Ngũ dục là những nhu cầu bình thường
trong đời sống con người, không ai thiếu được, nhưng đừng say mê và lạm
dụng nó thì yên. Một khi đã lao theo thì nó lại trở thành họa hoạn. Cho
nên, người tu phải ngay nơi ngũ dục mà thực hiện Phật đạo.
Chánh văn:
第 七 覺 悟
五 欲 過 患
雖 為 俗 人
不 染 世 樂
常 念 三 衣
瓶 缽 法 器
志 願 出 家
守 道 清 白
梵 行 高 遠
慈 悲 一 切.
Âm:
Đệ thất giác ngộ,
Ngũ dục quá hoạn,
Tuy vi tục nhân,
Bất nhiễm thế lạc.
Thường niệm tam y,
Ngõa bát pháp khí,
Chí nguyện xuất gia,
Thủ đạo thanh bạch,
Phạm hạnh cao viễn,
Từ bi nhất thiết.
Dịch:
Giác ngộ thứ bảy,
Năm dục tai họa,
Tuy người thế tục,
Nhưng không nhiễm dục.
Thường nhớ ba y,
Pháp khí bình bát,
Chí nguyện xuất gia,
Giữ đạo trong sạch,
Phạm hạnh cao xa,
Từ bi tất cả.
Giảng:
Thứ bảy giác ngộ ngũ dục là họa hoạn.
Bồ-tát tuy hiện thân vào đời, giống như người thế tục nhưng chẳng nhiễm
thế tục. Các ngài thường nhớ ba y, một bình bát, giữ chí nguyện xuất
gia, giữ gìn đạo nghiệp trong sạch, nuôi dưỡng phạm hạnh cao sâu, thường
hành từ bi đối với tất cả chúng sanh.
Phật dạy điều giác ngộ thứ bảy có hai
ý. Ý thứ nhất, nói về họa hoạn của ngũ dục tức tài, sắc, danh, thực và
thùy. Ý thứ hai, đức Phật mở ra một chân trời tịnh thanh đối với người
nào làm chủ được ngũ dục, mở ra cánh cửa giải thoát, sống đời an lạc
trước tất cả cám dỗ của ngũ dục.
Đức Phật vì lòng từ bi, thị hiện trải
qua trầm luân khổ sở trong vòng luân hồi, thể nghiệm chắc thật về vấn đề
này và ngài đã nói cho chúng ta biết đây là những điều họa hoạn. Nói để
làm gì? Để chúng ta nghe hiểu rồi nhớ, ứng dụng lời Phật dạy vào đời
sống, khiến nó không còn là những họa hoạn nữa. Người biết cách làm chủ
mình thì cũng sẽ làm chủ ngũ dục, nghĩa là sử dụng ngũ dục để thành tựu
sự nghiệp tu hành, chứ không bị nó lôi dẫn khiến mất hết huệ mạng. Rõ
ràng chúng ta cũng phải ăn phải ngủ, đâu thể không ăn không ngủ được.
Nếu biết điều phục được việc ăn ngủ theo lời Phật dạy, nhất định những
thứ này là chiến hữu cần thiết hỗ trợ cho chúng ta tu hành tới nơi tới
chốn. Đó là đỉnh cao lý tưởng nhất mà chư huynh đệ chúng ta đang hướng
tới.
Muốn làm chủ ngũ dục hay giải trừ nó
thì phải biết cách. Học hiểu Phật pháp, ứng dụng Phật pháp để dần dần
giải trừ nó là phương pháp xưa nay của những người tu Phật. Phật nói nó
là ngũ dục nhưng nếu biết sử dụng thì nó sẽ giúp, chứ không hại chúng
ta, nhưng hành giả phải khéo léo, sáng suốt mới có thể sử dụng được
những phương tiện ấy. Chính Lục Tổ cũng đã dạy giác ngộ không ngoài
những thứ này, giác ngộ ngay trong cuộc đời. Mình làm chủ được, sử dụng
được thì giác ngộ, là người đại lực lượng. Ngược lại nếu không sử dụng
được thì nó sẽ quật mình chết. Chết ở đâu? Ở trong ăn mặc ngủ nghỉ đó.
Như trong thiền viện giờ ngủ được quy
định từ 10 giờ tối đến 3 giờ sáng, trong thời khóa tu tập có ghi rõ
ràng. Người xưa sắp đặt một thời khóa tu tập thật sít sao cho chúng ta
hành trì, ân đức ấy vô cùng lớn lao. Bởi vì, nhìn qua sự sắp đặt như vậy
mình thấy rõ ràng các ngài đã có sự sống trải nghiệm trong công phu. Do
vậy, chư Tổ đặt định thời khóa để mở ra những cánh cửa cho chúng ta
bước vào được. Giả tỷ bình thường người đời chuẩn bị cho một giấc ngủ
thật tốt, thật thích thú từ đầu đêm cho tới năm bảy giờ sáng, nhưng các
bậc thầy của chúng ta lại có cái nhìn khác. Các ngài vẫn sử dụng ban đêm
để ngủ nhưng chia ra có giờ ngủ và giờ tu. Các ngài vận dụng thời gian
ngủ đủ cho sức khỏe để chúng ta ngồi dậy tu. Tu khoẻ thì trí tuệ mới
phát triển, đảm bảo bước đường hành đạo không quá khó, không gãy đổ.
Tôi cảm nhận được tấm lòng này và luôn
cúi đầu tri niệm ân đức của các bậc thầy, các bậc tiền bối, đã có một
sự trải nghiệm chắc thực. Các ngài vì thương mà chỉ dạy cho chúng ta cho
nên mình phải tuân thủ, phải tôn trọng lời chỉ dạy và sự sắp đặt này.
Vì vậy lúc mình đang ngủ ngon mà có người đánh kẻng dựng dậy mình cũng
vui vì biết giờ này là giờ tu. Người xưa bằng kinh nghiệm, bằng tấm lòng
đại từ bi, dựng chúng ta dậy để tỉnh táo làm việc cho chính mình. Các
ngài đã từng nói rằng việc đó chỉ có mình làm chứ không ai làm thay cho
được. Khi chư huynh đệ nhận ra được điều này thì tu thấy rất thích thú,
dù rằng những giờ giấc công phu đôi khi cũng làm mình nhọc nhằn, mệt
mỏi. Tuy nhiên, khi nhớ lại đại ân đại nghĩa, nhớ lại các việc mình phải
làm chưa xong, do vậy không nỡ nào nằm xuống ngủ. Một khi nằm xuống ngủ
là y như mình đang nằm trên lưng con rắn, con thú dữ dằn có thể quay
lại xơi mình một phát là kể như rồi đời. Do vậy, mình không sao ngủ
được.
Thật ra, ngũ dục là những nhu cầu bình
thường trong đời sống con người, không ai thiếu được, nhưng đừng say mê
và lạm dụng nó thì yên. Một khi đã lao theo thì nó lại trở thành họa
hoạn. Cho nên, người tu phải ngay nơi ngũ dục mà thực hiện Phật đạo. Đây
là vấn đề chính yếu. Hồi nhỏ tôi nghe các bậc thầy nói muốn hàng đệ tử
trở thành những bậc pháp khí hữu dụng trong Phật pháp, tức là trong lòng
của quý ngài muốn mình khai tâm để có thể thành tựu Phật đạo ngay trong
cõi đời uế trược này, chứ không phải chạy tìm kiếm ở đâu xa xôi.
Vì sao nói ngũ dục là họa hoạn? Vì nó
là những cái xâu, xâu lại thành một vòng, tâm của mình kẹt ở trong vòng
ấy. Người trong lòng ngổn ngang chẳng khác nào những xâu dây kẽm được
xâu lại thành một cuộn to. Nó xâu lại kết thành những tồn đọng, những cố
chấp cố thủ của chúng ta, đã vậy thì không biết chừng nào chúng ta mới
có thể tháo gỡ được. Ví dụ như vòng kẽm gai làm rào chung quanh khuôn
viên thiền viện được khoanh bằng những phương tiện cơ giới do vậy nó
khít khao. Chúng ta cứ ngỡ khó mà gỡ ra được nhưng thật sự biết cách gỡ
thì không khó.
Cũng thế tuy ngũ dục là họa hoạn nhưng
nếu mình làm chủ được, sáng suốt biết dùng nó thì có thể tháo gỡ hết,
nghĩa là phải có trí tuệ. Mỗi chúng ta phải nhớ rằng trí tuệ không
thiếu, không thể để cho nó ốm yếu, phải làm sao cho trí tuệ luôn mạnh
mẽ, không trống rỗng nơi mình. Đủ trí tuệ rồi, chúng ta sử dụng việc gì
cũng tốt hết. Như ta đang ngủ đồng hồ báo 3 giờ thức, khi đó nếu đầy đủ
sáng suốt trí tuệ thì nhất định ngồi dậy được. Khi đã ngồi dậy được thì
một lô các chương trình tu đều có thể thực hiện bằng sự sáng suốt của
mình. Trong bài hô thiền buổi khuya có câu “Canh năm Bát-nhã chiếu vô
biên”. Chư Tổ dạy mình nhớ sáng suốt tỉnh táo, bằng tâm kiên quyết bước
tới điện Phật, bước tới đạo tràng để gầy dựng sức mạnh, bảo vệ trí tuệ
nơi mình không bị bất cứ thứ gì làm cho mờ tối.
Ngũ dục quá hoạn, chữ Quá là sai lầm,
lỗi lầm. Nếu người phát tâm dũng mãnh, tu hành kiên quyết thì đối với
tất cả những sai lầm nhất định bỏ đi. Điều đó rất tốt. Như bây giờ trong
đại chúng, có vị nào phạm sai sót, các thầy lớn nhắc nhở, ngay đó tỉnh
sáng thấy biết mình sai sót liền xin lỗi sám hối. Sám hối có nghĩa là
không để cho những lỗi lầm ấy tái lại nữa. Khi biết lỗi rồi nhất định
bằng tuệ lực làm sao khắc phục không cho nó có một cơ hội sống dậy được.
Bỏ hẳn nó đi, đó chính là sức mạnh công phu của người tu. Chúng ta
thường nghe nói sức mạnh của người tu hay sức mạnh của tỉnh lực, tuệ
lực. Đó chính là sức mạnh tự chiến thắng mình, hơn cả chiến thắng trăm
ngàn quân địch. Tự chiến thắng mình là gì? Là có những lỗi lầm sai trái
nào, đủ gan dạ nhận lỗi trước mọi người, tự hứa bỏ đi. Và một khi đã hứa
với mọi người thì nhất định phải bỏ. Đó là người bước đầu gầy dựng cho
mình một sức mạnh. Quả thực sức mạnh đó không phải tìm kiếm ở đâu xa
xôi, mà nó ngay trong đời thường của chúng ta.
Nếu chúng ta có lỗi, thầy bạn nhắc nhở
chỉ ra, tuy nhiên mình chưa nhận định chính chắn đó là lỗi nên không
chấp nhận, không chịu nghe không chịu sửa. Điều này làm trở ngại rất lớn
cho bước tiến đạo của chúng ta. Chỉ cần biết suy nghĩ nhận ra, nghe lời
nhắc đúng liền tự khắc sửa đổi, không tốn thời gian bao nhiêu và cũng
không lỗ lã gì hết. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi chúng ta lúc nào cũng
sẵn lòng khiêm hạ, dám nhận lỗi và sửa lỗi thì rất tốt. Được sự hướng
dẫn chỉ vẽ của người lớn hơn, ngang hàng hoặc nhỏ hơn mình, mà lúc nào
chúng ta cũng sẵn lòng ghi nhận trân trọng và sửa đổi, như vậy là người
biết tu.
Trong đời sống hằng ngày đòi hỏi chúng
ta phải biết sửa mình. Cái gánh đã nặng rồi nên khi biết vật không
chính đáng thì thải ra. Thải ra cho nhẹ. Càng tu càng nhẹ càng khoẻ càng
vui, chứ tại sao càng tu càng bệnh. Nếu bệnh là do cái gì? Do báo
nghiệp nhiều đời, do không sáng nên cứ gây những cấu chủng. Mình đã tạo
những cấu chủng ấy, bây giờ phải gánh thôi. Cho nên người tu Phật phải
sáng suốt, vận dụng trí tuệ để làm thành cho mình, những gì không cần
thiết loại bỏ hết đi. Người xưa thường hay vào núi sâu rừng thẳm tu hành
là vì vậy. Ở đó dễ dàng gạn lọc những cấu bẩn trong tâm. Các ngài tu
với thiên nhiên, với sỏi đá nắng gió, rắn độc thú dữ… thích thú lắm. Các
ngài dám vào trong chỗ nguy hiểm để mà sống và gầy dựng cho mình một
sức mạnh tâm linh.
Đọc lại lịch sử của đức Thế Tôn chúng
ta thấy sau 20 năm ở hoàng cung với phụ vương, tất cả hoàng thân quốc
thích, Ngài học hiểu cách sống và cảm thông với tất cả mọi người. Nói
chuyện với thần dân, với những người hầu hạ mình rất trân quý. Một vị
thái tử có tấm lòng trắc ẩn sâu thẳm ở bên trong, nhớ đến sứ mệnh cao cả
nên nửa đêm vượt thành xuất gia, cởi bỏ hết những gì lâu nay đã có, vào
rừng ẩn tu tìm đạo. Từ đó gắng gổ tích cực trong công phu, sửa đổi việc
tu tập cuối cùng giác ngộ thành Phật. Ngài giác ngộ dưới cội Bồ-đề, nơi
đó không phải là phố thị mà là dưới bóng cây. Rõ ràng do ngài phát huy
được trí tuệ của mình nên thành tựu viên mãn Phật quả.
Việc tu tập phải thực hiện ngay trong
thế gian mà giác ngộ. Nên ở đây nói tuy là người thế tục nhưng không
nhiễm thế lạc. Thế lạc là thú vui trong tài sắc danh thực thùy. Chúng ta
kiểm nghiệm lại xem mình có bị đắm nhiễm không? Nếu còn những khởi tâm,
những dấy niệm về các hiện tượng tham sân si đối với ngũ dục v.v… thì
không cảm nhận được chỗ vô nhiễm của Bồ-tát. Có lần về thăm Hoà Thượng
Trúc Lâm, ngài lặp tới lặp lui rằng không phải huynh đệ lên núi lên non
mới tu được. Có khi lên đó tu không được chạy về, cuối cùng cả đời cũng
tu không được.
Tóm lại, các ngài răn nhắc chúng ta
phải có trí tuệ thấy đúng và thực hiện đúng những việc làm của mình. Nếu
đắm chìm dính mắc trong ngũ dục là mê lầm, là họa hoạn. Trong giấc ngủ
đang say ta vẫn tỉnh mỉnh ngồi dậy nghe chuông để tu hành thì không có
lỗi, không mê lầm. Chỉ sử dụng những nhu cầu cần thiết cho thân tâm, cố
gắng tỉnh giác vững tiến trên đường tu hành. Người như vậy sống trong
cuộc đời này không bị nhơ nhiễm nào làm vướng ngại. Hoà thượng Trúc Lâm
dạy sống được với tánh giác của mình là mục tiêu cứu kính của chúng ta.
Ngài mong mỏi tất cả những bậc thầy làm sao vẫn vui sống bình thường,
nhưng không bị nhơ bị nhiễm bởi tất cả mọi thứ chung quanh. Được thế là
tốt. Đó là một ý trong đoạn đầu của bài kệ này.
Phật dạy: “Thường niệm tam y, bình bát
pháp khí”, đây là những pháp khí của người xuất gia tu hành. Khi chúng
ta bước lên thềm bậc xuất gia thì phải có đủ những thứ này. Ba y, bình
bát là đồ dùng của người tu hạnh thanh tịnh, ít muốn biết đủ. Đức Phật
nhắc người muốn đi vào con đường xuất gia, giữ đạo hạnh trong sáng thì
phải trải qua cuộc sống giản dị như vậy. Có nhiều thầy sống thuần thục
trong đạo tràng, khi gặp Phật sự bên ngoài họ thấy ngỡ ngàng. Ví dụ như
sáng nay phải đi dự đại lễ ở Thành phố, chứ không lên điện Phật ngồi
thiền như mọi hôm, họ thấy không thích thú bằng mặc áo lên điện Phật
ngồi thiền.
Tôi muốn nói đến cảm khái này là dấu
ấn hình thành đạo lực công phu tu hành của mỗi người. Những gì người
thường ưa thích, mình cảm nhận không nên, dừng lại, đó là biểu hiện của
đạo lực. Như Phật tử tới trước chùa thấy hình tượng Phật, Bồ-tát tự
nhiên giật mình khép nép. Đó là điềm báo họ có chủng tử lành đã huân tập
từ trước, bây giờ có cơ hội nó hiện khởi. Đây chính là đạo lực, chủng
duyên của mỗi người. Trong nhà thiền có câu chuyện về một vị Phật tử đại
gia muốn cúng dường để tìm thánh tăng. Ông trình bạch với Hoà thượng
Đường đầu: “Thưa ngài con muốn cúng dường để tìm một bậc thánh tăng đúng
với tâm nguyện của con”. Hoà thượng bảo được rồi, ông cứ tổ chức đi.
Như vậy giữa thầy trò đã có sự cảm thông và cùng nhau gạn lọc để nhận ra
thánh tăng.
Vị cư sĩ này chuẩn bị một đại lễ mời
toàn chúng trong thiền viện, luôn cả Hoà thượng đường đầu. Hôm đó tổ
chức rất qui mô, toàn chúng đều đi dự. Ngoài cổng chuẩn bị sẵn sàng, đại
chúng đi qua đều bước bình thường. Gần hết chư tăng rồi mà chưa tìm ra
thánh tăng. Vị đại gia này cảm thấy hơi thất vọng, bỗng nhiên lúc ấy có
hai thầy ăn mặc lôi thôi lếch thếch, vừa đi tới cổng liền lộn ngược đầu
mà qua. Mọi người bảo tới giờ này mà còn giỡn. Lúc đó Hoà thượng đường
đầu nhận ra và nói với vị Phật tử đại gia kia chính đó là thánh tăng.
Quý vị biết sao không? Vì ở dưới cánh cổng đó có chôn một tượng Phật,
một bộ kinh Đại Bát-nhã, kẻ phàm tăng làm gì biết, do vậy cứ đi bình
thường. Nhân vật này quả thật là thánh tăng nên tới đó cúi đầu kính lễ
và lộn qua bên kia, tức là không dẫm lên hình tượng và kinh Phật. Hoà
thượng đường đầu vui mừng vì quả thật ở trong đạo tràng của mình có
thánh tăng. Có thể nói dấu vết của chư vị đại thánh, Bồ-tát thị hiện
trong các đạo tràng và tùng lâm lớn ở Trung Hoa đều là những trường hợp
như vậy. Các ngài thị hiện mọi nơi, trong những hang cùng ngõ hẻm, nơi
nào đủ duyên thì đến. Đó là câu chuyện biểu hiện sự lạ thường nhưng lại
có trong cuộc đời bình thường. Từ đó cho chúng ta thấy công phu, đạo lực
của người chân tu lớn mạnh ngay trong đời thường, không dính dáng gì
tới màu áo, dáng vẻ hình thức bên ngoài.
Đạo lực phát triển từ công phu tu hành
của chính chúng ta. Điều này không ai ban cho mình cả. Bây giờ đức Phật
các vị Thánh trước nói ngũ dục là họa hoạn, chúng ta phải quyết chí tu
hành, sửa đổi những xấu dở thì sẽ thành tựu đạo lực. Các ngài chỉ dạy
nhắc nhở chúng ta trong phạm vi đó, làm thành cho ta thật sự có đạo lực
để được giác ngộ giải thoát đều từ nơi mình chứ không ai khác. Cho nên
chư huynh đệ phải cố gắng. Bây giờ nhìn chung trong đại chúng luôn cả
chính tôi cũng không ngoại lệ, đều chưa thấy hết cái họa hoạn của ngũ
dục nên chưa tránh khỏi bẫy lồng của nó. Chỉ những vị có trí tuệ biết đó
là họa hoạn nên tự dừng tự điều phục, mới thoát khỏi họa hoạn của nó.
Hôm qua nói chuyện tại thiền viện
Thường Chiếu, tôi nói nhiều về những tâm bệnh và thân bệnh. Thân bệnh và
tâm bệnh này không ngoại lệ, nghĩa là đại chúng có thân bệnh tâm bệnh
thì thầy Trụ trì cũng có thân bệnh tâm bệnh. Nhưng người có trí tuệ biết
đó là bệnh thì sửa đổi hoán chuyển như thế nào đó, để sử dụng tốt thân
tâm bệnh tật này trên con đường Phật đạo. Đó là điều quan trọng. Nói về
thân bệnh, một khi mình biết nguyên nhân nào gây bệnh thì nhất định phải
bỏ. Đây là cái hay của đạo Phật. Biết rồi phải buông bỏ, mà buông thì
buông cho sạch. Ví dụ, người biết một chút về y lý bệnh lý, khi bác sĩ
nói hút thuốc nhiều thì sẽ bị ung thư phổi chẳng hạn, biết rồi thì không
hút nữa. Tuy nhiên, người sản xuất rượu vẫn sản xuất đủ loại, đủ nhãn
hiệu. Đó là chuyện thường trong đời sống thế gian. Người ta có quyền sản
xuất nhưng đệ tử Phật có quyền không uống. Người trí tuệ có tầm nhìn
cao rộng, thấy được lẽ thật của mọi vấn đề nên không bị họa hoạn vây
khốn.
Người biết tu cố gắng sống bình
thường, tới giờ ăn thì ăn, tới giờ ngủ thì ngủ, tới giờ thiền thì đi
ngồi thiền, mọi người đi làm chúng ta đi làm, mọi người nghỉ chúng ta
nghỉ, bình thường không có gì khác. Trong đời sống chư huynh đệ nhớ vui
vẻ. Người ta làm gì mình làm cái đó, người ta cười nói mình cũng cười
nói, người ta nghỉ ngơi mình cũng nghỉ ngơi. Đó là một đời sống bình
thường mà rất hoàn chỉnh của người có trí tuệ. Như vậy, ngay trong đời
sống này chúng ta không còn thiếu thứ gì hết. Nếu có thiếu là do xuất
phát từ lòng tham mà ra. Giữa mọi người tự nhiên có một người thấy sao
cứ không hài lòng, làm gì cũng không thấy vui, nhất là đồ dùng không bao
giờ thấy vừa ý. Đó là vì lòng tham sai khiến.
Hồi xưa có lần huynh đệ chúng tôi tọa
đàm với nhau, đưa ra đề tài tìm một người lý tưởng, không dính mắc gì
hết. Những anh em đi học trường lớp ngoài đời lý giải nhiều, đưa ra
nhiều mẫu người lý tưởng lắm. Nhưng cuối cùng tôi nói không phải, chỉ
người nào sống hài hoà vui vẻ bình yên, mọi việc chân tình với anh em là
người lý tưởng. Ngược lại, người tuổi trẻ mà cứ nhăn nheo hoài, trong
lòng bức xúc hoặc có một đầu óc muốn tóm thâu thiên hạ về mình. Lòng
tham của họ lớn quá mà thực hiện không được nên bất an hiện ra, người đó
là người có nhiều bất an bất ổn, nên biết tham là biểu hiện không tốt.
Anh em chúng tôi bàn tán cả đêm, cuối cùng người bình thường lại phát
triển, chưa chắc người học giỏi phát triển, chưa chắc người không đi học
không phát triển. Họ không đi học ở đâu hết mà nhân cách của họ tốt thì
tuyệt vời. Họ sống trong quê trong làng, trong những chỗ đường cùng ngõ
hẹp mà ai cũng tìm đến. Bởi vì họ có tấm lòng, tấm chân tình đối với
tất cả mọi người, quả thật đó là người lý tưởng trong xã hội.
Chúng ta không lo không sợ mình quê
dốt mà tốt nhất là chỉ yên lòng tu. Ngay trong cuộc sống đời thường này,
không để bất cứ một thứ gì làm động tâm. Ăn mặc ngủ nghỉ đi đứng cũng
vậy, tụng niệm tu hành cũng vậy, làm tròn bổn phận một cách hết sức bình
thường. Đó là người điều hòa tốt. Những người như vậy rất cần thiết
trên bước đường học đạo, bước đường trải nghiệm tu hành với chúng ta. Tự
mỗi người phải gầy dựng, ý thức, chủ trì mọi sinh hoạt của mình. Người
phát huy được chí nguyện của mình đi vào con đường tốt, làm việc tốt, đó
là người giữ được đạo thanh bạch. Từ chỗ thanh bạch bình thường này dẫn
đến đầy đủ phạm hạnh và sẽ dễ dàng làm lợi ích cho tất cả mọi người.
Cuối cùng trong bài kệ nêu lên bậc Bồ-tát làm mọi việc vì tất cả chúng
sanh, chứ không phải vì cá nhân mình.
Đôi khi nghiệm lại chúng ta thấy mình
chưa phát huy được điều đó. Đọc qua cuộc đời các vị quan thanh liêm của
Trung Hoa và Việt Nam, thấy họ cũng là người làm những việc bình thường
thôi. Họ đi học đi thi đỗ thủ khoa, nhưng lại vô rừng cất trại, dựng
làng, lấy lá rừng làm nhà, sống chung với người dân nghèo ở chung quanh,
nói những điều đạo lý, dạy dân không nên làm việc ác, phải trung thành
đùm bọc nhau. Do vậy, họ được rất nhiều người quý kính, mỗi ngày dân
làng đến nói chuyện, trao đổi… Dần dần họ trở thành người thân của dân.
Trong quá trình học tập ở quan trường tốt nghiệp thủ khoa, lại không có
những điều này. Đó là do mỗi người tự phát huy, tự ý thức, chủ động sáng
tạo ra.
Thật ra, trí tuệ của chúng ta hay lắm,
cho nên đạo Phật rất quý trọng trí tuệ. Từ cuộc sống chúng ta tự phát
huy sở trường của mình thông qua trí tuệ. Như trường hợp làm chùa làm
chiền, Hoà thượng nói “chú xem cái chùa như thế nào rồi xây dựng”. Tôi
chưa từng biết cái chùa làm tốn bao nhiêu cát, xi măng, sắt… nhưng khi
bắt tay vào việc thì những vị cộng sự cho biết cái nào thiếu cái nào đủ
và tôi nhìn cũng thấy cái nào hoàn chỉnh, cái nào không hoàn chỉnh. Cùng
nhau hòa hợp với mọi người để điều hòa cuộc sống, chúng ta sẽ gầy dựng
được những điều tốt đẹp không chỉ cho riêng cá nhân mình mà cho tất cả.
Điều này là thành tựu của những người con Phật, những người hành trì đạo
có tâm huyết và bền bỉ.
Nói như vậy để chư huynh đệ cố gắng
lên, không sử dụng trí tuệ, không có công đức tu hành thì làm sao được
lợi lạc. Bởi chính mình không buông cho nên mình mới khổ. Do chưa buông
được nên cứ ôm giữ, mới bị đau bị vướng trong trầm luân không ra được.
Bây giờ Hoà thượng chỉ cho mình cách mở ra một chân trời sáng, chỉ mình
phải buông. Nếu ngài biểu để thêm cái gì thì chắc chúng ta làm không
nổi, cái gánh nặng dù là gánh ngọc ngà châu báu mà cứ để vô mãi thì nhất
định sẽ gánh không nổi. Chỉ có cách thảy đồ trong đó ra hết thì nó nhẹ
và cuối cùng cái gánh cũng vứt luôn mình mới hoàn toàn thảnh thơi an
lạc.
Qua điều giác ngộ thứ bảy chúng ta
thấy có những hoạ hoạn của ngũ dục Phật dạy nên tránh. Bên cạnh đó ngài
ca tụng ý chí của những người tu hành thoát ra khỏi ngũ dục, ra khỏi họa
hoạn của nó. Dù đang sống trong ngũ dục mà phát tâm xuất gia tu hành,
người đó có thể thành tựu được đạo nghiệp, trở thành người thanh tịnh
tốt đẹp và đem đến lợi ích cho tất cả mọi người. Họ không vướng bận vào
vòng luẩn quẩn của cuộc đời, cho nên người này là Bồ-tát là đại nhân.
Các ngài làm việc gì cũng vì chúng sanh chứ không nghĩ đến bản thân
mình. Đó là điều chúng ta đang hướng tới để thực hiện cho được, từ đó
viên thành Phật đạo.
Thích Nhật Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét