước đã hòa rồi thì không tài nào lọc được, phải
không? Nhưng bây giờ có thể lọc được thì mình là ngỗng chúa rồi. Ngỗng
chúa này đang uống sữa lọc nước, chớ không phải đã uống xong.
Như vậy quí vị cũng đang tập làm ngỗng
chúa đó, chớ đâu phải chuyện thường. Khi niệm khởi là sanh tử, khi lặng
lẽ hằng tri là vô sanh. Sanh tử với vô sanh ở cạnh bên, một giờ ngồi
thiền ít ra cũng được phân nửa thời gian của vô sanh. Như vậy có buổi
nào quí vị không có Niết-bàn đâu. Ngày nào cũng có Niết-bàn nhưng nhiều
ít vậy thôi. Do đó trên đường tu không có chuyện luống công vô ích mà
chỉ vì chúng ta không nhận ra.
Tôi nhắc lại câu hỏi của ngài Thạch
Cựu: Bồ-tát Địa Tạng tay cầm viên ngọc để làm gì? Bởi vì chúng ta cứ
nghĩ Bồ-tát Địa Tạng mới có viên ngọc, còn mình vô phần. Cho nên Ngài
đặt câu hỏi lại để cho chúng ta tỉnh, biết rằng mình cũng có ngọc. Chư
Bồ-tát có Niết-bàn, mình cũng có Niết-bàn, chớ không phải mình vô phần.
Chỉ vì mình không khéo, không nhận rồi cảm thấy vô phần. Vô phần là tại
có của mà không dám nhận, nên thành kẻ cùng tử lang thang. Nếu nhận ra
có ngọc báu đầy kho thì mình là con Trưởng giả, là phú gia rồi. Một bên
có mà quên thì thành cùng tử, một bên có mà nhớ thì thành Trưởng giả.
Bây giờ quí vị ưng làm gì? Ưng làm
cùng tử lang thang hay làm Trưởng giả? Chúng ta hiện giờ chắc cũng thấy
mình là con Trưởng giả, có nhiều của chôn cất kỹ, chỉ tại chưa bới lên
thôi. Mai kia bới lên mình cũng sẽ là Trưởng giả, chớ không nghèo nàn
như người ta tưởng nữa. Ý nghĩa này rất rõ ràng.
Tôi nói câu chuyện con ngỗng chúa biết
uống sữa chừa nước lại để giúp quí vị có thêm kinh nghiệm trong việc tu
hành. Mong rằng tất cả sẽ là những con ngỗng chúa biết uống sữa chừa
nước lại như thế.
HT. Thích Thanh Từ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét