Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng
uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những
khoái lạc vật chất. Nhưng họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là
giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát
mà uống nước mặn, càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút
uống vào, lại thêm đắng chát.
Muốn giải thoát (thoát khổ ) phải chấm dứt sanh tử . Có sanh ắc có tử .
Đời là bể khổ , kiếp người là kiếp khổ . Muốn chấm dứt sanh tử có 2 con
đường . Con đường thứ 1 : lo hành thiện tích đức để không còn đầu thai .
Con đường thứ 2 là diệc sanh (con đường triệc sản ). Nhiều đời nhiều
kiếp , ai hiểu trước thì triệc sản trước , ai hiểu sau thì triệc sản sau
. Đưa thế giới đến chỗ không còn con người . Không có sanh ,ắc không có
lão , không có bệnh , không có tử . Con người chấm dứt sanh tử . Sanh
khổ , lão khổ , bệnh khổ ,tử khổ . Con người không ai là không khổ ,
không trước thì sau , không sớm thì muộn . Ai trẻ không bệnh thì già
bệnh . Ai trẻ chưa chết thì già chết . Ai trẻ chưa khổ thì già khổ .
Sống càng lâu càng khổ . Người có cuộc sống an lạc nhất phải kể đến các
thiền sư tu hành đắc đạo . Vì họ hiểu được " trong họa ắc có phúc ,
trong phúc ắc có họa '' . Đời là vô thường , khổ , vô ngã . Nên họ sống
với tâm chơn thường , không phải đau khổ trước được mất , sướng khổ ,
hanh phúc khổ đau . Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến . Mặc dù sống an
lạc là vây nhưng họ không thoát ra khỏi sanh khổ, lão khổ , bệnh khổ,
tử khổ . Vì vậy chỉ có chấm dức sanh tử mới thoát khổ hoàn toàn . Không
có 1 bác sĩ nào trị nổi bệnh người già , lão ắc bệnh , bệnh ắc tử . Con
người chúng ta phải chịu bó tay trước bệnh già . Thật là đau khổ và tủi
nhục .
Muốn thống nhất ngôn ngữ ít tốn kém hơn phải dùng chính sách giảm dân số
. Chính sách giảm dân số , kế hoạch hóa gia đình , làm giảm dân số trên
toàn thế giới . Giảm dân số tức là giảm đi sự đau khổ ở thế gian , giảm
lượng khí thải CO2 , giảm hiệu ứng nhà kính , giảm sự gia tăng nước
biển . Tăng cường an ninh năng lượng , an ninh lương thực , bảo vệ được
tài nguyên môi trường .
Chính sách tách dân số trẻ di chuyển ra khỏi vùng hạn hán ít mưa giúp
bảo vệ môi trường tăng thêm lượng oxy cho trái đấc . Vì dân số già ở
những vùng ít mưa như châu phi ,sa mạc rồi đến ngày già sẽ chết hết .
Không cho dân số trẻ di chuyển đến vùng ít mưa , để cây cối dễ bề phục
hồi và phát triển . Vì nơi nào có con người là nơi đó bị sói mòn tàn phá
và hủy diệc thiên nhiên . Đặc biệc những vùng ít mưa càng bị hủy diệc
tăng gấp bội . Nơi mưa nhiều có tàn phá cây cối mưa xuống lại lên . Còn
chỗ ít mưa tàn phá xong là nơi đó thành sa mạc liền . Những lục địa ít
mưa tương lai sẽ trở thành rừng rậm .
Để hiểu rõ sâu sắc kiếp người là kiếp khổ , ví vị có thể tham khảo thêm KHỔ ĐẾ , TẬP ĐẾ .
Ðời Là Một Biển Khổ Ðầy Mồ Hôi Và Nước Mắt
Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng
uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những
khoái lạc vật chất.
Nhưng họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh,
chẳng khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn,
càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm
đắng chát.
Khế kinh có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế !
Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ
là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sưon bên ngoài mà thôi; chứ bản chất
của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt,
trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự
thật. Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên
một cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ nhứt của Tứ
Diệu Ðế.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Chữ Khổ Ðế (DUKKHA)
Khổ đế do chữ Dukkha mà ra. "DU", nghĩa là khó; "KKHA" là chịu đựng, khó
kham nhẫn. Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho
mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, sợ hãi
v.v..
"ÐẾ" là một sự thật vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả.
Khổ đế, là sự thật đúng đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian.
Sự thật nầy nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được.
Dưới đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ của thế gian.
II. Luận Về Sự Khổ Của Thế Gian
Kẻ cho hết cả sự khổ ở thế gian, thì không bao giờ cùng. Song căn cứ
theo kinh Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ
khổ (bát khổ).
1. Ba khổ: Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
a) Khổ khổ. Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn
cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ"
Thật thế, mỗi một chúng sanh, tự mình đã là nạn nhân của bao nhiêu cái
khổ, cái xấu xa; thân thể là một bầu thịt xương dưo bẩn, nếu một vài
ngày, không săn sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu đựng được. Hơn
nữa, cái thân ấy cũng không bền chắn, mà trái lại rất mong manh: khát
nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm một số
vi trùng độc...thế là mạng vong.
lại trên cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn
nhiều cái khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh
tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng
v.v...Vì thế nên gọi là "khổ khổ".
b) Hoại khổ. Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị
hoại diệt". Thực thế, vạn b\vật trong vũ trụ đều bị luật vô thường chi
phối, không tồn tại mãi được. Cứng rắn như sắt đá, lâu năm cũng mục nát;
to lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trờ lâu ngày cũng tan rã. Yếu ớt,
nhỏ nhen như thân người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du ! Cái
búa tàn ác của thời gian đạp phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, cũng
là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có sức mạnh bao
nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể cản ngăn,
chống đỡ không cho thời gian hủy diệt đời ta. ta hoàn toàn bất lực trước
thời gian. Thật là khổ sở, tủi nhục, đớn đau !.
c) hành khổ. Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi
phối, phá hoại; còn về phương diện tinh thán, ta cũng không hề tự chủ,
yên ổn, tự do được. tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc
đẩy từng phút từng giây. tư tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy
vọt lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương,
như con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời
Phật dạy: "tâm viên, ý mã".
Nếu xét sâu xa hơn nữa, ta sẽ thấy tâm hồn ta còn bị cái phần bên trong
kín sâu, nằm dưới ý thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô
cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. ta
giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều
là do tiềm thức ta sai sử, ra mệnh lệnh.
Nói tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục
vọng, tiềm thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành
khổ".
2. Tám khổ: nếu chúng ta phân tích tỉ mỉ hơn, thì cái khổ của thế gian
có thể chia ra làm tám loại. tám loại này tựu trung cũngk ngoài ba khổ
kia.
Tám loại khổ: sanh khổ, lão khổ,bệnh khổ,tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất
đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng ta hãy
nói rõ về tám nỗi khổ ấy.
a) Sanh khổ: Sự sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh, khổ trong đời sống.
Khổ trong lúc sanh. Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ
mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dả dượi, bất
thần...Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng
nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Ðến khi gần sanh, sự đau đớn
của người mẹ không sao nói xiết. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng
phải chịu dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn,
ngũ tạng suy kém. Còn rủi bị nghịc thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn
nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật suốt
đời.
Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều
điều khổ sdở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong
khoảng tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ! Mẹ đói cơm, khát nước, thì
con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. mẹ ăn no thì
con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sanh
sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi
vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a ! Khổ a !". Thật
đúng như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:
"Thảo nào lúc mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra !"
Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở.
Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức
uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải
cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát
cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, thì có khi suốt đời vất vả làm lụng,
vẫn không đủ sức tạo được một ngôi nhà nho nhỏ.
Nhưng chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường,
thiếu thốn cũng đã là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn trời
chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa
không che được nắng mưa, cũng đã là khổ rồi. Nhưng nào phải chỉ có
những người nghèo hèn mới khổ đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường:
muốn có tiền, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt
mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ đâu
phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu ! Ðó là còn chưa nói dến
những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa mà không ai có thể tránh
khỏi được.
Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều đièu kổ nhục, có nhiều
khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì nhiều,
chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi.
Muốn tìm lẽ phải, chơn lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm
cả về phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. về lý thuyết ta học trong
sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm ta cũng gặp lắm điều
khổ sở, khó khăn. Như học lý thuyết với thầy ở trường, lắm khi gặp bài
khó, lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học trò không thu nhận được gì
hết, thế là người giận kẻ buồnm khổ tâm quá ! Còn tự học ở nhà với quyển
sách trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra cứu
thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, cũng là khổ. Về
sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất đắc. ta sẽ
bị người này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh
bỉ...bao nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một
phần nào là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau.
Tóm lại, về vật chất hay tinh thầnh, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là thế.
b) Lão khổ. Ca dao có câu:
"Già nua là cảnh cảnh điêu tàn
Cây già cây cỗi, người già người si".
Con người đến lúc già, thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn tinh thần.
Khổ thể xác. Càng già, khí huyết càng hao mòn. Bên trong, ngũ tạng, lục
phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các
giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay
chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng nhờ vả kẻ khác.
Ðã vậy, mỗi khi thời tiết xoay trở thì cảm nhiễm theoi khí hậu mà đau,
như trời mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v.. không chút
gì gọi là vui thú cả !
Khổ tinh thần. Người xưa có nói: "Ða thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi
nhiều, nhục lắm ! Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng
lu mờ. Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, nhớ sau, hành động như kẻ
ngây dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người mất trí; ăn rồi bảo chưa
ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại còn chửi bới, nói nhảm nhí làm trò
cười cho lũ trẻ. Thật đúng là "Lão khổ".
c) Bệnh khổ. hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổt sở không gì hơn
là cái đau ! Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lătk vặt như đau
răng, nhức đầu, đến cái đau trầm trọng như phung, lao v.v...đều làm cho
con người phải rên xiết, khổ sở, khó chịu. Nhất là những bệnh trầm kh
(lâu ngày khó chữa), thì lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹ nước,
cầu sống không được, cầu chết cũng không, oan oan ương ương, thật là
khổ não.
Thân đã đau, mà tiền lại hết. Có nhiều người sau một ậnnn đau, chỉ còn
hai bàn tay trắng ! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết
mấy".
Ngoài ra, bệnh tật lại còn làm cho lục thân quýet thuộc buồn rầu, lo
sưọ. Mỗi lần trong nhà có người đau, thì cả gia quyến đều rộn rịp, băn
khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, boếng nói, biếng cười, bỏ
công ăn việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ".
d) Tử khổ. Trong bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết thì
"chết" là cái làm cho chúng sanh kinh hãi nhất. Con người sợ chết đến
đổi ở trong hoàn cảnh sống thừa, đang slẽ không nên sống làm gì nữa, thế
mà nghe nói đến cái chết, cũng sợ không dám nghĩ đến. Những người xấu
số bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hũi, sống thêm một ngày là khổ thêm
một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi.
Cái chết làm khổ con người như thế nào mà ai cũng sưọ hãi thế?
Về thân xác. Có mục kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi mới
biết cái chết là đáng sợ. người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ mắt,
méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ chân...Trong lúc
ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, miệng hết nói. Rờ thử vào
người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân cứng đơ như gỗ. xác chết
dần dần sình lên, trong rát ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy
nước tanh hôi khó chịu vô cùng.
Về tinh thần. Khi sắp chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần xót
thương cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo mình
một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ. Thật không còn gì
đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này !
Tóm lại, cái chết làm cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cõi nào chưa rõ. Thật là "tử khổ".
e) Ái biệt ly khổ. Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh
em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau
đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.
Sanh ly khổ. Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì
hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc giã,
bão lụt...làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này trông
đợi, người gốc kia nhớ chờ. thật đau lòng xót dạ ! Người đời thường nói:
"Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh?". Ðó là cái khổ của "Sanh ly".
Tử biệt khổ. Nhưng mặc dù xã cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ;
chứ chết rồi bao thuở được vum vầy? Vì vậy, đứng trớc cảnh chết, là một
sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chằng khổ đau. Do đó, lâm
phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ
ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố.
Ðó là cái khổ của "tử biệt".
g) Cầu bất đắc khổ (thất vọng). Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều
thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại
nguyện thìd quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại bất như ý, thì không sao kể
xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao
nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng
đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều thành công. thế
rôùi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không
biết đâu là bờ bến. Dưới đay, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng
mà ng đời thường gặp nhiều nhất.
Thất vọng vì công danh. Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi
ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ
giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt,
nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu
danh vọng một cách chánh đáng, bằng nănglực, tài trí, học hỏi của mình.
Ðối với những hạnh người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng
may ra mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia
Thiều đã nói:
"Gót danh lợi, bùn pha sắc xám
Mặt phong trầng nắng nám mùi dâu !"
Thất vọng vì phú quý. Số người thất vọng vì công anh đã nhiều. Nhưng sô
sn thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều
người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian
chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến
bị nhục nhã theo, thực là khổ !
Thất vọng vì tình duyên. Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người
phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được
toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình
duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là
"Cầu bất đắc khổ".
h) Oán tắng hội khổ. Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn
chia ly; cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng oái
oăm thay ! Ở đời khi mong muốn được hội ngộ, lại phải chia ly; cũng như
khi mong ước được xa lìa, lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày ! Cái
khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái
khổi phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.
Người ta thường nói: "Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai".
Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con
quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất
hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra
đi vào lại phải gặp nhau mãi ! Quyết không nói chuyện với nhau, mà
nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh
tuyệt giao hẳn, ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sắc
trốn tránh, song lắm lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy
là bà con cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn ghét
còn thúc đẩy con người hết muón thân mến, không mong gặp gỡ nhau thay !
Huống chi đối với người dưng, nước lã, khác giống, khác nòi, một khi đã
thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một
ngày xảy ra đại họa. Ðó là ý nghĩa của "Oán tắng hội khổ".
i) Ngũ ấm xí thạnh khổ. Cái thân tứ đại của con người cũng gọi là thân
ngũ ấm (năm món che đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm.
Với cái thân ngũ ấm ấy, con người phải chịu không biết bao nhiêu là điều
khổ. Giữa ngũ ấm ấy luôn luôn có sự xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn
nhau. Vì sự xung đọt, mâu thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu
những cái khổi sau đây:
Bị luật vô thường chi phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm,
từ đau đến chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền.
Bị thất tình, lục dục lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiểm sáu trần, phải khổ lụy thân tâm.
Bị vọng thức điên đảo chấp trước, nên con người nhận thất một cách sai
lầm: có ta, có người, còn mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo,
khổ não.
Aáy là "Ngũ ấm xí thạnh khổ."
III. Ðức Phật Nêu Rõ Những Nỗi Khổ Ấy Ðể Làm Gì?
Có người sẽ băn khoăn, thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt
ráo những nỗi khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế,
thì nên che giấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó
ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng tạo nên một ảo
tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong ấy, có hơn không? Ðứa trẻ
nít sống một cách hòn nhiên, yên ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết
đến những nỗi đau khổ, xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt
chước như chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của cõi
đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là một đấng thường
được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một vịwc nhẫn tâm như thế?
Những câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy
xét một cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn tâm
khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là vì lòng từ bi
mà Ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người đời biết rõ những nỗi khổ
của trần gian, vì những lợi ích lớn sau đây:
1. Gặp cảnh không khủng khiếp: Những nỗi khổ mà Ðức Phật nói ra ở trên
là những nổi khổ căn bản, không ai tránh khỏi được. Ðã sống, tất phải
gặp chúg. Có ai không ốm, không già, không chết? Có ai suốt đời không
gặp chia ly với người thân thuộc, không bị chung sống với những kẻ thù
nghịch? Có ai đạt được tất cả những điều mình mong ước? Cho nên dù có
muốn tạo ra một ảo tưởng đẹp đẽ về cuộc đời để sống cho yen ổn, thì ảo
tưởng ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị thực tế phủ phàng xé tan đi mất !
Và khi ấy, cuộc thế tràn truồng, xấu xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô
cùng đột ngột, trước mắt những kẻ thường quan sống trong ảo tưởng đẹp
đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu chuẩn bị để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ
hoảng lên, vô cùng tuyệt vọng và có nhiều khi không đủ can đảm để sống
nữa.
Trái lại, khi chúng ta biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp
cảnh khổ, chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà
trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải thoát. Tỷ
như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả với nghề cày sâu cuốc
bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn,
nắng táp cũng không nao núng chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen
sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn
loạ, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử.
2. Không tham cầu nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối: Khi chúng ta rõ biết
cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều thì lại càng đau
khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết chế dục vọn của chúng ta
và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta không bị hoàn cảnh chi phối, không bị
sóng đời lôi kéo, vùi dạp chúng ta xuống vực thẳm mênh mông của cõi Ta
Bà đen tối. Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết lo nghĩ phương kế để
thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù, chỉ lo
tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quen rằng mình sẽ bị đem xử
tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.
3. Gắng sức tu hành để thoát khổ: Khi đã biết thân người nhiều khổ và
cảnh Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi cảnh
giới đen tối của mình và sống ở một cảnh giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ
trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang cháy, may nhờ đáng cha lành bào
động, chúng mới biết và gấp rút tìm đường thoát ra.
C. Kết Luận
Biết Khổ Phải Tìm Nguyên Nhân Sanh Ra Khổ Ðể Diệt Trừ
Chúng ta đã được đức Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng
như tam giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không an,
ví như nhà lửa", tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà không
tự biết, nên phải bị trầm luân.
Nay chúng ta đã biết rõ mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một
biển khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xã lánh
nó. Biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than.
Nhưng làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta chưa rõ biết ngành ngọn,
đường đi nước bước, chưa biết rõ vì đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y
giỏi muốn trừ bênh, phải tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi
muôn trừ diệt tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào
huyệt, tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây,
đánh bắt chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng.
Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân phát sanh ra khổ.
Nguyên nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của
tứ diệu đế là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong bài thứ ba của tập
sách này.
Bài Thứ 3
Tập Ðế (Sameda Dukkha)
A. Mở Ðề
Vì Sao Phật Nói Khổ Ðế Trước và Tập Ðế Sau
Trong Khổ đế, chúng ta đã thấy rõ những nỗi thống khổ của trần gian.
Trước những nỗi khổ ấy, không ai là không nhàm chán, ghê sợ cho cuộc đời
ở cảnh giới Ta Bà nầy, và không ai có thể an tâm, điềm nhiên sống trong
cảnh ấy. Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc chúng ta: Vì đâu sanh
ra những nỗi khổ ấy? Ta có thể thoát ra khỏi móng vuốt của chúng để sống
ở một cảnh giới đẹp đẽ hơn chăng? Và thoát ra bằng cách nào?
Ðó là những câu hỏi mà đức Phật sẽ lần lượt giải đáp một các tường tận ở ba phàn: Tập, Diệt và Ðạo đế.
Ngay trong phần Tập đế nầy, đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta là nói rõ nguyên nhân của đau khổ.
Ðức Phật rất rành tâm lý của chúng sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước
rồi mới nói cái nhân sau. Nếu vào ngay đầu, Ngài nói: "Nầy các ngươi !
hãy nghe ta nói rõ những nguyên nhân sanh ra đau khổ đây !" Nếu Ngài bảo
như thế, chắc chúng ta sẽ không chú ý nghe cho lắm, vì chúng ta, mặc dù
là sống trong bể khổ, những vì mê mờ, chúng ta có thấy một cách tường
tận và rùng rợn tất cả những nỗi khổ của cảnh Ta Bà đâu? Có nhiều khi
chúng ta còn cho cảnh giới nầy là vui nữa là khác. Do đó, chúng ta không
thiết tha đi tìm nguyên nhân phát anh đau khổ. Chỉ khi nào chúng ta đã ý
thức một cách sâu sắc những nỗi khổ sở của chúng ta, khi ấy chúng ta
mới thấy sự băn khoăn khẩn cấp đi tìm đường tự giải cứu cho chúng ta. Và
muốn tự giải cứu, tất chúng ta cầm tìm xem vì đâu mà có đâu khổ; như vị
lương y, muốn trị bệnh, trước phải tìm hiểu nguyên nhân sinh bệnh.
Nguyên nhâ sinh bệnh khổ đâu của chúng sanh, đức Phật gọi là Tập đế.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Tập đế: Tập là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là sự
thật vững chắc, đúng đứn hơn cả. Tạp đế là sự thật đúng đắn, vững chắc
về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ lâu đời, lau
kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội gốc của sanh tử, luân
hồi, của bể khổ trần gian.
II. Nguyên Nhân Của Ðau Khổ Là Những Gì?
Phật dạy: Cội gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những
dục vọng xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng ta.
phiền não rất nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000), nói
hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền não. Do mười
phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não ngành ngọn (xin xem quyển
Tu Tâm). Mười phép phiền não gốc là:
1. Tham: nghĩa là tham lam. Tánh tham có động lực bắt ta phỉ dòm ngó,
theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn,
chỗ ở v.v...rồi nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm kiếm cho được
những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham không có đáy, thâu góp bao
nhiêu cũng không vừa; được một muốn có mười, được mười muốn có trăm.
Tham cho mình chưa đủ, còm tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của
mình. Cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn
chìa lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; cũng
vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết bo sanh linh. Tóm
lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng sanh chịu không biết bao nhiêu
điều thống khổ.
Tham không những hại cho mình và cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai nữa.
2. Sân: nghĩa là nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như
lòng tham không được toại nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ
đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ,
nói năng hung dữ, có khi dùng đén võ lực hay khí giới để hạ kẻ đã làm
trái ý, phật lòng ta. Vì nóg giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn
bè ly tán; vì nóng giận mà đồng bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau
ra chiến trường; vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường,
kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Nhất niệm sân
tâm khởi, bách vạn chướng môn khai", nghĩa là một niệm sân hận nổi lên,
thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép: "Nhất tinh
chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn", nghĩa là một đóm lửa
giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân hận đã
bừng cháy lên giữa lòng nhân loại, và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu
là công lao, sự nghiệp mà nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt
để tạo nên.
3. Si: nghĩa là si mê, mờ ám. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối
trùm lên trí huệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật,
phán đoán được cái hay, cái dỡ, cái tốt, cái xấu. Do đó, ta gây ra không
biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình, hại người mà không hay. Vì si mà
lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai
hại của tham, thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì si
mà lửa sân tự do bùng hcáy; nếu người sáng suốt biết cái tai hại của
lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế. Tổ sư đã dạy: "Bất úy
tham sân khởi, duy khủng tự giác trì". Nghĩa là không sợ tham và sân nổi
lên, mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ
tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên,
mà có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham, sân không có trí huệ, sáng
suốt thì tham, sân không thể tồn tại được; như khi đã có ánh sáng mặt
rời lên, thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến.
Ba tánh tham, sân, si này, Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà
chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa nghục, ngạ
quỉ và súc sinh.
4. Mạn: nghĩa là tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự tháy
mình lag quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của, tài trí
hy quyền thế mà dương dương tự đức, mục hạ vô nhân, khinh người già cả,
hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người dưới, lấn lướt người trên.
Vì lòng ngã mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không
nghe lời nói phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, phước lành
tổn giảm, tội lỗi càng tăng, phải chịu sanh tử luân hồi không bao giờ
cùng.
Mạn có bảy thứ:
a) Mạn: hơn người ít, mà nghĩa mình hơn nhiều.
b) Ngã mạn: ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.
c) Quá mạn: mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình l\mà cho là bằng.
d) Mạn quá mạn: người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
đ) Tăng thượng mạn: chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng.
e) Ty liệt mạn: mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
g) tà mạn: người tu về tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.
5. Nghi: nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không làm
nên được việc gì hết. Ðối với người thân trong gia đình, họ không tin
cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện
chí. Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin nữa. Ðã không tự tin, họ
còn gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho người thế gian ngã
lòng, thối chí.
Ðối với đạo lý chân chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp
tu giải thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm.
Nghi có ba phương diện:
a) Tự nghi: nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: "Tu
hành sẽ được giải thoát", nhưng lại tự nghi rằng: "Chẳng biết mình tu có
được không?". Vì lòng do dự ngi ngờ ấy, nên không tu.
b) Nghi pháp: nghĩa là nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh
Di Ðà nói: "Người chí tâm niệm ph, từ một ngày cho đến bảy ngày, được
nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp đãn sanh về
nước Cực lạc"; nhưng họ lại nghi ngờ "Phương pháp ấy không biết có kết
quả đúng như vậy không? " Do sự nghi ngờ đó mà không tu.
c) Nghi nhơn: nghĩa là nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: "Làm
lành sẽ được phước, làm ác sẽ bị tội"; nhưng lại nghi rằng: "Chẳng biết
người này nói có thật không ". Do sự nghi ngờ ấy mà không làm.
Tóm lại, tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại mọi
công tác hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm
khổ sở.
6. Thân kiến: nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì
cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc thật không
biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không dính dấp đến người khác,
và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như thế, nên kiếm món ngon, vật
lạ cho ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp co Ta mặc, lo xây dựng nhà cao,
cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta
hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái Ta ấy, mà tạo
ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau
khổ vì Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.
7. Biên kiến: nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành
kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất là:
a) Thường kiến: nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi:
người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn chết
trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu cũng vậy, không tu
cũng vậy, nên không sợ tội ác, không thích làm thiện. Lối chấp này, đọa
Phật gọi là "Thường kiến ngoại đạo".
b) Ðoạn kiến: nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người
chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng
không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc
tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: "Tu nhơn tích đức già đời cũng
chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn".
Có người đối trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình
duyên trắc trở, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả,
nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu để kết
liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vãn chưa hết ! Lối chấp này,
kinh Phật gọi là "Ðoạn kiến ngoại đạo".
8. Kiến thủ: nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.
Kiến thủ có hai phương diện:
a) Kiến thủ vì không ý thức được sai lầm của mình. hành vi của mình sai
quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy,
nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho là giỏi, ai nói cũng
chẳng nghe.
b) Kiến thủ vì tự ái hay vì cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói
như vậy là dở, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình, không
chịu thay đổi. Như ông bf trước đã lờ theo tà đạo, nay con cháu vẫn
biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không chịu đổi. Họ cứ nói một
cách liều lỉnh: "Xưa sao nay vậy", hy "Xưa bày này làm". Hay như cha mẹ
trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy
không chịu thay nghề khác.
Nói rộng ra trong thế giới, có một số đông người, mặc dù thời thế đã cải
đổi, tiến bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại mãi.
Chẳg hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật tử, hễ
trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến; khi đưa đám tang,
gánh theo những con heo quay to tướng, đi biểu diễn qua các đường phố;
mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho
phướg, mỗi năm phải hội họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v...Chấp chặt
những hủ tục như thế, đều thuộc và "Kiến thủ" cả.
9. Giới cấm thủ: nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo.
Nhưng sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man, không làm
sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có nhiều người tin
và làm theo. Chẳng hạn như ở Aán độ, có phái ngoại đạo lấy đá dằn bụng,
đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống,
gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông trầm mình để được phước. Có đạo,
mỗi năm lại bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh
chàng Vô Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm
chuỗi hạt mới đắc đạo.
Những thứ cuồn tín như thế, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.
10. Tà kiến: nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự
thật, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê tín
dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói
quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v...
Nói rộng ra, cả bốn món chấp trên, đều thuộc và Tà kiến cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét