...Mật giáo được truyền vào Tây Tạng thế
kỷ VIII do Ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), người Ấn Độ, sống cùng
thời với vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755 - 797). Ngài đến Tây
Tạng, đem Mật giáo truyền bá và sáng lập tông phái Ninh Mã (Nyingmapa),
một trong bốn phái lớn của Mật giáo Tây Tạng. Ngài được coi là Đức Phật
Thích Ca tái thế, có tài chinh phục ma quỷ, thiên tai và các giáo phái.
Ngài xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) năm 775 và trước tác nhiều tác
phẩm quan trọng như bộ Tử thư,... Ngài là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng.
...Mật tông dựa trên cơ sở ấy cho rằng
vũ trụ thân là pháp thân và pháp thân biểu hiện trong mọi hiện hữu, sở
dĩ chúng ta không nhận thấy được vì tâm thức mê mờ, chúng ta chỉ thấy
thế giới là bất an và khổ đau vì thiếu trí tuệ Kim cương; trí tuệ Kim
cương có công năng là phá tan mọi chướng ngại pháp. Con đường trở về hợp
nhất với vũ trụ thân, nói cách khác, muốn đi vào quỹ đạo của pháp thân
phải có những tác pháp thiêng liêng, thể hiện sự gia trì giúp ta thể
nhập một cách sâu xa và phổ quát của pháp giới tính. Lý thuyết này có
phần tương tự với lý thuyết Bất tư nghì giải thoát trong Kinh Duy Ma
Cật.
Giới Thiệu Về Mật Tông (Kim Cương Thừa)
Thích Viên Giác
* Dẫn nhập
Mật tông là một trong những tông phái
của Phật giáo, xuất phát từ Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VII, rồi sau đó
được truyền bá sang Trung Hoa, Nhật Bản... và đặc biệt là phát triển
mạnh mẽ ở Tây Tạng. Ở Tây Tạng, Mật tông còn được gọi là Kim cương thừa.
Kim cương thừa được coi như là con đường
thẳng dốc đứng để đi lên đỉnh núi; điều đó vừa nói lên tính siêu việt,
đồng thời cũng nói lên sự khó khăn và nguy hiểm của con đường, lối tu
Mật giáo. Trong các Kinh điển Đại thừa, có nhiều bộ Kinh lồng vào những
thần chú, Đà La Ni như là để khai triển ý nghĩa sâu thẳm của tâm linh
quả chứng hay ý lực chư Phật, Bồ tát; có lẽ đây là cơ sở để Mật giáo
phát triển về sau.
Lịch sử phát triển Mật tông đôi khi đã
có những xu hướng lệch lạc ra ngoài quỹ đạo hướng đến giải thoát theo lý
tưởng của đạo Phật. Bởi có sự biểu hiện thiên về phù phép, tà thuậtm...
làm cho uy tín của Mật giáo bị tổn thương nặng nề. Ngày nay, với sự nỗ
lực truyền bá Mật giáo hay Kim cương thừa của các bậc đại sư Tây Tạng đã
làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực của tông phái này. Kim cương thừa là một
con đường giải thoát đặc biệt của Phật giáo Phát triển.
* Nội dung
I. Lịch sử Mật tông
Mật giáo được thành lập vào thế kỷ thứ
VII ở vùng Nam Ấn với sự xuất hiện của bộ Kinh Đại Nhật (Mahàvairocana
sùtra). Đây là bộ Kinh căn bản của Mật tông. Ở Ấn Độ, giai đoạn mà Mật
giáo phát triển mạnh mẽ nhất là dưới thời các vương triều Pàla (750 -
1150) ở Bengale. Nhà vua Dharmapala (thế kỷ VII), người đã nhiệt thành
ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà, làm trung tâm truyền bá Mật giáo.
Ngài Long Thọ (Nagarjuna, 600 - 650)
được coi là vị Tổ sư của Mật giáo. Ngài thuộc dòng Bà la môn, thọ giới
tại Nalanda, sau đó đến Vương Xá tu 12 năm đắc thánh quả Đại thủ ấn tất
địa (Mahamudràsiddhi). Theo truyền thuyết, có lần Ngài gặp đứa trẻ chăn
cừu giúp Ngài qua sông; để đền ơn, Ngài thi triển thần thông giúp đứa
trẻ làm vua. Tranh tượng vẽ về Ngài có hình rắn phủ quanh đầu. Phật giáo
Tây Tạng cho rằng Long Thọ (thế kỷ VII) và Long Thọ luận sư (thế kỷ II)
là một, tức Long Thọ đầu thai trở lại. Ngài có đệ tử truyền pháp là
Long Trí.
Long Trí (Nagabodhi) là truyền nhân của
Ngài Long Thọ. Ngài dòng dõi Bà la môn, nhưng lại thường đi ăn trộm, khi
Ngài Long Thọ đang ở Tinh xá Suvarna, Long Trí đến rình xem thấy Ngài
Long Thọ đang ăn bằng một cái bát vàng, bèn nảy ý trộm lấy cái bát. Ngài
Long Thọ biết tâm ý của Long Trí, liền ném cái bát cho Ngài. Ngài kinh
ngạc và cảm phục bèn xin đi theo tu học. Ngài Long Thọ làm phép quán
đỉnh cho Ngài nhập môn. Sau 12 năm tu luyện, Ngài chứng ngộ thánh quả.
Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 663 - 723)
người Nam Ấn, tu học ở Nalanda. Năm 15 tuổi qua Tây Ấn học về Nhân Minh
luận với Ngài Pháp Xứng, sau đó tham học về Luật, Trung Quán luận, Du
già luận, Duy Thức luận,... sau cùng tu học và nghiên cứu Kim Cương Đỉnh
(Vajra Sekhàra) và các Kinh Mật giáo với Ngài Long Trí ở Nam Ấn 7 năm.
Năm 720, Ngài qua Trung Hoa, đến Lạc Dương truyền bá Mật giáo. Ngài được
coi như vị Tổ đầu tiên của Mật tông Trung Hoa đồng thời với Ngài Thiện
Vô Úy.
Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 750 -
774) là đệ tử xuất sắc của Ngài Kim Cương Trí. Ngài người Bắc Ấn, thọ Sa
di năm 15 tuổi, theo Thầy đến Lạc Dương thọ Tỳ kheo giới năm 20 tuổi.
Tu học 12 năm thông suốt Mật giáo. Sau khi Thầy mất, Ngài cùng với các
đệ tử qua Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim cương đỉnh Du già và Đại Nhật
thai tạng. Trở về Trường An với số Kinh điển đồ sộ, Ngài khởi công dịch
thuật. Ngài Bất Không Kim Cương là Quốc sư của ba triều vua Huyền Tông,
Túc Tông và Đại Tông.
Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637 - 735)
là đệ tử của Ngài Long Trí, tức là huynh đệ với Ngài Kim Cương Trí, từng
là vua xứ Orissa, tu học ở tu viện Nalanda, thâm hiểu Du già, chân ngôn
và ấn quyết. Ngài đến Trung Hoa năm 716, đời vua Huyền Tông, trước Ngài
Kim Cương Trí 4 năm và cũng được coi là vị Tổ sư của Mật tông Trung
Hoa, được vua Huyền Tông trọng đãi. Ngài dịch nhiều Kinh quan trọng của
Mật tông như Đại Nhật Kinh, Tô Tất Địa Yết La Kinh,... Đệ tử của Ngài có
các Ngài Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Trí, Nghĩa Lâm,...
Ngài Nhất Hạnh (638 - 727) quê quán ở
Thuận Đức, tỉnh Nhật Lệ, Trung Hoa, là người tinh thông Tam luận, Thiền
học, Thiên Thai,... đặc biệt tinh thông cả Thiên văn học. Khi Ngài Thiện
Vô Úy đến Trung Hoa, Ngài được truyền pháp "Thai tạng giới" của Mật
giáo. Ngài cùng với Thầy dịch Kinh Đại Nhật và trước tác bản sớ Đại Nhật
Kinh. Sau đó, Ngài cũng học với Kim Cương Trí, được truyền cho nghi quỹ
của Kim Cương giới. Ngài được lãnh hội cả hai phái của Mật giáo Ấn Độ.
Mật giáo Ấn Độ được khởi xướng và truyền
bá do các cao Tăng như Long Thọ, Long Trí, Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy.
Trên mặt giáo nghĩa và hành trì thì chia làm hai phái Chân ngôn thừa
(Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna), dựa theo tư tưởng của hai bộ
Kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Qua Trung Hoa, cả hai dòng hợp lưu ở
Nhất Hạnh, đường lối Mật tông Trung Hoa tổng hợp của lý luận và thực
tiễn. Mật tông phát triển mạnh và đã tạo nhiều ảnh hưởng đến nền văn hóa
nghệ thuật Trung Hoa, được các triều vua ủng hộ nên rất hưng thịnh.
Công đức truyền bá Mật giáo Trung Hoa do các Ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương
Trí, Bất Không, Nhất Hạnh, Vô Hành,...
Mật giáo được truyền vào Tây Tạng thế kỷ
VIII do Ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), người Ấn Độ, sống cùng thời
với vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755 - 797). Ngài đến Tây Tạng,
đem Mật giáo truyền bá và sáng lập tông phái Ninh Mã (Nyingmapa), một
trong bốn phái lớn của Mật giáo Tây Tạng. Ngài được coi là Đức Phật
Thích Ca tái thế, có tài chinh phục ma quỷ, thiên tai và các giáo phái.
Ngài xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) năm 775 và trước tác nhiều tác
phẩm quan trọng như bộ Tử thư,... Ngài là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng.
Sự truyền thừa của Mật tông Tây Tạng
không rõ nét và rất phức tạp; những bậc đại sư nổi bật đóng góp làm hưng
thịnh và sáng rỡ Phật giáo Tây Tạng sau Liên Hoa Sinh có Atisa (A Đề
Sa, 982 - 1054), thế kỷ X, Ngài người Đông Ấn, được mời sang Tây Tạng và
sống ở đó 12 năm, đóng góp rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng nói chung
và Mật giáo Tây Tạng nói riêng. Ngài sáng lập ra trường phái Kadampa
(Cam Đan) ảnh hưởng lớn Phật giáo Tây Tạng, trước tác Bồ Đề Đạo Đăng
luận, đặc biệt công trình sắp xếp hệ thống Kinh sách Phật giáo Tây Tạng,
lấy triết học Tánh không và Duy thức làm tư tưởng cho Phật giáo Tây
Tạng, điều đó ảnh hưởng đến các hệ tư tưởng Mật giáo Tây Tạng rất lớn.
Người cải cách nổi tiếng của Mật giáo
Tây Tạng là Tông Khách Ba (1357 - 1419), Ngài sinh tại Amdo, thuộc vùng
Đông Bắc Tây Tạng. Xuất gia khi còn nhỏ, tham học với nhiều vị đại sư
khác nhau, tư tưởng của Ngài ảnh hưởng của Atisa. Ngài sáng lập tông
phái Gelugpa (Hoàng Mạo phái), một tông phái quan trọng nhất của Tây
Tạng hiện nay. Ngài chủ trương xét lại toàn bộ Kinh điển và tổng kết
thành hai tác phẩm chính: Lamrin Chenmo (Bồ đề đạo thứ đệ) tiêu biểu cho
đường lối tu tập Hiển giáo, Ngagrim Chenmo (Chân ngôn đạo thứ đệ) tiêu
biểu cho đường lối tu tập của Mật giáo. Phật giáo Tây Tạng được chấn
chỉnh và phát huy rực rỡ nhờ Tông Khách Ba. Trước khi mất, Ngài phó chúc
cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama, tức Đạt lai Lạt ma và
Ban thiền Lạt ma; theo truyền thuyết thì hai vị này chuyển sinh để tiếp
tục cai trị Tây Tạng, được dân chúng coi là hai vị Phật sống. Mật tông
được Phật giáo Tây Tạng bảo tồn và phát triển, còn ở các nơi khác không
phát triển mấy.
II. Giáo nghĩa Mật tông
1. Mandala
Xuất phát từ tư tưởng của hai bộ Kinh
Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh, Mật giáo thiết lập hai Mandala: Thai tạng
giới Mandala và Kim cương giới Mandala.
Mandala, Hán dịch là luân viên cụ túc,
nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Đây là biểu tượng của vũ trụ và năng lực
trong vũ trụ được trình bày bằng các hình vẽ. Mandala, về mặt triết lý,
là cơ sở hợp nhất thế giới hiện tượng và thế giới bản thể, là đối tượng
của thiền quán. Trong ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là đàn tràng bằng
đất để hành giả bày biện các lễ vật hay pháp khí phục vụ cho nghi thức
hành lễ, cầu nguyện, tu luyện,...
Thai tạng giới Mandala (Garbhadhàtu
mandala) là yếu tố thụ động tâm linh, cũng có nghĩa chỉ cho vũ trụ về
mặt tĩnh, mặt lý tánh. Tác dụng lý tánh như thai mẹ chứa đựng đứa con,
từ lý tánh thai tạng mà xuất sinh mọi công đức.
Kim cương giới Mandala (Vajradhatu
mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ viên mãn, còn gọi là
trí thủy giác. Kim cương giới là trí tuệ nội chứng của Phật. Bí tạng ký
nói: "Thai tạng là lý, Kim cương là trí".
Như vậy, Thai tạng giới biểu hiện cho
bản thể Phật tính của mọi chúng sanh và Kim cương giới biểu tượng cho
trí tuệ viên mãn. Từ Thai tạng giới mà xuất sinh Kim cương giới theo
tiến trình nhân quả. Sự hợp nhất Kim cương giới và Thai tạng giới là sự
chứng ngộ tối thượng.
Đức Phật Đại Nhật (Tỳ Lô Xá Na) là biểu
tượng hợp nhất tối thượng, vũ trụ là sự hợp nhất viên mãn. Vì vậy, Đức
Đại Nhật chính là vũ trụ thân. Mật tông dựa trên cơ sở ấy cho rằng vũ
trụ thân là pháp thân và pháp thân biểu hiện trong mọi hiện hữu, sở dĩ
chúng ta không nhận thấy được vì tâm thức mê mờ, chúng ta chỉ thấy thế
giới là bất an và khổ đau vì thiếu trí tuệ Kim cương; trí tuệ Kim cương
có công năng là phá tan mọi chướng ngại pháp. Con đường trở về hợp nhất
với vũ trụ thân, nói cách khác, muốn đi vào quỹ đạo của pháp thân phải
có những tác pháp thiêng liêng, thể hiện sự gia trì giúp ta thể nhập một
cách sâu xa và phổ quát của pháp giới tính. Lý thuyết này có phần tương
tự với lý thuyết Bất tư nghì giải thoát trong Kinh Duy Ma Cật.
Mạn đà la có nhiều loại, tựu trung có 4:
a) Đại Mạn đà la (Maha mandala): vòng
tròn hội tụ các Đức Phật và Bồ tát, trình bày bằng hình vẽ hoặc điêu
khắc. Mạn đà la này biểu tượng cho tự thân của Phật và mối quan hệ giữa
tự thân Phật với toàn thể vũ trụ nên gọi là Đại.
b) Tam muội gia Mạn đà là (Samaya
mandala): vòng tròn hội chúng với những pháp khí trong tay tùy theo bản
nguyện của mỗi vị. Samaya dịch là bổn thệ, tức là xu hướng và khả năng
hóa hiện độ sanh của mỗi vị Phật, Bồ tát.
c) Pháp Mạn đà la (Dharma mandala): là
Mạn đà la của văn tự lý giải chân lý. Tất cả những lời Phật dạy, những
chân ngôn của Phật và Bồ tát đều bao hàm trong đó.
d) Yết ma Mạn đà la (Karma mandala): là
Mạn đà la bằng điêu khắc chạm trổ biểu hiện các động tác, các hành trạng
độ sanh của Phật và Bồ tát.
Tóm lại, Đại mandala là tổng thể pháp
giới, là tự thân của Phật; pháp môn mà chư Phật, Bồ tát thuyết gọi là
Pháp mandala; vũ khí mà chư tôn cầm trong tay là Tam muội gia mandala và
những hình ảnh của chư tôn gọi là Yết ma mandala. Bốn mandala này biểu
tượng cho năng lực thiêng liêng của Tam mật: thân mật, khẩu mật và ý
mật.
Trên đây là 4 mandala của chư Phật và Bồ
tát; ngoài ra, tất cả muôn loài, mọi hiện tượng đều có 4 mandala của
chúng, đại khái sắc tướng của chúng gọi là Đại mandala, đặc tính, khả
năng riêng của chúng là Tam muội mandala, danh từ để gọi chúng là Pháp
mandala, hành vi của chúng là Yết ma mandala. Điều cần chú ý là 4 mạn đà
la không độc lập, chúng có mối liên hệ duyên sinh và mặc dù Phật, Bồ
tát có mạn đà la riêng nhưng không tách rời mọi mạn đà la của pháp giới.
Vì vậy, Phật và chúng sinh là một, cùng chung thể tánh là sáu đại: Địa,
Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Sự khác nhau giữa Phật và chúng sanh ở
chỗ Phật thì tỉnh thức mà chúng sanh thì mê muội.
2. Mantra
Mantra là một số âm chứa đựng sức mạnh
của vũ trụ hay biểu hiện khía cạnh nào đó của Phật. Mantra chính là thần
chú, được đọc lặp đi lặp lại nhiều lần trong các buổi tu tập hành trì.
Định nghĩa về thần chú, Lama Govinda nói: "Chữ "thần" là tinh thần, tức
năng lực suy nghiệm; chữ "chú" là lời, là tiếng dùng làm công cụ biểu
diễn. Như vậy, "thần chú" là công cụ để suy nghiệm, là hiện tướng dẫn
khởi một ảnh tượng tinh thần. Thần chú vang lên kêu gọi nội dung của nó
nơi thực tại trước mắt một cách trực tiếp. Thần chú là năng lực chứ
không phải đơn thuần là ý kiến mà tâm trí có thể tránh trớ hay cãi lại.
Thần chú phát lồ, tự thị hiện như thế, như vậy đó. Chính ở nơi đây chứ
không phải bất cứ nơi đâu, lời nói là hành động mà sự thực hiện thì trực
tiếp và tức khắc" (Cơ sở Mật giáo, Trần Ngọc Sinh dịch, tr.14).
Thần chú còn gọi là Đà La Ni (Dhàranì),
Hán dịch là tổng trì, tức bao gồm tất cả, đó là những thần chú mang sức
mạnh siêu nhiên, thường thì Đà La Ni dài hơn thần chú (mantra). Đà La Ni
là biểu hiện khía cạnh chứng đắc của Phật hay Bồ tát được thấy trong
thiền định, biểu tượng hay ký hiệu hóa hình ảnh, nội dung chứng đắc ấy,
được lưu trữ và dễ dàng hiện hành khi gọi chúng trở lại. Chức năng Đà La
Ni không khác với thần chú. Mặt khác, tác dụng của thần chú hay Đà La
Ni được coi như là phương tiện để đạt được thiền định.
Một vấn đề cần nói rõ là hình thức của
thần chú hay cách đọc thần chú không phải làm cho ta thoát khỏi khổ đau
hay những nỗi bất hạnh hoặc tiêu trừ được nghiệp chướng; mà chính là nhờ
tâm trong sạch và thành thực mới cứu vớt được chúng ta, như Đại sư
Milarepa nói: "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không,
chư vị nên biết rằng: nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm"
(Sđd).
Sự hành trì và đọc tụng thần chú là một
trong ba khía cạnh thân mật, khẩu mật và ý mật. Đọc thần chú là khẩu
mật. Thần chú thường được nhiều người Phật tử đọc nhất, tiêu biểu là
thần chú "Om Mani Pad Mehum" được coi là của Ngài Quán Thế Âm. Thần chú
không phải là một công thức chết, cũng không phải là những sóng âm thanh
tác động vào thế giới siêu hình để kêu gọi năng lực trong vũ trụ. Thần
chú là một công cụ để biểu diễn tinh thần, thái độ tâm lý, tri thức, ý
chí và thành thực mới là những yếu tố quan trọng để biến thần chú thành
năng lực hay mời gọi các năng lực siêu nghiệm khác. Hơn nữa, thần chú
chỉ có thần lực với những ai đã trải qua kinh nghiệm do thụ pháp và hành
trì dưới sự hướng dẫn của một đạo sư (Guru).
Tóm lại, thần chú (mantra) là một phương
tiện trong những phương tiện mà Mật tông thực hành để thanh lọc tâm
linh và đạt được thiền định, sau cùng là hợp nhất và đồng hóa với vạn
hữu. Thần chú được coi là "mật" vì nó chứng tỏ mối liên hệ mật thiết bên
trong của sự vật hiện tượng, nhất là sự nối kết giữa vật chất và tinh
thần.
3) Tam mật tương ưng
Như đã nói, Tam mật là thân mật, khẩu
mật và ý mật. Theo Mật tông, để đạt được khả năng điều động năng lượng
vũ trụ hay năng lượng tâm linh thì phải thực hành nghi thức đúng phép
gồm cả ba lãnh vực của thân, khẩu, ý. Thân thể tác động qua điệu bộ,
nhất là của hai bàn tay, được diễn theo lời thần chú sẽ tạo nên thái độ
tâm linh phù hợp theo một điểm. Miệng đọc các mantra (thần chú), âm
thanh biểu tượng, là hiện tượng thiêng liêng làm cho rung động nội tâm
của hành giả. Tâm ý thì quán tưởng mandala, tạo thành một thể thống nhất
để thể nhập Tam mật của Phật.
Tam mật của Như Lai bản thể bình đẳng,
không giới hạn, có mặt khắp pháp giới, hay nói cách khác: mọi hình sắc
đều là thân mật, mọi âm thanh đều là khẩu mật, mọi lý đều là ý mật. Như
đã nói, thân Phật và thân vũ trụ là một nên quan điểm về thân mật trong
Mật giáo lấy tư tưởng trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm làm cơ sở.
Sự hiện hữu của thân không đơn giản là một hữu thể độc lập, mà có các
mối quan hệ mật thiết với thế giới bên ngoài, hay nói cách khác là với
cái không phải thân. Điều kiện mà thân tồn tại gồm cả pháp giới, gọi là
mọi hình sắc là thân. Tương tự trong Trung Bộ Kinh, Phật dạy quán sắc
uẩn bao gồm nội sắc, ngoại sắc, thô tế, liệt thắng, xa gần đều không
hiện hữu (vô ngã). Sự mầu nhiệm hay bí mật của thân là cái mầu nhiệm của
thân vô ngã.
Tương tự như thân, về ngữ mật thì mọi âm
thanh đều là ngữ mật. Thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới được
biểu hiện bằng ngôn ngữ, mọi thứ đều có tên gọi, mọi thứ đều được khái
niệm hóa qua ký hiệu ngôn ngữ, mọi vật đều được nhận thức và giải thích
qua mẫu tự và văn cú, ngôn ngữ diễn biến linh động để làm hiển lộ cái
mầu nhiệm bên trong, đó chính là sức mạnh của âm thanh. Mật tông cho
rằng thế giới được tạo ra bởi 14 nguyên âm và 33 phụ âm. Thể nhập thực
tại qua ngôn ngữ âm thanh là một phương cách đặc biệt của Mật tông.
Ý mật là sự cảm nhận một cách trực tiếp
của tâm. Đó là cái tâm thuần túy, không bị chi phối bởi các kiến thức,
không phải cái tâm suy nghĩa có đối tượng, mà tâm ấy nguyên vẹn đơn sơ
cảm nhận trực tiếp thực tại vô ngã, thực tại vô ngã ấy được cảm nhận qua
nhiều khía cạnh khác nhau. Thế giới tâm là một, Duy thức học gọi là thế
giới tánh cảnh. Tâm nhận thức trực tiếp những gì đang diễn ra như
thường nói: "Đương thể tức không". Đó là thực tại được cảm nhận một cách
tích cực.
Thực hành tantra (nghi thức) là tạo thế
cân bằng hòa điệu của thân tâm, rồi tạo mối quan hệ hay sự nối tiếp thân
khẩu ý các vị tương ứng với Tam mật của Phật, Phật cũng chính là vũ trụ
thân. Đó là sự thể hiện hòa điệu giữa con người và vũ trụ. Sự gia trì
Tam mật của Phật sẽ nhập vào Tam mật của ta. Đó gọi là Tam mật tương ưng
hay Tam mật Du già.
* Kết luận
Những gì được trình bày về Mật tông ở
trên chỉ là những nét phác họa sơ sài, còn nghĩa lý bí mật, phương pháp
thực hành tantra của Mật tông thì phức tạp vô cùng, cần phải nghiên cứu
sâu rộng và hành trì nghiêm túc may ra mới có cái nhìn chính xác và đầy
đủ.
Triết lý của Mật tông là triết lý của
Bát Nhã Ba La Mật (Prajnãpàramità) và giáo lý Hoa Nghiêm cộng với Duy
thức học. Sự phối hợp giáo lý siêu nghiệm với hình thức ấn, chú,
mandala... là một sự kết hợp đặc biệt. Vũ trụ, thế giới, con người, vạn
vật... đều mang một giá trị thiêng liêng đối với một hành giả Mật tông.
Nếu nhìn phớt qua các biểu tượng và nghi quỹ của Mật tông có vẻ như sự
thành tín sơ khai hoặc mê tín, nhưng chính thái độ tinh thần được thể
hiện qua nghi quỹ ấy lại là hiển lộ mối liên hệ giữa tinh thần và vật
chất, giữa con người và vũ trụ với những năng lượng vô cùng tận. Các
biểu tượng Mật tông rất dễ bị ngộ nhận và phê phán, tuy nhiên khi lặn
sâu vào biển tâm, ta mới khám phá ra được tác dụng và ý nghĩa của chúng,
chúng là những phương tiện diễn đạt những kinh nghiệm tâm linh sâu sắc
nhất của hành giả.
Triết lý và phương pháp hành trì của Mật
tông cơ bản vẫn xây dựng theo tiến trình Giới Định Tuệ như tất cả mọi
đường lối tu tập khác của Phật giáo. Nó có mối liên hệ khá chặt chẽ với
giáo lý Nguyên thủy và giáo lý Đại thừa. Sự khác biệt của Mật tông là ở
phương tiện để thể nhập thực tại (Tánh không, Vô ngã), đó là phương tiện
huyền bí.
Sự phát triển của đạo Phật tạo ra nhiều
tông phái khác nhau và các phương pháp hành trì khác nhau; đã là phương
tiện thì "đa môn", cho nên bất cứ phương tiện gì mà đưa đến niềm tin,
loại bỏ chướng ngại nội tâm, giúp cho tâm thực chứng giải thoát tối hậu
thì đều được sử dụng: Mật tông là một trong những phương tiện ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét