Trước không, sau không, khoảng giữa
cũng không, cái không trùm hết, cái có chỉ là giả tướng tạm bợ. Với con
mắt thường thấy giả tướng lầm cho là thật, còn cái không lại không biết
gì hết. Nếu bảo cái không là thật, cái có là giả thì thiên hạ nói mình
điên. Nên chỗ đó rất khó nói vậy!
Thiền viện chúng ta trong tất cả thời
như sám hối, ăn cơm, tọa thiền, xả thiền đều tụng Bát-nhã. Tóm lại, chỉ
có bài kinh Bát-nhã là chúng ta tụng niệm thường nhất, ngoài ra ít có
bài kinh nào khác. Người ta đặt câu hỏi, tại sao ở Thiền viện ít kinh
quá, chỉ có bài kinh Bát-nhã thôi, quí vị nghĩ sao? Chính chỗ đó, nếu
chư Tăng không hiểu, không nắm vững thì cũng hơi ngờ về chủ trương của
mình.
Trong nhà thiền thường nói: “Ai muốn
vào nhà Thiền thì phải đi từ cửa không.” Cửa không là cửa vào nhà Thiền,
cho nên nói tới thiền là nói tới cửa không.
Như vậy chữ “không” của nhà Thiền là
không gì? Đó là “không” của Bát-nhã. Bát-nhã là cánh cửa để chúng ta đi
vào nhà thiền. Nếu chúng ta không từ cánh cửa Bát-nhã mà vào thì chắc
chắn không vào được. Đó là chỗ thiết yếu. Nếu người tu thiền không nắm
vững, không hiểu được lý Bát-nhã thì khó tiến được tới chỗ cứu kính của
người tu thiền, nhất là Thiền tông.
Tôi đã từng giảng bài kinh Bát-nhã cho
Tăng Ni nghe nhiều lần. Song hôm nay nhận thấy những điểm thiết yếu
trong bài kinh Bát-nhã, nên tôi tóm tắt trình bày với quí vị về yếu lý
Bát-nhã để tất cả biết ứng dụng trong đời tu của mình. Lý Bát-nhã cao
siêu sâu sắc như thế nào? Đó là một vấn đề chúng ta phăng lần từ từ sẽ
thấy.
Hiện giờ, quí vị đang thấy cái bàn
trước mắt tôi và khoảng trống bên cạnh cái bàn. Tôi xin hỏi cái bàn hiện
có đây là thật, hay khoảng trống hiện có đây là thật? Người thế gian
chỉ nhìn thấy cái bàn hiện có trước mắt, sờ mó được là thật. Còn hư
không trống rỗng, sờ mó không được nên nói không thật. Nếu cái bàn hiện
có mà ta nói cái bàn giả, hư không trống rỗng không sờ mó được ta nói
thật, họ sẽ bảo mình điên. Cái không có gì hết mà nói thật, còn cái sờ
sờ trước mắt, sờ mó được, sử dụng được lại nói giả là sao? Đây là những
vấn đề người tu Phật phải hiểu cho tường tận, nếu không thế gian sẽ cho
rằng chúng ta hoang tưởng hoặc điên. Điều này hết sức khó đối với chúng
ta.
Bây giờ đặt câu hỏi lại, cái bàn này
có là do duyên hợp hay tự có? Ai cũng nhận là duyên hợp. Từ duyên hợp mà
thành nên thiếu duyên thì tan hoại. Như vậy đứng về mặt nhân duyên mà
nói thì cái bàn có tướng, có hình dáng chúng ta thấy, sờ mó được nhưng
nó có trong duyên hợp hư giả. Còn khoảng trống không do cái gì hợp?
Khoảng không là trống rỗng, không có duyên hợp. Cái duyên hợp thì thành
rồi hoại, sanh rồi diệt. Cái không duyên hợp thì không thành, không
hoại, không sanh, không diệt. Cho nên Bát-nhã có câu: “thị chư pháp
không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh…’’, nghĩa là tướng
không của các pháp không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch… Do
không sanh, không diệt nên nó còn hoài, trước sau không bao giờ đổi
thay. Còn sanh diệt là cái tạm, có rồi hoại mất.
Hồi xưa khi đọc tới câu “chư pháp
không tướng”, tôi hơi ngại chữ “tướng”. Bởi vì “tánh không” thì dễ hiểu,
còn nói “tướng không” thì hơi khó hiểu. Nhưng thật ra không có gì lạ.
Cái bàn có tướng vì có hình thức, còn hư không không tướng nên nói là
tướng không. Có là tướng thì không cũng là tướng. Cái bàn có tướng cái
bàn, hư không có tướng hư không. Tướng không ấy không sanh, không diệt,
không nhơ, không sạch. Tướng có thuộc về sanh diệt giả dối tạm bợ.
Nhưng ở thế gian hiện giờ, muôn người
như một chỉ nhìn cái có mà bỏ cái không. Song họ đâu biết rằng tất cả
cái có đều tựa trên cái không, kể cả quả địa cầu này. Có cái có nào mà
không ở trong cái không đâu? Cái có là duyên hợp mà có, cho nên sanh rồi
diệt liên miên. Còn cái không bao bọc tất cả đó, có sanh có diệt không?
- Không. Chúng ta tu mà không rõ, không thấu triệt được lý Bát-nhã nên
không hiểu gì hết. Bát-nhã là chỉ thẳng cho Thể tánh không của muôn
pháp, muôn sự vật. Đã là Thể tánh thì không cái nào rời nó được.
Như cái nhà chúng ta đang ở, nó thành
hình cái nhà nhờ khoảng không, nếu có cái gì trong đây thì không cất
được cái nhà. Được cái nhà rồi, mà trong này bít hết thì dùng được
không? Vô dụng. Thành ra từ cái không mà thành cái nhà. Cái nhà có rồi,
trong cái nhà cũng phải trống không mới sử dụng được. Hình cái nhà là
sắc, khoảng không trong cái nhà là không, vậy “sắc tức là không”. Từ đất
trống dựng nên cái nhà nên “không tức là sắc”. Sắc không, không rời
nhau. Ngoài không, không có sắc, chính trong sắc đó là không, vì có cái
không trong ấy. Cho nên “sắc tức thị không, không tức thị sắc”, nói đi
nói lại nghe rất khó hiểu. Chính cái khó hiểu đó nói lên lẽ thật.
Cái nhà, bao bọc xung quanh là sắc,
trong ruột trống không. Khi cái nhà chưa có là khoảng đất trống, từ đất
trống đó mới xây dựng được. Như vậy trước khi xây dựng nó là không, nên
gọi là Tánh không. Tánh là cái sẵn. Khi xây dựng rồi, trong nhà có những
khoảng trống để sử dụng, đây cũng là không. Ngay trong nhà, có các vật
dụng có hình tướng và những chỗ trống không hình tướng. Rõ ràng ngay
trong cái có, có cái không sẵn. Cái không đối với cái có gọi là tướng
không. Tánh không, tướng không ở sẵn trong tất cả mọi sự vật.
Nói đến con người chúng ta, nếu lỗ mũi
không trống thì chắc không thở được. Lỗ mũi trống rỗng mới hít thở
được, lỗ tai trống mới nghe được, miệng trống mới ăn cơm được. Vậy trong
con người có cái không không? Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Cho
nên không tách rời ra được. Như vậy cái không không rời cái có, cái có
cũng không rời cái không. Song cái có thuộc về sanh diệt, còn cái không
thì không sanh diệt. Đáng tiếc chúng ta chỉ biết cái có, bảo vệ gìn giữ
nó tức là bảo vệ gìn giữ cái sanh diệt. Còn cái không không sanh diệt
thì không biết gì hết. Vì vậy Phật gọi chúng sanh sống trong mê lầm.
Hỏi thân người thật hay giả thì trăm
người nói thật. Có phải thật không? Nếu thật thì không chết, mà chết thì
không thật. Nhưng trăm người đều nói thật. Cái giả mà ngỡ là thật, có
phải mê lầm chăng? Từ cái nhà, con người, cho tới muôn vật giữa cuộc đời
này, những gì có tướng đều là duyên hợp, mà duyên hợp đều hư giả. Lẽ
thật là như vậy. Người thấy được như vậy là thấy bằng trí tuệ. Trí tuệ
cứu kính cùng tột, không gì có thể so sánh nổi.
Con người thì ngũ uẩn đều không, sự
vật tứ đại cũng không. Thế nên biết không vật nào trên thế gian có hình
có tướng mà chẳng phải Tánh không. Từ cái không có sẵn dựng thành có, đó
là Tánh không. Có vật nào, trong ruột nó không trống không? Như cái cây
có những khoảng hở trống mới hút nước lên được, không có thì làm sao
hút nước? Cái gì cũng có khoảng hở trống, nằm sẵn bên trong và bao phủ
bên ngoài. Muôn sự muôn vật trước không, rồi sau hoại cũng thành không.
Như vậy cái không là nguồn gốc của muôn pháp.
Dùng Trí tuệ Bát-nhã nhìn tường tận
các pháp, tự tánh nó là không, duyên hợp giả có, hết duyên nó hoại trở
thành không. Trước không, sau không, khoảng giữa cũng không, cái không
trùm hết, cái có chỉ là giả tướng tạm bợ. Với con mắt thường thấy giả
tướng lầm cho là thật, còn cái không lại không biết gì hết. Nếu bảo cái
không là thật, cái có là giả thì thiên hạ nói mình điên. Nên chỗ đó rất
khó nói vậy!
Nếu biết thân giả dối thì những thứ
chung quanh như được mất, hơn thua, phải quấy có giá trị không? Gốc đã
không thật thì mọi thứ chung quanh làm sao thật được. Vậy mà ai nói hơn
một tiếng mình cãi ầm lên, mới thấy chúng ta tu trong cái mê lầm. Bởi tu
trong mê lầm nên than tu khó quá, cứ gặp chướng này, chướng nọ. Do vậy
Phật mới dạy “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, chỉ
cần thấy thân năm uẩn này không thật thì khổ ách nào cũng qua hết. Câu
nói đó là một chân lý, chúng ta tụng thì tụng mà không thấy được chân
lý.
Bởi thấy thân này thật nên cái gì được
mình vui, cái gì mất mình buồn, cái gì thịnh mình thích, cái gì suy
mình không thích. Quả thật chúng ta đang bị quay cuồng trong cái giả dối
đó. Thí dụ một thầy ở Trúc Lâm ra chợ, người ta xầm xì ông thầy xấu
quá, về buồn không? Rồi cũng thầy ở đây ra chợ, người ta khen đẹp quá,
về vui không? Tướng đẹp, tướng xấu là tướng hư giả, khen chê là trò
chơi, không có giá trị gì hết mà chúng ta lại lệ thuộc vào nó nên khó
tu. Bây giờ biết rõ lẽ thật như vậy, việc tu dễ hay khó? Nên biết việc
tu hành không vững chắc gốc từ si mê mà ra. Nếu chúng ta không dẹp,
không dứt bỏ được thì rất khó tu. Huynh đệ xử sự nhau gặp vui buồn gì
đó, liền thối Bồ-đề tâm.
Đối với con mắt Trí tuệ Bát-nhã, tất
cả mọi thứ trên thế gian đều là trò chơi, chúng không có giá trị gì.
Thấy cho tột cùng thì sự sống chỉ là tạm bợ, không bảo đảm tới đâu hết,
ngày nào còn mừng ngày đó. Nó giả dối như vậy mà mình không biết, cứ ngỡ
nó quí, nó đẹp, nó sang trọng đủ thứ. Từ mê lầm về thân rồi mê lầm luôn
tất cả những thứ chung quanh thân. Như vậy cả một cuộc đời mê lầm. Tuy
hình thức xuất gia mà nội tâm không hơn gì người thế tục. Nên nhớ chúng
ta đi tu là để thức tỉnh, để giác ngộ chớ không phải để mê lầm. Cho nên
người xuất gia phải tỉnh, không được mê lầm như người thế tục. Đã xuất
gia rồi mà vẫn tiếp tục mê lầm thì đời tu sẽ đi về đâu? Chắc là vào cửa
sanh tử, mất nơi này tiếp tục chui vào nơi khác, không biết bao giờ ra
khỏi dòng sanh tử?
Trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ tột cùng
thấy đúng lẽ thật, nhưng chúng ta ít khi nào nhìn đúng với Trí tuệ
Bát-nhã. Nếu không có Trí tuệ Bát-nhã thì chưa bước vào được ngưỡng cửa
nhà Thiền. Quí vị nhớ! Ví dụ người nói mình tu thiền, mà thấy cô gái đẹp
mỉm cười với mình thì vướng mắc liền; hoặc ai sỉ nhục, mình thấy đau
khổ quá liền thối tâm, đó là người chưa thông, chưa thấu suốt được Trí
tuệ Bát-nhã. Cho nên chúng ta tu phải tận dụng Trí tuệ Bát-nhã cho tới
cùng tột, chớ không được thấy hay nghe ở ngoài tai thôi. Phải đi sâu,
phải thấu suốt được trí tuệ chân thật, vì chỉ có trí tuệ đó mới có thể
đưa chúng ta tới chỗ giác ngộ viên mãn. Cho nên trong kinh Bát-nhã, Phật
nói “tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề”, nghĩa là ba đời chư Phật đều y cứ Trí tuệ Bát-nhã
này mà được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Chúng ta tu nếu không sử dụng Trí tuệ
Bát-nhã sẽ gặp rất nhiều thứ chướng ở trong cũng như chướng ở ngoài.
Chướng ở trong là thân bệnh hoạn sanh chướng. Do thấy thân thật nên bệnh
hoạn ta buồn khổ. Chướng ở ngoài là gặp nghịch cảnh hoặc ai xử sự với
mình không tốt thì sanh chướng. Khi ta tu thấy tướng lạ, có người bảo đó
là ma quỉ phá mình cũng chướng. Nếu tận dụng trí Bát-nhã thì thấy thân
không thật, những gì có tướng đều không thật. Tất cả đã không thật thì
có gì phá chúng ta được đâu. Thấy chúng chỉ cười chơi thôi, vì biết rõ
nó giả dối.
Thân đau đến chết là cùng chớ có gì
quan trọng, nó là không mà. Đã là không thì thêm cũng chỉ thêm một ít
thời gian cho cái không đó thôi, chớ có gì quan trọng. Ngược lại, nếu
thấy thân thật, vừa động tới nó là thấy quan trọng liền. Đang tu mà bị
bệnh hoặc bên ngoài phá phách thì thối Bồ-đề tâm, tu không được. Nhất là
những vị nỗ lực, cố gắng tu cho thành công, càng nỗ lực càng thấy
chướng. Tại sao? Vì cố gắng quá sức mà theo không kịp với chí nguyện của
mình, rồi ngã bệnh, sanh ra cái này cái nọ, phát hoảng lên. Đó là sai
lầm. Cho nên thấy thân không thật thì tất cả đều không thật. Mọi thứ đã
không thật, mình sợ là sợ cái gì? Hiểu như vậy, thấy như vậy thì việc tu
không chướng, nhờ không chướng nên tu mới tới nơi tới chốn. Người thấu
triệt được lý Bát-nhã thì cười hoài. Có gì đâu, mình đã là không thật,
thì mọi thứ đối với mình cũng toàn không thật, đùa chơi cho vui thôi. Vì
vậy đi tới đi lui cười hoài, không thèm kềm giữ gì hết.
Sở dĩ chúng ta sợ cảnh bên ngoài, âm
thanh bên ngoài là vì thấy cảnh thật, âm thanh thật. Bây giờ thấy cảnh
giả dối, âm thanh giả dối, qua rồi mất thì không còn chướng nữa. Việc tu
không bị chướng nhờ trí tuệ vững, thấy được lẽ thật. Ngược lại, tu mà
sanh đủ thứ bệnh tật, đủ thứ sợ sệt là vì còn thấy thân thật, còn đam
mê. Thấy thân thật thì mọi cảnh đều thật hết. Một chùm mê kéo theo nhau,
dĩ nhiên phải sanh chuyện này, chuyện nọ.
Cho nên chủ yếu là chúng ta phải tận
dụng Trí tuệ Bát-nhã. Tận dụng không có nghĩa là tụng hết bài Bát-nhã,
mà phải ứng dụng lý Bát-nhã vào cuộc sống, vào sự tu. Lúc nào mình cũng
nhìn mọi vật chung quanh bằng Trí tuệ Bát-nhã, nhất định không có cái gì
phá phách, dụ dỗ ta được. Còn nếu chúng ta dùng con mắt phàm tục, mê
lầm tức nhiên việc tu gặp khó khăn. Đó là chỗ rất thiết yếu. Vì vậy
người muốn vào cửa Thiền phải đi bằng Trí tuệ Bát-nhã, nhất định không
nghi ngờ gì cả. Dù ai ngồi thiền có hào quang, muốn bay lên hư không
cũng được, nhưng không có Trí tuệ Bát-nhã thì vẫn bị kẹt như thường. Cho
nên dùng Trí tuệ Bát-nhã vào việc tu thì tất cả đều bình thường, an ổn.
Trong Bát-nhã nói năm uẩn, sáu trần
cho tới Mười hai nhân duyên, Tứ đế cũng không thật. Nghe như vậy hiểu
sao được? Thân này không thật là phải, còn chánh pháp của Phật cũng
không thật nữa sao? Phật nói thế nghĩa là tất cả các pháp đều là phương
tiện giả lập để chỉ dạy, hướng dẫn chúng ta tu tập nên cũng không thật.
Như mê thì dùng từ giác để đánh thức, nếu hết mê rồi giác cũng phải bỏ
đi. Tất cả vì chúng sanh mê lầm nên Phật mới dùng pháp Tứ đế, Mười hai
nhân duyên, Lục độ… để giáo hóa. Nếu tất cả chúng ta không còn mê lầm
thì những pháp ấy đâu cần dùng nữa. Nhiều người đọc kinh Bát-nhã ngạc
nhiên, nói ngũ uẩn không thì phải, còn pháp của Phật là chân lý, tại sao
cũng nói không? Phật nói thế để chúng ta biết tất cả pháp Ngài lập nên
nhằm diệt trừ sự si mê của chúng sanh, tất cả đều là pháp đối đãi nên
không thật. Như mê thì lấy giác đánh thức, tham thì lấy bố thí, nóng
giận thì lấy từ bi… để trị. Khi bệnh lành thì pháp cũng phải bỏ, chỉ tạm
dùng để đối trị thôi, chớ không có pháp thật. Thấy tột như vậy mới
không chấp ngã, chấp pháp.
Đa số người tu bây giờ không chấp ngã
thì chấp pháp. Pháp mình tu là số một, pháp kia là số hai, số ba. Đôi
khi vì pháp tu mà mạt sát lẫn nhau. Đâu biết pháp là phương tiện để giúp
chúng ta đi tới cứu kính, chớ pháp không phải để so sánh hơn thua.
Chúng ta tu phải thấy tột cùng lẽ thật mới không còn chấp, không còn
khổ. Có cái gì thật đâu mà khổ? Giả sử ai đó nổi giận chửi mình, ta biết
rõ mình không thật thì lời chửi cũng không thật, có gì khổ? Đằng này,
nếu thấy mình thật, lời chửi thật, bị người ta chửi liền xách gói đi. Đó
là chướng. Chướng vì thấy mình thật, thấy lời chửi thật. Thế là mê. Tại
mê nên chướng, hết mê thì hết chướng. Phật dạy “chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thiết khổ ách” là vậy. Qua tất cả khổ ách vì mình không
còn thấy có một pháp thật. Như vậy trí tuệ là con đường đưa chúng ta tới
giác ngộ. Nếu không có trí tuệ, không bao giờ được giác ngộ.
Nếu nói cái gì cũng không hết, vậy tu
rồi chúng ta còn gì? Đó là một vấn đề. Trong Thiền sử ghi, ngày xưa có
một cư sĩ đến hỏi Thiền sư:
- Bạch Hòa thượng, Ngài được bao nhiêu tuổi?
Thiền sư trả lời:
- Tôi bằng tuổi với hư không.
Cư sĩ hỏi:
- Hư không bao nhiêu tuổi?
Thiền sư trả lời:
- Hư không bằng tuổi với tôi.
Quí vị nghĩ sao? Hòa thượng có lẫn
chưa? Ngài đã trả lời để thấy rằng hư không bất sanh bất diệt, cái gì
bất sanh bất diệt thì nó là thật. Ngài thấy được Thể chân thật của mình
rồi thì bất sanh bất diệt, nên nói đồng tuổi với hư không.
Để đi thẳng vào chỗ tu hành, tôi nhắc
lại ngoài thân và tâm sanh diệt, chúng ta còn gì nữa không? Ngay thân
này ai cũng biết là thân sanh diệt, còn tâm suy nghĩ hơn thua, phải
quấy, tốt xấu là tâm sanh diệt. Hiện giờ mình đang sống với thân và tâm
sanh diệt, nên hướng đi của chúng ta là con đường sanh tử liên tục. Vì
tâm sanh diệt luôn luôn tạo nghiệp sanh diệt. Bây giờ muốn ra khỏi sanh
tử, thì đừng chấp thân sanh diệt là quan trọng, tức thấy thân tứ đại
không thật. Đừng chấp tâm sanh diệt là quan trọng, tức bốn uẩn thọ,
tưởng, hành, thức không thật. Không kẹt nơi hai thứ chấp ấy, chúng ta
mới qua khỏi mé sanh tử.
Như vậy ngoài thân tâm sanh diệt này,
chúng ta còn cái gì nữa? Nó ở đâu, chỉ được không? Được chớ, cái thật đó
ở ngay nơi sáu căn. Mắt đối cảnh liền thấy, nếu chúng ta thấy mà không
khởi niệm nào, đó là cái thấy của mình. Nếu có niệm tiếp theo thì cái
thấy ban đầu mất đi. Lỗ tai nghe tiếng chỉ nghe thôi, đừng khởi niệm nào
tiếp theo thì cái nghe đó là thật mình. Rồi ngửi, nếm… sáu căn không
thiếu vắng lúc nào hết, nhưng vừa tiếp xúc với sáu trần liền khởi động
niệm thì cái thật nhảy qua mất, do đó chúng ta không sống được với cái
thật.
Quí vị xét thật kỹ những giờ phút
chúng ta ngồi thiền được năm mười phút không có niệm nào chen vào mà vẫn
tỉnh sáng, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe… thì năm mười phút đó mình sống
với cái gì? Cái đó sẵn rồi, khi không có niệm sanh diệt lấn át, phủ che
thì cái thật ấy hiện tiền. Như vậy cái biết trong khi mình nhìn thấy sự
vật mà không có niệm nào, đó là cái biết thật. Nếu có niệm dấy theo thì
sanh ra phê phán xấu, đẹp… tức rơi vào sanh diệt rồi. Nên nhớ cái chân
thật bị phủ lấp bởi những niệm sanh diệt. Cho nên chúng ta tu là dẹp bỏ
các niệm sanh diệt phủ lấp. Ngồi thiền cứ ngồi yên tĩnh sáng suốt, vừa
có niệm dấy lên liền bỏ, đó là dẹp cái phủ lấp. Khi thấy cảnh cứ thấy
thôi, vừa dấy niệm liền bỏ, đó là dẹp bỏ cái phủ lấp. Dẹp hết cái phủ
lấp sanh diệt, thì cái chân thật bất sanh bất diệt hiện bày.
Trong quá trình tu tập, chúng ta nên
nhận ra mình có hai thứ tâm: tâm sanh diệt và tâm không sanh diệt. Tâm
sanh diệt là vọng, tâm không sanh diệt là chân. Tâm là cái biết. Thấy
biết là tâm chân, nghe biết là tâm chân, nhưng nếu thêm cái suy nghĩ vào
thì qua tâm sanh diệt mất. Hiện giờ chúng ta đang có cái thật, nó hiện
hữu mà không động, không bóng dáng, không sanh diệt. Cái không động
không sanh diệt, có giống hư không chăng? Như hư không, vì hư không
không tướng mạo, không sanh diệt, hư không không động nên không sanh
diệt. Vì vậy không có thời gian nào để nói tới ngày cùng của hư không.
Chúng ta sống được với cái chân thật thì cũng không thời gian cùng tận,
cho nên nhà Phật dùng từ nhập Niết bàn. Niết-bàn là vô sanh, tức bước
vào chỗ không còn sanh tử nữa, gọi là giải thoát sanh tử.
Quí vị xét cho thật kỹ sự tu của mình,
từ khi bước vào cửa thì dùng trí tuệ dẹp tất cả những thứ phủ lấp cái
thật của mình. Dẹp rất dễ khi biết nó là giả. Nhờ Trí tuệ Bát-nhã chúng
ta biết tất cả niệm khởi hư giả không theo, mọi thứ vọng niệm dấy lên
biết nó là hư giả, không quan tâm. Như ta đang ngồi thiền, chiếc đồng hồ
treo trên tường bị người ta gỡ lấy, lúc đó mình ngồi yên không? Chẳng
những không yên mà còn động nữa, động vì mất cái mình thích. Bây giờ
biết thân còn không thật, đồng hồ đó thật sao mà sợ mất? Nắm chắc như
vậy rồi, cứ sống với cái thật phút nào quí phút ấy, chớ đừng nặng hình
tướng sanh diệt. Như vậy việc tu rất tốt, được kết quả đúng như sở
nguyện. Nếu không thế, tu lếu lếu thì trở lại mấy trăm lần không biết!
Bây giờ đa số người tu có bệnh tu gieo nhân thôi để đời sau tiếp tục,
chớ không quyết liệt tu để ra khỏi sanh tử.
Chúng ta biết rõ mình có Tâm chân
thật. Tâm đó là cái biết, cái biết thật không sanh không diệt của chính
mình. Biết được như vậy, sống được như vậy là đồng tuổi với hư không.
Đồng tuổi hư không tức là Niết-bàn, là vô sanh. Ngược lại, chúng ta sống
với tâm sanh diệt, so đo phân biệt thì đồng tuổi với phàm phu. Họ chết,
mình chết chớ không hơn tí nào hết. Những điều siêu thoát chúng ta
không nắm vững, cứ nghĩ tu tạo duyên để có phước, có đức, đời sau tốt
hơn thôi. Tu như vậy là vẫn nối tiếp mãi trong dòng luân hồi.
Chúng ta biết các vị Tổ tu không phải
một đời mà nhiều đời, nhưng nhiều đời đó không do niệm đuổi theo ngũ
dục, mà phần lớn các ngài trở lại vì nguyện. Như ngài A-Nan phát nguyện
trong bài kệ kinh Lăng Nghiêm: “Như nhất chúng sanh vị thành Phật, chung
bất ư thử thủ Nê-hoàn”, nghĩa là nếu còn một chúng sanh nào chưa thành
Phật, con nguyện không vào Niết-bàn. Người thế gian trở đi, trở lại là
vì nghiệp dẫn. Còn người tu làm chủ được nghiệp rồi, các ngài có trở đi
trở lại là do lòng từ bi khởi nguyện lực trở lại độ chúng sanh. Hiểu như
vậy chúng ta không lấy làm lạ trên con đường sanh tử. Không phải nói tu
để được bằng tuổi hư không, rồi mình ở trong đó hoài, không làm lợi ích
cho ai. Người tu hành nhận và sống được chỗ chân thật rồi phải phát
nguyện đi vào sanh tử độ chúng sanh. Đó là tâm nguyện cao thượng của
người tu. Chuyện tu hành như thế quả thật là quá ư siêu thoát.
Nhưng người tu bây giờ hơi yếu ớt, hơi
trì trệ. Chúng ta phải nắm vững đường tu, phát nguyện mãnh liệt tiến
tới, thì ra ngoài sanh tử không khó, vì cái không sanh tử mình đã có.
Nếu quí vị chịu khó đọc hết những kinh như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm,
Niết-bàn đều nói tất cả chúng sanh có sẵn cái chân thật ấy, chỉ vì chúng
ta không can đảm nhận. Chớ còn can đảm nhận thì nó đã sẵn nơi mình,
không xa xôi gì hết. Vì vậy mong rằng tất cả chúng ta đừng ngờ vực. Trên
đường tu phải cương quyết đi cho đến nơi đến chốn. Đời này chưa đủ đạo
lực để vượt qua, thì đời sau tiếp tục đi cho tới nơi.
Chúng ta hiện nay dù không hoàn toàn
thấy thân này là giả, mà biết nó vô thường, tạm bợ, tức cũng nhận được
phần nào. Cảnh cũng vậy, chúng ta biết nó vô thường, tạm bợ, không phải
thật. Biết được thế là chúng ta đi trên đường tối nhưng cũng có ánh sáng
loe lóe của một hai con đom đóm. Đó là bước đi rất thiết yếu của người
tu. Cho nên làm sao phải thấm, phải hiểu sâu lý Bát-nhã mới được, nếu
không thấm, không hiểu sâu lý Bát-nhã thì khó ra khỏi sanh tử.
Trong kinh Bát-nhã nói tất cả các pháp
đều hư dối không thật. Biết như vậy, thấy như vậy thì Bồ tát đi tới chỗ
viên mãn, chư Phật cũng từ đó mà thành tựu đạo quả. Chúng ta đi trên
con đường giác ngộ, bước đầu phải là Trí tuệ Bát-nhã. Thấy bằng Trí tuệ
Bát-nhã là giác, ngược lại là mê. Từ đây về sau, lúc nào quí vị cũng
thấy thân này không thật thì trí Bát-nhã thấm rồi. Còn thấy thật, thấy
đẹp thấy xấu thì chưa thấm. Nếu chưa thấm thì thế trần dễ làm tâm mình ô
nhiễm. Người thấm được trí Bát-nhã rồi tự mình thoát, tự mình gỡ ra
không khó khăn gì hết. Thật ra trên đường tu rất khó, mà cũng rất dễ.
Khó với người không có Trí tuệ Bát-nhã, nhưng dễ với người có Trí tuệ
Bát-nhã. Cho nên nhiều vị tu như chơi vậy, còn nhiều vị tu rất khó khăn,
khổ sở, việc này tùy chỗ sử dụng trí tuệ của từng người.
Nếu chúng ta nhìn mình, nhìn người,
nhìn mọi vật đều thấy tạm bợ, hư dối, huyễn hóa thì có gì làm phiền mình
không? Sống trong cuộc đời ảo mộng nên đùa với mộng chơi mà thôi, có gì
quan trọng. Tôi thường hay nhắc câu chuyện của một vị Tăng thế này. Khi
thầy vào Thiền đường, nói chuyện cười lớn tiếng. Ông Tri sự bực mình
lên bạch với Hòa thượng:
- Bạch Hòa thượng, có ông thầy mới tới nói chuyện lớn tiếng làm ồn chúng.
Hòa thượng cho người kêu vị Tăng mới tới, hỏi:
- Nghe nói ông tới đây làm ồn chúng, có phải vậy không?
Vị Tăng đáp:
- Dạ phải.
Hòa thượng hỏi:
- Tại sao ông làm như vậy?
Vị Tăng đáp:
- Bạch Hòa thượng, đã là mộng thì con muốn mộng vui chớ không muốn mộng buồn.
Hòa thượng nghe nói cũng cười huề. Vì
vậy những người thấy được lẽ thật phải cho người ta vui chứ, chẳng lẽ cứ
ngó xuống quạu đeo. Chỉ những ai tu không thấy lẽ thật mới đăm đăm như
quạu, nhiều khi bực bội nữa. Đã là tu, khi có việc đến với mình thì cứ
dùng Trí tuệ Bát-nhã mà phán quyết, không có cái gì thật hết, mọi việc
sẽ qua, không sợ nguy hiểm. Chỉ khi ta tưởng nó thật thì có sợ, có nguy
hiểm. Đó là lẽ thật mà chúng ta phải ứng dụng tu tập.
Trên đường tu ứng dụng được lẽ thật
rồi thì mọi việc đều thành công dễ dàng. Đừng tu mà ôm ấp mê lầm, chấp
phải chấp quấy rồi buồn phiền nhau, không hay tí nào hết. Như vậy là còn
sơ đẳng quá chưa phải người thật biết đạo đức. Người thật biết đạo đức
là vượt qua hết những sự việc tầm thường, thân này còn mất không ra gì,
huống nữa là hơn thua phải quấy. Cho nên người tu là người sáng suốt, có
Trí tuệ Bát-nhã. Trên thế gian rất nhiều người thông minh, như những kỹ
sư, bác học, họ gõ trong đá hoặc dưới đất liền đoán biết chỗ đó có dầu,
có đồ quí, thế gian cho đó là những người thông minh tối ưu. Nhưng cái
thông minh đó có bằng Trí tuệ Bát-nhã không? Chỉ là thông minh trong đối
đãi sanh diệt thôi, vì họ tìm được cái hay quí trong sanh diệt, chớ
không tìm được cái siêu thoát vượt ngoài sanh diệt.
Nếu thấy cả thế giới này bằng con mắt
Trí tuệ Bát-nhã, không có gì thật cả thì con người có còn giành giật,
đấu tranh, sát hại lẫn nhau không? Sở dĩ họ giành giật với nhau vì chỗ
nghèo muốn giành chỗ giàu, cái xấu muốn cái tốt… bây giờ chúng ta biết
rõ cả thế giới này là tạm bợ, hư dối, nhưng nó lại đang quay cuồng trong
hư không, trong cái không bại hoại. Tất cả chúng ta tu cũng vậy, thân
này là hình tướng rồi sẽ bại hoại. Tâm sanh diệt là bóng không thật sẽ
bại hoại. Ở ngoài thấy sáu trần không thật, bên trong thấy ngũ uẩn không
thật. Tất cả căn, trần, uẩn đều không thật hết. Thấy không thật như
thế, chúng ta cũng ăn, cũng đi lại, cũng làm việc nhưng cười hay khóc?
Không thật thì cười sống vui thôi, có gì đâu phải khổ phải khóc. Nếu
thấy có cái thật mà mình mất thì khóc, còn thấy không thật thì có gì để
khóc. Kể cả thân này khi bị bệnh, bác sĩ nói bệnh nguy hiểm không qua
khỏi, ta nên cười hay nên khóc? Biết thân đã không thật thì mất nó cũng
là trò chơi thôi, có gì quan trọng. Đã không quan trọng thì có gì phải
khóc? Tuy sống trong Ta-bà khổ mà mình không khổ, nếu không thế chúng ta
cứ tiếp tục trôi lăn trong khổ đau.
Khi ngồi thiền, những âm thanh, những
tiếng động bên ngoài vọng đến, chúng ta đều biết nó không thật. Bởi
không thật nên ta không bực bội, nếu không như thế âm thanh cũng làm
mình bực bội, giờ ngồi thiền bị phiền não làm xao lãng việc tu. Biết nó
không thật, giả dối, qua rồi mất, giữ nguyên lập trường tu của mình, thì
sự tu hành sẽ tiến nhiều. Nên nhớ Trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ thấy được
lẽ thật từ con người cho tới muôn vật, tất cả đều tạm bợ hư dối, không
thật. Nhớ luôn luôn như vậy. Tất cả những gì có tướng, có động đều không
thật hết. Chính cái không hình tướng, không động mới là chân thật.
Như ngoài biển, cái dễ nhận nhất là
sóng vỗ ầm ầm, kế đến là bọt, rồi nước lên, nước xuống. Nhưng đặt câu
hỏi lại, nước biển có sóng không? Nước biển đâu có sóng. Sóng là vì
duyên gió nên nổi sóng, chớ nước biển nguyên không có sóng. Nước biển có
bọt không? Nước biển cũng không bọt, mà do sóng đánh dập vào nhau nên
nổi thành bọt. Nước biển có lên, có xuống không? Cũng không lên không
xuống, do quả địa cầu xoay nên có sự xê dịch vậy thôi. Như vậy nước biển
không có tất cả những thứ mà chúng ta cho là nó có.
Cũng vậy Tâm chân thật của chúng ta
không có những chuyện vui buồn, thương ghét gì hết. Tại vì chúng ta dấy
tâm theo ngoại cảnh, từ đó phát sanh những vui buồn thương ghét. Nếu
buông hết những niệm chạy theo ngoại cảnh thì tâm sanh diệt lần lần yên
lặng. Tâm sanh diệt yên lặng thì chỗ chân thật sẽ hiện ra. Nhiều người
bảo do có suy nghĩ mới biết phải, biết quấy, biết khôn, biết dại; không
cho suy nghĩ lấy gì biết phải quấy, khôn dại. Chừng đó hết biết phải
quấy, khôn dại rồi. Đúng vậy! Không còn phải quấy, khôn dại nhưng lại
thấy tột lẽ thật. Như đức Phật khi đã vào định, tất nhiên những hơn thua
phải quấy đâu còn, so đo khôn dại cũng không có, nhờ thế Ngài thấy được
lẽ thật. Nên biết lẽ thật chỉ hiện khi tâm ta thanh tịnh.
Tóm lại, cửa ban đầu dùng để quán
chiếu là cửa Bát-nhã. Quán chiếu cái này duyên hợp hư giả, cái kia duyên
hợp hư giả, tức là còn động nhưng động trong Trí tuệ Bát-nhã. Sau khi
cái động của Trí tuệ Bát-nhã qua rồi thì cái chân thật mới hiện ra. Chỗ
này là chỗ ứng dụng tu chúng ta phải lưu ý, cái chân thật được sáng lên
là sau khi Trí tuệ Bát-nhã quét sạch hết những bợn nhơ bên ngoài. Hiểu
như vậy mới thấy rõ Bát-nhã là phương tiện đầu, tôi thường ví dụ như
kiếm bén chặt hết rừng tre, nó đi đầu để phá dẹp. Cho nên nói tới
Bát-nhã là nói tới quán chiếu, chớ không phải nói yên lặng. Nhờ quán
chiếu chúng ta mới đi tới bước thứ hai là yên lặng, yên lặng đó là
thiền. Do đó cửa Bát-nhã là cửa để đi vào nhà thiền.
Khi nào quí vị tu cảm thấy hơi buồn,
hơi sợ thì phải làm sao? Phải dùng trí Bát-nhã quán chiếu, quán chiếu
mình, quán chiếu người, quán chiếu cảnh không có gì thật hết thì buồn sợ
tự mất, niềm vui sẽ tới với mình. Chúng ta nên nhớ sống trong trò ảo
mộng không có gì quan trọng, nếu không biết thế lâu lâu chúng ta cũng
cảm thấy buồn, hơi trầm trầm buồn. Cho nên sử dụng trí Bát-nhã khi mới
bước vào cửa thiền, dùng Bát-nhã phá dẹp hết mọi chướng ngại trên đường
tu.
Người tu không được buồn, tại sao? Bởi
vì buồn thuộc về tâm bi. Tâm bi thì không có sức mạnh để vươn lên. Vì
vậy tu không cho buồn, vừa có buồn liền phải quán chiếu, mượn Trí tuệ
Bát-nhã phá tan buồn phiền, để hăng hái vui vẻ tu. Nhất là trong thời
gian nhập thất quí vị cần phải cẩn thận hơn, đừng nuôi dưỡng cái buồn.
Hiểu và ứng dụng tu đúng thì lợi lạc vô cùng. Nếu không, cứ ngồi yên
kềm, kềm riết thành ra đau đầu. Tôi nói thêm cho quí vị hiểu về việc
ngồi thiền. Hồi trước nghe các sư Nguyên thủy dạy ngồi thiền, hít vô
bụng dưới phình, thở ra xẹp. Phình xẹp, phình xẹp… tôi thấy hơi kỳ kỳ.
Nhưng sau này nghiên cứu kỹ tôi thấy được sự lợi ích của nó. Nếu ngồi
thiền chỉ thở tới bụng trên thì hơi nhọc, phải thở sâu tới dưới đơn
điền. Nghĩa là hít vô tận đơn điền, thở ra sạch. Thay vì nói phình xẹp
thì chúng ta nói hít vô đầy, thở ra sạch, từ từ nó sẽ nhẹ dần. Bao giờ
nhẹ được thì rất khỏe.
Ngồi thiền quí vị đừng thèm tính cái
gì, xét cái gì, quán chiếu cái gì nhiều hết. Chỉ cần niệm dấy lên thì
buông. Buông riết nó sẽ nhẹ sẽ hết, chớ đừng đè đừng kềm hoặc quán tưởng
cái này cái nọ, dễ sanh bệnh lắm. Biết vọng tưởng không thật thì buông
thôi, tu thảnh thơi nhẹ nhàng, đừng cố gắng quá. Cố gắng quá tưởng như
hay, nhưng rốt cuộc đi tới kết quả không tốt. Sở dĩ chúng ta đau đầu vì
trụ tâm trên trán, bây giờ điều hơi thở xuống tới đơn điền, rồi thở ra
sạch thì không bị nóng trên đầu. Nhớ như vậy đó.
Nếu chúng ta tận dụng được Trí tuệ
Bát-nhã và tận dụng đường lối tu cho rõ ràng thì sự tu sẽ thành công.
Nếu không tận dụng được hai điều đó thì sự tu có thể thất bại. Thất bại
thì uổng đi một đời tu của mình. Đó là lời nhắc nhở của tôi với tất cả
Tăng Ni.
H.T Thích Thanh Từ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét