Các bậc đại nhân nói chính những vọng động nó dắt chúng ta vào thế đồ, vào luân hồi sinh tử. |
Chính vọng tưởng đã làm chúng ta trôi
lăn từ đời này qua bao kiếp khác, thương nhớ buồn vui khổ đau cứ chất
chồng lên tâm thức khiến chúng sanh lao lự, điên đảo không có một phút
an vui.
弟三覺知
心 無 厭 足
唯 得 多 求
增 長 罪 惡
菩 薩 不 爾
常 念 知 足
安 貧 守 道
唯 慧 是 業
Âm:
Đệ tam giác tri,
Tâm vô yểm túc,
Duy đắc đa cầu,
Tăng trưởng tội ác,
Bồ-tát bất nhĩ,
Thường niệm tri túc,
An bần thủ đạo,
Duy tuệ thị nghiệp.
Dịch:
Giác ngộ thứ ba,
Tâm không biết đủ,
Chỉ thích cầu nhiều,
Tăng trưởng tội ác,
Bồ-tát không thế,
Thường nhớ biết đủ,
Giữ đạo vui nghèo,
Trí tuệ sự nghiệp.
Giảng:
Thứ ba là giác ngộ rằng tâm ta không bao giờ biết chán đối với dục lạc,
luôn muốn được nhiều, vì vậy tội ác tăng trưởng. Bậc Bồ-tát thì không
như thế, các ngài luôn nghĩ biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo,
lấy trí tuệ làm sự nghiệp của mình.
Những năm đầu theo Thầy lên núi tu hành, huynh đệ chúng tôi chỉ có
khoảng mười người. Nhưng mỗi người là một vũ trụ, một phương trời, không
ai giống ai hết. Hôm nào anh em cùng ngồi bên nhau bàn luận về một vấn
đề, cuối cùng chẳng có ý kiến nào trùng hợp ý kiến nào. Nếu có trùng hợp
là do người chịu trách nhiệm chủ trì khéo léo hướng dẫn huynh đệ cùng
hướng về một điểm, cùng tiến, cùng đồng lòng; bằng không sẽ phân ngả mỗi
người mỗi hướng khác nhau. Đã xuất gia sống đời lục hòa, chúng ta phải
có điểm chung với nhau. Cho nên các vị lãnh đạo thường nói đại chúng
phải hỗ tương, giúp đỡ nhau cùng tu tiến.
Hòa thượng Trúc Lâm dạy tìm sự hoan hỷ bằng cách buông bỏ hết những cái
riêng tư. Nếu chúng ta dốc lực buông bỏ hết thì có điểm gặp nhau. Đây là
hướng tu thiền. Nếu trong tâm còn những vướng mắc chấp chặt, thì nhất
định không làm sao huynh đệ sống hòa hợp được. Nhờ cuộc sống lục hòa
cộng trụ nên con đường chúng ta đi thông thoáng, vui vẻ thẳng tiến. Hồi
trước tôi có người huynh đệ tu và làm việc rất giỏi nhưng có một điểm
không giống ai hết. Mỗi chiều khi thấy hoàng hôn xuống, huynh nói nhớ
nhà quá, không muốn ở chùa nữa. Tôi lấy làm ngạc nhiên sao huynh này lạ
vậy, sáng muốn tu, chiều lại muốn về nhà!
Tu giỏi nhưng còn vướng mắc gia đình nên không có niềm vui. Và một khi
có ý bỏ cuộc thì cuối cùng bỏ cuộc thật. Con người một nắng mười mưa,
bước tới một bước, bước lùi hai ba bước, rồi đứng lại nghỉ mát, đi như
vậy biết chừng nào tới đích. Đó là vấn đề chung quanh cuộc sống của
chúng ta. Vậy thì nên buông bỏ cái gì và khi buông bỏ hết rồi chúng ta
còn cái gì để sống. Có người hỏi Hòa thượng Trúc Lâm:
- Buông bỏ hết, con còn cái gì?
Hòa thượng đáp:
- Buông đi, bỏ đi. Bỏ hết thử xem còn cái gì.
Đây là bệnh của một số người chưa dám buông bỏ hết, sợ không còn cái gì
để bám. Một lần tôi theo Hòa thượng về quê, đến chùa Phật Quang phải qua
một đoạn đường, phía trước là sông lớn. Dọc bên sông là dãy nhà của
dân, sau dãy nhà có rất nhiều con rạch. Qua rạch bằng những cầu cây gòn
hoặc cây cau không tay vịn. Bước sang cầu là ruộng. Ruộng miền đó, mùa
nước không chỗ nào đặt chân xuống mà không bị lún sình. Người nào sợ
phần nhiều bị rớt, những người đi một cách tự nhiên thì qua được. Chính
bản thân tôi khi tới đầu cầu phải đứng lại. Hòa thượng nói “Chùn bước
rồi hả chú?” Tôi nghĩ trong bụng mình cũng dân quê, có cây cầu thôi làm
gì phải chùn bước, nên đi tiếp và qua được bên kia. Đó là kinh nghiệm và
cũng là một bài pháp để chúng ta ứng dụng vào đời tu của mình.
Khi mới vào đạo nghe quý thầy nói con đường tu hành rất xa xôi vất vả,
nếu tu theo Tịnh Độ thì từ đây qua thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà
mười muôn ức cõi nước. Tôi tự hỏi đi bằng phương tiện gì, đi làm sao mà
tới được? Qua trải nghiệm trong cuộc đời, chúng ta tu hành thấy khó
nhưng nếu quyết tâm và niềm tin vững chắc thì sẽ đến nơi. Tin chắc điều
gì? Tin chắc chúng ta mặc đồ tu, có rớt xuống mương leo lên giặt cũng
dễ. Có niềm tin thì khó khăn sẽ không còn cản trở được bước chân của
chúng ta. Nhìn vào gương của những người xưa, cộng với phúc duyên của
mỗi người thì không còn khó khăn nào làm mình ngán sợ.
Có người than với tôi: “Con tu nhiều năm mà vẫn không nhận ra được Phật
pháp để hành trì”. Câu này nếu gặp thiền sư, ngài sẽ nói: “May mắn đó
con.” Chúng ta chưa nhận ra được chân tâm, chưa thật sống với bản thể
nên vẫn còn những va chạm làm buồn lòng nhau. Chỉ khi nào chúng ta quyết
tâm buông bỏ, nhất định sẽ có những bước tiến rõ rệt. Phật dạy tâm suy
nghĩ vẩn vơ là giả, mọi thứ xung quanh cũng không thật, nhưng sao chúng
sanh bỏ rất khó. Việc tu hành tuy có những khó khăn tưởng chừng không
vượt qua được, nhưng cuối cùng chúng ta đã định hướng, đã quyết tâm thì
nhất định sẽ vượt qua và khắc phục, không có gì khó khăn.
Chỉ cần một chữ buông mà chúng ta có thể sống đời nhàn hạ, chỉ cần một
chữ buông chúng ta có thể sống đời hòa hợp thương yêu. Nhưng buông cái
gì? Hòa thượng dạy: "Sáng nay ngồi thiền chú thấy cái gì ló lên thì
buông bỏ nó đi, chiều ngồi thiền cái hồi sáng nó không ló lên nữa đâu,
có cái gì khác thì chú cũng buông bỏ tiếp". Một năm ở trong thiền viện
không biết mấy ngàn vạn lần hình ảnh, số lượng nhiều như vậy, trong kinh
ví như số cát sông Hằng. Chúng ta đã dẫm chân vướng mắc trong cuộc đời
này, nếu không buông bỏ thì chắc chắn trong lòng đầy ắp những chuyện
không đâu nên không yên. Vậy thì chúng ta cố gắng buông bỏ cho được,
buông bỏ được nhất định niềm vui sẽ giúp chúng ta tu tiến.
Trong điều giác ngộ này, trước tiên là nói đến “Tâm vô yểm túc”. Do vì
chúng ta chưa nhận được chân tâm nên những vọng động về quá khứ, mơ ước
tương lai nhiều vô kể, bởi nhiều nên tu không yên ổn. Chính vọng tưởng
đã làm chúng ta trôi lăn từ đời này qua bao kiếp khác, thương nhớ buồn
vui khổ đau cứ chất chồng lên tâm thức khiến chúng sanh lao lự, điên đảo
không có một phút an vui. Có những vị đã xuất gia rất lâu, đã thọ giới
cụ túc mà chưa nhận được tâm chân thật, cho nên cứ lo gom giữ, dính mắc,
muốn buông không buông được. Chỉ bao giờ người nhận ra được tâm thật
của mình, thấy mọi thứ bên ngoài đều là giả, lúc đó chúng ta mới thật sự
không còn bám víu vào dục lạc bên ngoài.
Nhưng làm cách nào để nhận ra tâm chân thật của chính mình? Hòa thượng
dạy muốn nhận được chân tâm thì phải ngồi thiền. Như trong đống rác có
nhiều thứ, chúng ta phải loại hết các thứ tạp nhạp ra để tìm cái mình
cần. Như người chăn trâu, trâu bỏ đi hoang không thấy bóng dáng của nó
thì phải đi tìm. Chân tâm là cái rỗng rang sáng suốt, muốn thấy được tâm
thật thì trong lòng đừng dính mắc cái gì khác. Giả tỷ chúng ta đang
nghiêm chỉnh ngồi đọc sách, chợt nghe có nhiều người nói chuyện lớn
tiếng, tai mình bắt đầu nghe ngóng xem người ta nói chuyện gì, nếu có
tên mình thì chúng ta liền nhảy ra để tham gia. Bao giờ còn lanh lợi,
khôn ngoan thì tâm lăng xăng quấy động, chưa có hướng quay lại sống và
nhận được chân tâm của mình.
Ví như trong nhà có sáu cửa, bên trong có con khỉ kêu choé choé, ở ngoài
cũng có con khỉ kêu choé choé. Con khỉ ngoài kêu choé choé thì con khỉ
bên trong cũng kêu choé choé. Cuộc sống chúng ta cũng như vậy, trầm luân
trôi giạt nhiều đời nhiều kiếp, bởi con khỉ bên trong quá lanh lợi khôn
ngoan, rồi con khỉ bên ngoài lại khỏe mạnh phi thường. Hai con cứ như
thế mà trao đổi, dẫn chúng ta băng rừng lội suối, lên trời xuống bể bao
nhiêu đời kiếp. Bây giờ được thiền sư nói cho nghe rằng: - Ông ơi! Hãy
để con khỉ ở trong chết đi. Chỉ cần con khỉ bên trong chết thì tâm được
rỗng rang sáng suốt. Chúng ta đừng mong con khỉ bên ngoài chết, vì nếu
con này chết thì có con khỉ khác còn lanh hơn. Thôi thì con khỉ nào bên
ngoài cũng được, miễn con khỉ bên trong chết là yên, đất nước thái bình,
chiến tranh can qua không còn nữa. Lúc đó hành giả mới thật sự sống
được với chân tâm, trở về với chánh pháp. Nếu không thì chúng ta cứ lao
theo bên ngoài, vọng động nổi chìm trong sinh tử triền miên.
Chúng ta phải làm sao quán chiếu bỏ hết, đó là biết thương mình, biết
tri túc. Biết thương mình là sao? Như vừa rồi chúng ta đi khám bệnh, Bác
sĩ nói cơ thể ông tốt lắm; gan, lá lách, phèo, phổi… có thể sống được
một trăm tuổi. Bây giờ chúng ta trên bảy mươi tuổi rồi, khoảng thời gian
còn lại không nhiều nên phải bỏ hết những lăng xăng, những vướng mắc
đang làm chúng ta mệt nhoài đảo điên đây. Vì vậy đối với các bậc Bồ-tát
thì: “An bần thủ đạo”, ngày nào còn sống là còn tu, giờ nào còn sống là
còn tu, phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Bác sĩ nói là một trăm tuổi chứ
không chắc được vì tai họa đủ thứ, do muốn lấy lòng nên Bác sĩ nói cho
mình mừng chơi thôi, chứ một hơi thở ra mà không hít vào là ngủm.
Chúng sanh lúc nào cũng tham sống sợ chết, thích sống cho lâu, nắm bắt
cho nhiều, tạo nghiệp cho dữ, để rồi tội ác cũng theo đó phát sinh. Trầm
thống cũng từ đây mà phát nguồn, đi khắp các nẻo tử sinh lăn qua lộn
lại đủ thứ hình trạng chỉ vì chẳng bao giờ biết đủ. Ngược lại, đối với
các bậc Bồ-tát thấy được lẽ thật của các pháp, biết nó là vô thường giả
có. Sống đời thanh đạm để phát huy đạo nghiệp, lấy trí tuệ làm tiêu
điểm, Phật gọi đó là bậc Đại nhân.
Tôi có một định hướng, xin chia sẻ để huynh đệ nắm bắt và ổn định tâm
tư, nguyện vọng mà yên lòng tu tập. Hòa thượng Ân sư của chúng ta từng
dạy ngay trong đời này, trước nhất là làm sao chúng ta giải quyết được
vấn đề sinh tử. Muốn giải quyết được việc lớn đó phải thật sự an ổn, yên
lòng tu tập, buông bỏ không chạy theo vọng tưởng, không lầm nhận vọng
tưởng. Một niềm vinh dự vô cùng lớn lao là Phật Tổ, các bậc thầy đều dạy
mỗi người chúng ta có sẵn trí tuệ đức tướng Như Lai. Vì vậy nếu chúng
ta biết tri túc, đừng tham cầu những cái huyễn giả, thì sẽ gần gũi sống
và phát huy được trí tuệ chân thật của chính mình.
Chính đây là điểm mà các vị thiền sư thời Trần nhắn gởi người sau: “Phản
quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Ngay nơi chúng ta có đủ hết
không thiếu thứ gì. Các vua Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông…
đang ở tột đỉnh uy quyền, vinh quang nhưng các ngài biết nó đều không
thật, nên bỏ đi để bước vào cuộc sống đạo, gầy dựng cái thật cho chính
mình.
Vua Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ việc bổn phận tông chỉ, Tuệ
Trung dạy rất giản dị “phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”,
soi sáng lại chính mình là việc chính, không từ ngoài mà được, không
thêm gì hết. Đối với vua, giang sơn xã tắc, bá tánh muôn dân là tất cả
của vua, nhưng khi chỉ thẳng tông chỉ, Tuệ Trung Thượng Sĩ khuyên vua
nên soi sáng lại chính mình là bổn phận, không từ người khác mà được. Từ
đó vua bỏ tất cả, lên núi Yên Tử tu. Đọc vào những trang sử thiền,
chúng ta thấy hành trạng của chư vị Tổ sư, các bậc thầy đã tu chứng đi
trước, không có vị nào dạy chúng ta phải thêm cái gì khác, chỉ đừng dính
mắc vào trần cảnh bên ngoài. Điều này rất thực tế.
Giả như huynh đệ nào đó nghĩ ngợi không biết mình tu tới cùng hay không,
có chuyện gì xảy đến với mình không? Chúng ta không cần thiết phải nghĩ
xa như vậy. Ngay bây giờ nếu ta đừng chạy theo những âm thanh, như ở
đây có tiếng cưa, tiếng cắt, tiếng ồn ào bên ngoài nó hú, nó ré đủ thứ…
chúng ta vẫn nghe nhưng không chạy theo nó, nếu được như vậy thì thật sự
rất an ổn. Đây là điều thực nghiệm chứ không phải lý thuyết suông. Ngay
nơi đây chúng ta buông hết những vọng niệm, đừng chạy theo cảnh bên
ngoài, hằng biết hằng nghe thì an vui sẽ có mặt. Nếu huynh đệ nào hữu
duyên cảm nhận được lẽ thật đó thì cuộc sống sẽ thênh thang, vui vẻ,
không có gì bên ngoài sánh bằng.
Nếu như Bác sĩ ấn định, chúng ta còn sống hai mươi hay ba mươi năm, đó
là giả thuyết thôi. Phật đã dạy mạng người chỉ là hơi thở, Hòa thượng
Trúc Lâm từng khuyên tu hành, làm sao phải đảm bảo nâng nó đến mức độ
xem như hơi thở, không nên chạy theo dính mắc một vấn đề gì ở bên ngoài.
Công phu như là hơi thở, nếu chúng ta không làm được việc đó xem như là
chết. Như vậy khi chúng ta nhận được lẽ thật thì sẽ có cách bảo vệ công
phu tu hành. Nhận ra như thế nào là tùy theo từng nhân duyên mỗi vị,
nhận thì không khác, khi nó hiển lộ rồi thì không còn ngược xuôi nữa, sự
thật như nhiên. Một khi thật sự sống được với cái chân thật, huynh đệ
lúc nào cũng an vui, sự tu mỗi ngày càng tăng tiến rõ. Từ đó chúng ta cố
gắng nâng đỡ dìu dẫn nhau, cùng hỗ trợ trong tinh thần lục hòa để lý
tưởng mỗi người được thăng hoa.
Như vậy chúng ta muốn tu hành được tiến bộ, trí tuệ hiện bày, thì phải
làm sao? Trí tuệ chúng ta đã có sẵn nhưng chưa phát triển, vì bị những
thứ bên ngoài chi phối, giờ làm sao cho trí tuệ phát triển, đó là việc
chính của mỗi người. Chúng ta sống làm sao cho thật an ổn, không để bất
cứ chuyện gì làm trở ngại tâm Bồ-đề. Chuyện buồn vui, mắc míu, liên hệ
gì đó chúng ta phải tháo, chặt đứt, thì tâm chân thật mới hiện bày, gọi
là “Chân tâm vô niệm”. “Chân tâm vô niệm” thì không buồn vui, không lo
lắng, tất cả đều là Phật Pháp, đó là tâm thể, là Như Lai tự tánh, là chủ
nhân ông… Ngay đây mỗi người tự nhận và sống lấy.
Mục đích người tu là gì? Là phải tìm cho mình vốn sống và phát huy vốn
sống đó. Giả như trong cuộc sống hằng ngày đây, có một huynh đệ cố gắng
tu hành nhưng trong một ngày lại vướng phải vài lần khởi niệm hơi bực
bực. Lúc đó chúng ta phải làm sao? Không cần biết phải bực ai, vì sao
bực? Chúng ta chỉ cần sống trở về với cái thật của mình thì nỗi bực tức
sẽ bớt, đến một lúc nào đó tâm nhẹ nhàng, dường như không còn nỗi bực đó
nữa. Như vậy khi biết sống trở về với lẽ thật thì muộn phiền đã vơi, đã
đi xa, không còn dính dáng hay tiếp cận với chúng ta. Phát huy được sức
sống nội tại rồi hành giả có thể nói thiền hay viết những đoạn văn dài
miêu tả những sự kiện về niềm vui chân thật đó.
Như hồi xưa trên bàn Quá đường chúng ta thấy có người đi qua cầm khánh
hay chuông gì đó mình cảm thấy bực, nói làm cái chuyện cũ xì; bây giờ
cũng thấy vậy nhưng không còn thấy bực nữa, chúng ta vẫn yên lòng làm
chuyện của mình. Hòa thượng thường nói chúng ta thích làm cảnh sát quốc
tế, hay kiểm tra thiên hạ lắm, không chịu nhìn lại chính mình để sửa, mà
nhìn thiên hạ rồi phê phán lên án. Bây giờ nhận được chỗ sống rồi, phải
biết mình, đừng mắc míu chuyện bên ngoài. Một điểm này thôi chúng ta có
thể làm chủ cuộc đời và sống an lạc.
Ngay trong đống rác tìm thấy báu vật, ngay nơi thân ngũ uẩn nhận sống
trở lại bản tâm trong sáng của chính mình, chúng ta không nên tìm ở đâu
khác. Ngay nơi thân bệnh hoạn này, ngay nơi điều kiện còn quá nhiều cây
cảnh, đất đai sình lầy này chúng ta tìm được an lạc. Niết-bàn thật sự có
ở đây và ngay trong lòng mình. Phát huy được trí chân thật rồi thì có
thể nói hai mươi năm, ba mươi năm, đời này, đời khác, từ đây cho đến
ngày thành Phật thời gian không còn giới hạn. Trong tíc tắc chúng ta
nhận được điềm báo đặc biệt đó, không phải đợi hoa Linh Thoại một ngàn
năm sau mới nở mà ngay bây giờ một vị Phật đang có mặt ở đời. Đại chúng
có tin điều đó không? Nếu thật sự không cảm nhận được lẽ thật đó thì
việc làm hiện tại của chúng ta không có ý nghĩa gì.
Tại sao chúng ta ăn cơm phải ngồi ngay đơ cứng ngắc? Tại sao phải tụng
Bát-nhã hết thời này cho đến thời khác? Tam tạng kinh điển chất tủ này
đến tủ kia, mà sao cứ chọn Bát-nhã tụng hoài. Trời đất mênh mông, tại
sao đi không được ngó bên này bên kia mà phải nhìn thẳng? Tại sao? Tại
sao? v.v… Người tu có nhiều phi lý quá, nhưng đại chúng cứ yên lòng
sống. Đối với pháp môn đang tu tập cộng với điều kiện nhân duyên này,
chúng ta sẽ nhận ra được chính mình, sẽ có niềm tin trong công phu hành
thiền. Lúc 10 giờ 45 phút đánh kẻng thọ trai, chúng ta cứ đi thọ trai,
đừng hỏi tại sao phải đánh kẻng, tại sao phải thọ trai. Không có tại gì
hết. Những buổi chiều mát mẻ, năm ba huynh đệ đi lòng vòng ngắm chỗ này
ngó chỗ kia vui thích, mắc mớ gì tới 6 giờ phải đánh chuông đánh bảng đi
tụng sám hối? Phải chi tụng kinh gì mới, ba bốn tháng nay cứ tụng đi
tụng lại “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, bấy nhiêu đó làm hoài? Thật sự
có khi chúng ta thấy bức xúc chứ. Nhưng đến một lúc nào đó… “À!” Không
có gì bức xúc cả, tụng thì cứ tụng. Hương đăng chịu trách nhiệm đánh
kẻng thì cứ đánh, đúng 6 giờ mới đánh nha, cô đừng có đánh trước mà cũng
đừng có đánh sau 6 giờ để bị rầy. Một khi chúng ta thấy được ý nghĩa vô
cùng giản dị này thì làm việc gì cũng có ý nghĩa. Ăn cơm, học hành, đi
lại, mọi thứ đều có ý nghĩa. Ngược lại, chúng ta thấy sao nó phi lý vô
nghĩa quá, tụng hoài chỉ có bấy nhiêu đó thì ma mị vọng tưởng dẫn mình
đi không biết đến đâu.
Ở đây nói “Tâm vô yểm túc”, yểm túc là gì? Yểm là chán, túc là đủ. Không
bao giờ biết chán, không bao giờ biết đủ. Trong đời sống này nếu không
có Phật pháp, không gặp bậc thầy sáng thì chúng ta cứ lao ra, chạy theo,
dính vào các trần cảnh. Các bậc đại nhân nói chính những vọng động nó
dắt chúng ta vào thế đồ, vào luân hồi sinh tử. Chúng ta may mắn gặp được
Phật pháp, hữu duyên nhận và sống được “quá an ổn”. Nhưng chúng ta đừng
la lên tôi quá an ổn, la lên người ta nói mình điên đó. Quá an ổn, quá
khỏe, sung sướng rồi nhưng đừng nói gì hết. Cô hương đăng cứ làm hương
đăng, cô làm rẫy tưới cây thì cứ làm rẫy tưới cây. Quê hương này quá yên
ổn, sinh hoạt tu học nơi đây quá vui, chứ không phải quá buồn.
Qua điều giác ngộ thứ ba của bậc đại nhân mở cho chúng ta hướng tiến là
quay về nhận lại trí tuệ bản hữu của chính mình. Vất bỏ hết những gì mà
lâu nay chúng ta ôm đồm, toan tính thì sẽ được giác ngộ. Giác ngộ thì
trí tuệ sẽ tăng trưởng. Mong rằng đại chúng trí tuệ lúc nào cũng tăng
trưởng, lúc nào trên gương mặt cũng rạng ngời niềm vui. Đây là những đứa
con gái lành, con trai lành của đức Phật đã không còn bị lầm chạy ra
bên ngoài nữa, nhận và sống được với tâm thể của mình, trí tuệ luôn tròn
đầy. Thời gian viên mãn không cần phải nói, không hai mươi năm, ba mươi
năm gì hết, mà ngay đây bây giờ tức thì viên mãn.
Đó là hạnh nguyện phát tâm cầu đạo, hành đạo và cũng là chỗ viên thành
Phật đạo của chúng ta. Tam bảo gia hộ nhất định tất cả chúng ta sẽ thực
hiện tâm nguyện của mình thành công viên mãn.
Thích Nhật Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét