Tính dục tự nó không có gì để chê trách, chính tâm thức mới là những gì phải lên án khi nó bị lạc thú làm mù quáng... |
Tính dục là một thể dạng trao đổi giữa
hai con người mang lại cơ hội thuận lợi giúp cho họ đón nhận nhau, chỉ
khi nào có sự chiếm hữu, thèm khát quá đáng và ham muốn thỏa mãn xen vào
thì khi đó tính dục mới trở thành ích kỷ và làm phát sinh ra khổ đau.
Đấy là thông điệp chính yếu của Phật giáo.
Phật giáo không áp đặt một quy luật
nào cho xã hội con người, không hề làm luật cũng không thiết đặt một nền
luân lý mang tính cách tập thể nào cả. Phật giáo hướng vào cá nhân con
người, khuyên con người nên chọn cho mình cách sống như thế nào và cách
tu tập ra sao để diệt trừ khổ đau và tự giải thoát khỏi những trói buộc
của sự hiện hữu. Vì thế những lời giáo huấn của Đức Phật (thế kỷ thứ V
trước Giê-su) có nói đến tính dục, đấy là những lời khuyên bảo mang tính
cách cá nhân, tuyệt nhiên không phải những phán lệnh áp đặt cho
toàn thể xã hội con người.
Theo giáo lý của Phật giáo cổ truyền
(nguyên thủy), tính dục cũng như tất cả những gì liên hệ đến thân xác và
lạc thú phát sinh từ giác cảm đều được nhìn dưới khía cạnh của sự thèm
khát và bám víu phát sinh từ sự ham muốn, khổ đau sẽ phát sinh từ những
thứ xúc cảm ấy không tránh khỏi được. Tính dục thường được nêu lên như
là một mối nguy hiểm hoặc như mặt đất trơn trợt xô con người rơi vào sự
đày đọa của dục vọng và khổ đau.
Quy luật vô thường
Đức Phật nêu lên khái niệm về Bốn Sự
thật Cao quý (Tứ Diệu Đế) làm nền tảng cho giáo lý của Ngài, giáo lý đó
nhấn mạnh trước hết đến bản chất của khổ đau bàng bạc khắp nơi và không
thể nào tránh khỏi (sự thật thứ nhất). Sau đó Ngài giải thích nguồn gốc
làm phát sinh ra khổ đau (sự thật thứ hai), đấy là sự thèm khát, trong
đó có sự ham muốn quá độ các lạc thú tính dục, mong muốn tìm được mãi
những lạc thú ấy, kể cả sự ham muốn tìm thấy sự hủydiệt và sự
phi-hiện-hữu [tức mong muốn loại bỏ những gì mình không thích và những
gì tệhại có thể xảy ra]. Tại sao Phật giáo lại kết án sự thèm khát? Vì
Phật giáo xem đó là sản phẩm của vô minh - có nghĩa là không hiểu mình
và bản chất của sự hiện hữu của chính mình là gì. Tác động của vô minh
mang lại một thứ cảm tính về một "cái ngã" tự tại, cảm tính đó được
củng cố vững chắc thêm dựa vào các kỷ niệm, thói quen, những thứ tình
cảm quen thuộc thường xảy ra trong tâm thức và nhất là sự bám víu vào
thân xác của mình. Thế nhưng tất cả
những thứ ấy thật phù du, vì thế để
cưỡng lại sự phù du ấy ta càng tìm cách củng cố thêm cảm tính về "cái
tôi" trường tồn bằng cách gia tăng thêm các cảm nhận lạc thú và luôn
phóng nhìn vào tương lai. Tiếc thay cách kéo dài và bảo vệ "cái tôi" ấy
chỉ hoài công, bởi vì không thểnào tránh né được quy luật của vô thường.
Già nua, bệnh tật và cái chết cho thấy vô thường lúc nào cũng hiển
nhiên ra đó.
Tính dục liên hệ trực tiếp đến sự cảm
nhận của thân xác. Thế nhưng thân xác lại là sản phẩm phát sinh từ
nghiệp trong quá khứ, tức là hậu quả phát sinh từ các hành động của
mình từ trước. Thân xác thường được ví như một cỗ xe quý giá, một phương
tiện đưa đến giác ngộ, thế nhưng thân xác cũng được mô tả như một gánh
nặng hay nguyên nhân làm phát sinh dâm dục và mọi thứ lo lắng khác, cản
trở đời sống tâm linh của chính mình. Vậy hai cách hình dung ấy có mâu
thuẫn với nhau hay không? Hoàn toàn không! Bởi vì mọi khó khăn đều
phát sinh từ sự bám víu do chính mình tạo ra cho thân xác nhưng tuyệt
nhiên không phải thân xác tự tạo ra những khó khăn ấy cho nó. Thân xác
nhờ có ngũ giác nhận biết được sự tiếp xúc phát sinh từ sự cảm nhận,
dù đấy là sự cảm nhận thích thú, khó chịu hay trung hòa, vì thế tự nó
thân xác chỉ đơn giản là một cửa ngõ tiếp nhận các thứ giác cảm. Trong
số đó giác cảm tính dục là một trong những thứ giác cảm thích thú nhất
mà thân xác có thể mang lại cho ta.
Sự kiện cảm nhận thích thú không có gì
tệ hại cả..., nếu như sự cảm nhận ấy không gây ra bám víu và thèm
khát quá đáng: tức muốn được thích thú nhiều hơn nữa. Vì thế mọi thứ
khó khăn xảy ra là do phản ứng của ta đối với sự thích thú, nhưng tuyệt
nhiên không phải do chính sự thích thú, tóm lại sự thèm khát thích thú
và muốn tiếp tục được cảm nhận sự thích thú mới chính là nguyên nhân của
khổ đau. Sự thèm khát và ham muốn đó làm phát sinh một loạt đủ mọi thứ
dục vọng - chiếm giữ, ghen tuông, tức giận, oán hờn - chúng thay nhau
hành hạ ta và khiến ta bị mù quáng. Đấy là các thứ dục vọng gây ra tội
lỗi. Thế nhưng tội lỗi phát sinh từ đâu? Từ trong tâm thức của chính
mình.
Điểm then chốt trong giáo lý Phật giáo
là thân xác gánh chịu sự kiểm soát của tâm thức. Thân xác và lạc thú
tính dục không giữ một vai trò chủ động nào cả. Chính sự bám víu của tâm
thức là nguyên nhân làm bùng lên đủ mọi thứ dục vọng, và dục vọng là
nguyên nhân của khổ đau. Sự thèm khát là động cơ chủ yếu tạo ra các
phản ứng trong tâm thức. Dù cho chữ "ham muốn" (thèm khát, khát vọng,
ước mong: désir - desire) trong ngôn ngữ Tây phương phản ảnh khá trung
thực ý nghĩa của chữ Phạn "râga", thế nhưng cũng cần phải hiểu đối với
Phật giáo chữ "râga" (ham muốn, thèm khát) không hề mang sắc thái tích
cực nhưtrường hợp của chữ "ham muốn" (désir - desire) trong ngôn ngữ Tây
phương. Kinh sách định nghĩa chữ "râga" như sau: " Đấy là sự
ham-muốn-bám-víu, có nghĩa vừa là sự bám-víu cực mạnh vào sự hiện hữu
và các vật thể chiếm hữu khác vừa là sự thèm-muốn do tất cả các thứấy
tạo ra. Tác động của nó làm phát sinh mọi thứ khổ đau". Cách định nghĩa
trên đây cho thấy tính cách cảnh giác khía cạnh tiêu cực trong ý nghĩa
của chữ ham-muốn. Thế nhưng trong tư tưởng Tây phương, ham-muốn (désir -
desire) được hiểu như một trạng thái căng thẳng thúc đẩy con người
hành động, trạng thái ấy trên một khía cạnh nào đó có thể mang lại sự
sáng tạo và những phẩm tính thượng thặng, chẳng hạn như sự "mong-muốn
của Trời" hay của người nghệ sĩ khi sáng tạo, nhưng đồng thời ham-muốn
(désir - desire) cũng có nghĩa là một động lực xô ta vào khổ đau của dục
vọng. Vì thế ý nghĩa của chữ ham-muốn trong ngôn ngữ Tây phương không
được minh bạch, thí dụ như "ham muốn tình yêu" có thể hiểu như một sự
khích lệ, dù rằng hậu quả do sự ham-muốn đó mang lại lắm khi chỉ là sự
tàn phá. Giáo lý Phật giáo luôn chú trọng đến phương pháp phân tích và
cho rằng ham-muốn-bám-víu chỉ là một thứ nọc độc của tâm thức, tuy nhiên
Phật giáo rất cẩn thận và cũng nghĩ đến một trường hợp khác
là ham-muốn-khát-vọng tức là một yếu tố tâm thần tương tợ với ý nghĩa
ham-muốn-thúc-đẩy của người Tây phương.
Tính dục tự nó không có gì để chê
trách, chính tâm thức mới là những gì phải lên án khi nó bị lạc thú làm
mù quáng và biến nó thành một mảnh đất thuận lợi giúp các thứ nọc
độc tâm thần phát sinh. Tính dục là một thể dạng trao đổi giữa hai con
người mang lại cơ hội thuận lợi giúp cho họ đón nhận nhau, chỉ khi nào
có sự chiếm hữu, thèm khát quá đáng và ham muốn thỏa mãn xen vào thì khi
đó tính dục mới trở thành ích kỷ và làm phát sinh ra khổ đau. Đấy là
thông điệp chính yếu của Phật giáo. Phật giáo không quan tâm đến việc
nối dõi tông đường hay hôn phối vì đấy chỉ là các thể dạng trói buộc
trong cuộc sống, các mối tương giao giữa con người và sự khống chế của
sinh lý.
Dưới nhãn quan Phật giáo, hôn nhân
không mang tính cách thiêng liêng, không cần đến các lễ nghi ban phép
lành. Giáo lý nhà Phật chỉ đòi hỏi phải có sự tương kính, hy sinh cho
4 nhau và tránh mọi hung bạo. Phật giáo không hề xem thân xác và thế
giới này là những gì xấu xa, Đức Phật chủ trương con đường trung đạo bác
bỏ mọi hình thức khổ hạnh và hành xác có nghĩa là giữ đúng vị thế giữa
hai thái cực, một bên là đời sống thế tục một bên là sự khắc
nghiệt của khổ hạnh, sự khắc nghiệt ấy
chỉ đày đọa thêm cho thân xác nhưng không mang lại một sự giải thoát
nào. Ý thức được bổn phận của mình tức là cách giữ gìn đạo đức tính
dục, hôn nhân không phải là một sự chiếm đoạt. Đối với những người chưa
thấu triệt đạo lý, đời sống tính dục sẽ biến thành động cơ chính yếu
thúc đẩy sự vận hành của khổ đau trong chu kỳ hiện hữu (thế giới ta-bà),
đấy là điều mà Phật giáo chủ trương phải ra thoát. Dựa trên quan điểm
đó người Phật giáo tại gia phải biết kính trọng mình và người khác và
người tu hành khi đã xa lánh cuộc sống thế tục phải tuyệt đối tránh các
hành vi tính dục.
Thế nhưng Phật giáo Đại thừa có vẻ cởi
mở hơn so với sự khắt khe của Phật giáo Nguyên thủy (Nam tông).
Trong học phái Tan-tra thừa, tính dục được chuyển thành một hình thức
tập luyện Du-già và được xem như một phương pháp mang lại Giác ngộ. Nói
chung Phật giáo giữ một thái độ rất phóng khoáng đối với vấn đề tính
dục.
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét