"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi
khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công
sức để truy cứu, tìm hiểu. Nhưng Vô Ngã lại là vấn đề quan trọng trong
giáo lý của Đạo Phật. Tại sao Đạo Phật lại chủ trương "Vô Ngã"?
Nếu nói Đức Phật chủ trương "Vô ngã" thì
quả thật tội nghiệp cho Đức Phật không biết là ngần nào! Đã nhiều lần
trong các Kinh điển Đức Phật thường nhắc đến "các Đức Phật trong ba đời
cũng đều hộ trì như vậy". Đức Phật nói điều đó là muốn cho chúng sinh
biết rằng con đường tiến đến quả vị Phật là con đường tự nhiên và tất
yếu phải đi qua những giai đoạn như thế. Con đường tu và giác ngộ nó
không khác trên căn bản, nhưng tùy theo tâm tính, cơ thể "bẩm sinh" mà
mỗi con người thực hành một cách có khác, cho nên mỗi con người, mỗi
chúng sinh gần như có mỗi một pháp môn khác nhau.
Chúng ta cũng cần lưu ý rằng Đức Phật
chỉ tự xưng là "Đạo sư" mà không là Giáo chủ, cũng không bắt người khác
phải theo ta, ngay cả giáo hội cũng không có một điều lệ, lời răn nào để
o ép một ai. Tất cả tin và theo chỉ là "tự nguyện". Tại sao như vậy?
Đức Phật đã từng là một con người như bao nhiêu người khác. Ngài có
nhiều tư lự, suy nghĩ về cuộc sống trần thế với sanh, lão, bệnh, tử; và
Ngài đã từ bỏ ngôi vị giàu sang phú quý, vợ đẹp con thơ để đi tìm đạo.
Ngài cũng đã không thỏa mãn với những gì mà Ngài học được từ những vị
danh sư; Ngài cũng thực hành pháp khổ hạnh. Nhưng cuối cùng do quyết tâm
của chính mình, Ngài đã ngộ được đạo dưới cội Bồ đề. Và từ đó, Ngài nói
về những chân lý, phương pháp mà Ngài đã cảm nhận được để hướng dẫn cho
con người làm theo cách đúng hầu tìm đến được sự Giác ngộ, tìm về với
Chơn tâm của chính mình; cho nên Ngài chỉ là một Đạo sư, người chỉ đường
cho người khác chứ không là một giáo chủ đầy quyền uy và ban phép cho
người khác. Còn cái "Chân lý" mà Ngài truyền đạt qua "cái biết" của tri
thức, "cái thấy" của Phật nhãn sau khi thành đạo Ngài gọi đó là chân lý
của giác ngộ. Đạo của Ngài truyền bá cho chúng sinh, con người là Đạo
Giác Ngộ (Phật).
Nếu thông thường chúng ta cứ gọi là Đạo
Phật thì chúng ta không thể nhận thức được trọn vẹn cái ý nghĩa của đạo;
mà khi chúng ta gọi là Đạo Giác Ngộ để thay thế chữ Phật thì chúng ta
mới thấy được cái ý trọn vẹn: Vì với Giác ngộ ta mới thấy là ta không bị
mê muội tin theo một tín điều; với giác ngộ ta mới thấy cái sáng suốt
của lý trí chúng ta khi chúng ta đến với giáo lý đạo Phật; và ta tin
theo cũng từ trong nhận thức của lý trí. Cho nên, những ai tin theo giáo
lý đạo Phật một cách thiếu nhận thức của lý trí thì hãy còn thiếu sót
khá nhiều. Đó là tính chất rất khoa học trong đạo Phật hay nói một cách
khác "Giáo lý đạo Phật không làm cho tín đồ phải mê muội tin theo, hoặc
làm cho tín đồ phải mù quáng mà đâm ra cuồng tín hoặc tin mà thiếu nhận
thức".
Trong "Phật học từ điển" của Đoàn Trung Còn đã ghi:
Phật: Bouddha (scr).-L' Illuminé (fr.)
Cũng đọc: Bụt. Đọc trọn: Phật đà (Bouddha). Phật là tiếng Phạn, dịch
nghĩa: Giác giả (Người Sáng-suốt). Ấy là tiếng để xưng bực Viên giác
(Giác ngộ hoàn toàn). Phật, Phật đà, tức là người đã tự giác, lại giác
ngộ cho chúng sanh, và hai cái hạnh tự giác và giác tha ấy ngài đã làm
trọn vẹn rồi. (Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn).
Con đường mà Đức Phật Thích Ca đã chỉ
trong Đạo Phật không phải là con đường tin để được giải thoát mà là con
đường thực hành để đến được "bờ giác", đến sự giác ngộ. Sau khoảng hơn
45 năm hành đạo và tùy theo căn cơ của từng chúng sinh hay từng nhóm mà
Ngài đã thuyết khác nhau. Vì thế mà có nhiều bộ Kinh được ra đời, nhưng
chung quy lại "Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả
thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác." (Kinh Kim
Cang). Mặc dù vậy, Đức Phật cũng nhắc nhỡ rằng: "Ta cũng như người dùng
ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng.
Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt
trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay" (Kinh Lăng Nghiêm) . Những kinh
điển, giáo lý mà Ngài rao giảng hoặc đã nói ra chẳng qua là phương tiện
để chỉ đường, hướng dẫn cho chúng sinh theo đó mà tu hành để đạt đến
giải thoát, chứ không phải để nghiên cứu. Nhưng thông thường vì kinh
điển của Ngài nói quá cao xa, do đó mà chúng sinh đã phải nghiên cứu
thật nhiều hầu hiểu rõ hơn để tìm được con đường tu tập cho đúng. Vô
hình chung là chúng ta mãi mê nghiên cứu ngón tay hơn là mục đích chính:
Nhìn để thấy được mặt trăng. Và cũng do nơi nghiên cứu và phương pháp
tu có sai biệt từ hoàn cảnh, môi trường, thời tiết, khí hậu... mà người
ta đã phân biệt tiểu thừa, đại thừa; thiền với tịnh; phương pháp của ta
hay, của người thì dở...Người ta đã quên rằng Đức Phật từng vạch rõ:
Chính từ cái "ngã" và với "cái tâm phân biệt" ấy mà chúng sinh đã rời
cõi Chân như để đi vào cõi luân hồi; bây giờ người ta lại hãy còn vẩn vơ
về hai chữ "Vô minh".
Cõi Chơn như là một tên gọi khác của
Niết bàn, hay còn gọi là Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, Yêm Ma
La Thức, Bồ Đề, Pháp Tánh... Nhưng đó chỉ là những danh xưng cùng chỉ về
một cảnh giới của người giác ngộ đã đạt được tùy theo khía cạnh của
từng đối tượng tu tập, hoặc nghiên cứu.
Nói như vậy, tức là Đức Phật không chủ
trương "Vô ngã" mà chính trong tự thể của từng chúng sinh nó đã là vô
ngã. Mà chỉ với Vô ngã, chúng sinh mới có thể nhập vào trong cùng một
cảnh giới "Chỉ một không hai" (Bất Nhị) tức là Niết Bàn hay bằng những
danh từ khác như trên. Nơi đó không còn có "Tâm Phân Biệt" và "Vọng Niệm
".
Đức Phật, trong Kinh Lăng Nghiêm, có
thuyết: "Từ nơi Chơn Tâm, vì hư vọng hiện ra các cảm giác thấy, nghe,
hay, biết. Do hòa hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do hòa hiệp vọng diệt đi",
và trong Kinh Viên giác Ngài nói rõ hơn: "Nầy Thiện nam, tất cả chúng
sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên đảo làm mê mờ tính "Viên
giác", như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Điên đảo vọng hiện ra
thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp
cái vọng niệm sanh diệt duyên theo bóng dáng của sáu trần cho là thật
tâm của mình" (Phật học phổ thông- khóa VIII- trang 16). Chính vì vọng
niệm, phân biệt mà chúng sinh đã rời cõi Chơn Như và mượn tứ đại: Đất,
Lửa, Gió, Nước tạo nên thân xác của mình. Ngoài ra, tâm còn mượn đến
Kiến đại để thành hình sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng
các thức; và nó cũng mượn đến hư không để thân xác được tăng trưởng và
lớn lên.
Theo như vậy, chúng ta thấy rằng trong
thân xác con người hay của chúng sinh chỉ là những vay mượn từ tứ đại
cho đến thức đại cùng hư không; thì thân xác ấy chẳng phải là thân thật
của mọi loài, vì khi chết đi thân tứ đại lại hoàn trả về cho tứ đại;
giác quan, các thức lại trả về cho kiến đại, hư không lại trả về cho hư
không. Thế thì sao được gọi là "Thường"? Cho nên cái thân xác ấy là Vô
Thường; cái "Ngã" của chúng sinh cũng chẳng là cái "Thật Ngã" của chúng
sinh. Thế cho nên cái "Ngã" ấy chỉ là cái "Giả Tạm" mà thôi!
Trong thế gian, người Duy vật thì cho
rằng con người được sinh ra và lớn lên chỉ một lần, chết là hết; cũng
giống như những người chủ trương đoạn diệt. Nhưng ý niệm đó không đơn
giản! Vì từ xưa đến nay đều có những hiện tượng xảy ra trong đời sống,
khiến người ta phải nghĩ đến vấn đề siêu hình và tái sinh: Một con người
kể chuyện thời xa xưa ở một địa điểm nào đó mà họ chưa từng tới, sau
khi truy tìm thì quả thật có như vậy. Điều ấy cho chúng ta suy nghĩ như
thế nào? Những con người chết đi sống lại kể chuyện ở cõi khác, hoặc
những hiện tượng kỳ lạ, ta phải suy nghĩ ra sao? Ngày nay những câu
chuyện tương tự như thế được sưu tập lại khá nhiều từ Đông sang Tây và
được in thành sách hay đăng tãi trong những tạp chí về khoa học huyền
bí, như vậy, giữa những kiếp người nó phải có một sự liên kết nào đó; mà
trong đạo Phật gọi cái chủ thể ấy là "Tâm", cái tâm của chúng sinh. Cái
Tâm ấy vì "Vô minh" do nơi có "vọng niệm" và "phân biệt" mà rời cõi
Chơn Tâm, rồi trầm luân vào cõi Luân hồi. Rồi với nghiệp báo khi còn
sống trong những kiếp trước đã tạo nên, chúng sinh lại càng chìm sâu vào
luân hồi và biển khổ mênh mông: Các nghiệp báo ấy "nhận chìm" chúng
sinh vào trong bể khổ.
Cái "ngã" về thân xác đã chỉ là giả tạm.
Cái ngã "Tâm" lại là "vọng tâm", cái vọng tâm ấy cần lau chùi, gột rửa
để tìm về "chơn tâm" trong sáng theo tự thể của nó, giống như tấm gương,
hay viên ngọc bị bùn nhơ, bụi bám làm lu mờ u tối phải được lau chùi:
Lau chùi để được trở lại trong sáng, sáng soi. Tấm gương, viên ngọc thì
cần đến người khác lau chùi. Còn nghiệp báo của con người, chúng sinh do
chúng sinh ấy tạo ra bằng từ hành động, lời nói, ý nghĩ của chính mình
qua lòng tham lam, sân hận và si mê mê muội; thì chỉ có chúng sinh ấy tự
gột rửa lấy mà thôi. Không một ai có thể thay thế hay làm hộ. Cho nên
chúng sinh, con người cần phải tu sửa cho đúng hơn, thiện hơn và đẹp
hơn. Đức Phật đã từ là một con người, một chúng sinh bình thường tìm
được con đường Giác ngộ Chơn lý; và Ngài chỉ lại con đường ấy cho mọi
người, chúng sinh. Ngài khẳng định trong các Kinh: Các Đức Phật trong
quá khứ, hiện tại hay trong tương lai cũng phải nương vào con đường ấy
mà về đến Niết bàn hay đạt đạo Vô Thượng Bồ Đề. Ngài đã đạt được thì mọi
chúng sinh cũng sẽ đạt được: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật
sẽ thành".
Nhưng sao phải Vô Ngã?
Đi tìm lại cái "Thật Tâm" của mình chưa
đủ, chúng sinh còn phải đoạn trừ mọi sát, đạo, dâm vọng. Vì tất cả các
món đó đều tạo nên nghiệp: Giết hại thì tất phải chịu bị giết trở lại,
nên còn phải có kiếp sau; như vậy vẫn phải bị luân hồi sinh tử. Trộm
cắp, gây ân oán, đau khổ cho người khác; lừa đảo, dối trá, gạt người thì
cũng phải trả món nợ mà mình đã vay, cho nên cũng không tránh được sự
luân hồi. Những đam mê về sắc dục, khiến người ta, chúng sinh lưu luyến
không từ bỏ cõi dục, thì cũng không thể rời cõi dục để đạt được đạo. Cho
nên, trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dặn dò cùng A Nan: Nếu không
đoạn trừ dâm dục sẽ đọa vào ma đạo; không dứt sát hại sẽ đọa vào thần
đạo; không bỏ trộm cướp thì đọa vào tà đạo và không trừ vọng ngữ thì
thành ma ái kiến, mặc dù chúng sinh đó có tâm trí diệu ngộ, thanh tịnh
đến đâu; và như thế tất cũng không đạt được đạo Bồ Đề.
Đó là những điều liên hệ đến cái "Ngã" thân xác. Còn đối với cái "Ngã" của "Tâm" thì sao?
Trong các Kinh Viên Giác, Kinh Kim Cang
Đức Phật nói đến các tướng Nhân, Ngã, Chúng sinh và Thọ Mạng tức là nói
đến cái "Tâm phân biệt" Ta, Người, Chúng sinh và cái "Tâm giới hạn" Thọ
mạng tướng. Đó là những "Vọng tâm" đã khiến chúng sinh tách rời khỏi
"Chơn Tâm" đi vào cõi Luân Hồi. Vì sao? Vì trong cõi Chơn Tâm mọi Tâm
thức của chúng sinh đều "Viên dung" (hoàn toàn dung hợp, hòa lẫn với
nhau, không loại trừ); và Chơn Tâm ấy lại Viên Dung cùng sáu đại khác là
Đất, Lửa, Gió, Nước, Kiến đại và Hư Không thành một thể. Thể ấy tuy
chung nhưng vẫn có cái riêng, trong mỗi cái riêng vẫn có cái chung theo
đúng như câu "Tất cả là một, một là tất cả". Đức Phật đã đưa ra một ví
dụ tương đối dễ hiểu là Tâm của mỗi chúng sinh trong vũ trụ vô biên
giống như ánh sáng của một ngọn đèn trong căn nhà, tâm của những chúng
sinh khác cũng là ánh sáng của những ngọn đèn khác cùng đặt trong cùng
căn nhà đó. Tất cả ánh sáng của những ngọn đèn đều chiếu sáng khắp căn
nhà, nhưng những ánh sáng từng ngọn đèn không bị lộn lạo lẫn nhau. Điều
này được ghi lại trong Kinh Viên Giác như sau:
"Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt
trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà,
nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau" (Phật Học Phổ Thông- Khóa
VIII- trang 51, 52).
Cái thuở các đại còn viên dung thì Thức
Tâm của mọi chúng sinh cũng viên dung trong cõi Chơn Tâm, nhưng do vì si
mê, không biết lý lẽ và sự việc (Vô minh) mà tâm của từng chúng sinh
sinh ra có vọng niệm, phân biệt mà tách rời nhau để rồi mượn tứ đại,
kiến đại và hư không cấu thành thân xác giả tạm, vay mượn nên mới có
sinh, lão, bệnh, tử và có luân hồi. Mỗi chúng sinh trở nên riêng biệt,
sống theo bản năng sinh tồn từng loài mà tranh đấu, chém giết, giành
giựt, lừa gạt...lẫn nhau bằng đủ mọi cách. Chính vì vậy mà tạo nên
nghiệp để rồi phải chịu theo luật nhân quả trong vòng luân hồi triền
miên.
Muốn thoát ra, chúng sinh phải tự mình
phấn đấu với mọi dục vọng, tham ái; phải dứt bỏ những nhân xấu, phát
triển nhân thiện bằng thực hiện con đường Đạo đế hay áp dụng những con
đường trong 37 phẩm trợ đạo, tức là những phương cách giúp đỡ người tu
thực hiện để đạt được đạo như: Tứ niệm xứ- Tứ chánh cần- Tứ như ý túc-
Ngũ căn- Ngũ lực- Thất bồ đề phần- Bát chánh đạo để tạo cho mình được sự
dũng mãnh, tinh tấn, cương quyết thoát khỏi vòng trầm luân, khổ ải hoàn
tất được con đường giải thoát, đạt đến Niết Bàn (Diệt đế).
Theo như vậy, chúng ta cũng có thể hiểu
rằng vì cái "Ngã" khởi đầu mà "Vọng niệm" và "Tâm phân biệt" khởi sinh,
cho nên muốn trở về với lúc ban đầu ta cần phải từ bỏ Tâm phân biệt và
vọng niệm, tức là chúng ta không thể thấy cái Ta của mình hơn Người mà
thấy cái Ta cũng như Người. Ta, Người cũng như mọi Chúng sinh và Ta,
Người, Chúng sinh mãi mãi hòa hợp, viên dung chứ không phải trong một
khoảng thời gian ngắn hay thật dài, hoặc trong một thời gian giới hạn
nào đó tức là Thọ mạng tướng vậy.
Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật đã nói về bốn tướng Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ mạng như sau:
-Nầy Thiện nam! Các chúng sanh đời sau,
bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu
hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được
Thánh quả" (Phật Học Phổ Thông- Khóa VIII- trang167).
Thấy "Cái Ta" (Ngã) hòa hợp chung với
Người (Nhân) và Chúng sinh (Chúng sinh) mãi mãi, vô cùng tận (Thọ mạng
tướng) tức là đã dứt bỏ đi cái Ngã hay nói đúng hơn là "Vô Ngã". Diệt
cái Ngã cá nhân để biến cái Ngã ấy viên dung cùng tất cả mọi cái Ngã của
chúng sinh và chung với các đại khác: Đó là một điều cần phải có trong
Đạo Phật để người tu hành đạt được đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Trong Kinh Kim Cang (Phật Học Phổ Thông- khóa XII), Đức Phật đã thuyết như sau:
-"Phải xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật". (Trang 109).
-"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu có người phát
tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm như vầy: Ta hóa độ tất cả chúng sanh,
nhưng không thấy có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ
Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã,
tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả, tức nhiên không phải là
Bồ Tát". (Trang 134-135). Và:
-"Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm
tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai
có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", thì Như Lai còn chấp bốn tướng Ngã, Nhơn,
Chúng sanh và Thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như
Lai thật không có độ chúng sanh nào cả". (Trang 168).
Nói tóm lại, sau khi thành Phật hay đúng
hơn trở thành Bậc Giác Ngộ, Đức Phật mới nói lại những Chân Lý đã có
không biết tự bao giờ và chỉ dẫn con đường để trở thành người giác ngộ
mà Ngài cũng như vô số Phật đã thành đạo trong thời quá khứ, hiện tại
đang thành cũng như những vị Phật trong tương lai sẽ thành phải trải
qua. Con đường đó không khác nhưng tùy theo mỗi con người, chúng sinh vì
trình độ có sai khác nên họ sử dụng phương pháp có khác nhau, nhưng
chung qui cũng đi đến mục đích giải thoát. Sự ra đời của Đức Phật có hai
mục đích chính: Một là chỉ rõ cho chúng sinh để chúng sinh được: Khai
(mở ra, biết)- Thị (thấy)- Ngộ (gặp, hiểu biết, nhận thức)- Nhập (thấm
vào, hiểu và thực hành) Phật Tri Kiến (những điều mà Bậc giác Ngộ thấy,
biết) như mục đích rõ ràng khi Phật thuyết về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Hai là hướng dẫn con đường, lối tu (Đạo sư) sao cho đúng và tùy theo
từng trình độ để chúng sinh có thể thực hành con đường giải thoát đi đến
kết quả và thoát được vòng sinh tử, luân hồi tìm về nơi an vui, hạnh
phúc, thường hằng. Thực ra con người, chúng sinh tu hành để thành Phật
chỉ là tìm con đường trở về nơi chốn cũ mà trước kia mình đã ra đi như
Đức Phật đã nói "chúng sinh vốn đã thành Phật từ xưa tới giờ" hay khi
thành Phật cũng như là thoát khỏi "giấc mộng ngày hôm qua". Sở dĩ như
vậy vì do Vô minh mà con người, chúng sinh mới đi vào cõi mộng. Giấc
mộng ấy không thật có cho nên những pháp để thoát khỏi giấc mộng mới
được xem là "huyễn ảo" mà thôi.
Chúng sinh bị rơi vào vòng trầm luân,
luân hồi vì do sự Vô minh, nhưng đó cũng là điều kiện để tôi luyện cho
chúng sinh thành bậc giác ngộ hiểu thấu rõ sự và lý để không bao giờ bị
Vô minh một lần nữa, giống như Đức Phật đã tỉ dụ: "Quặng vàng đã được
tôi luyện thành vàng thì không bao giờ trở thành quặng nữa".
Cuối cùng, điều kiện "Vô ngã" là điều
kiện tất có để chúng sinh có thể hòa nhập vào trong đại thể (sự viên
dung của Chơn Tâm cá nhân trong Thức Tâm, cũng như thức Tâm cùng với sáu
đại khác) của vũ trụ khi đã thành đạo Vô Thượng. Nếu không, "cái Ta ngã
mạn" sẽ tự đào thải mình nằm ngoài vòng đai của Đại thể, đôi khi Cái Ta
ngã mạn ấy biến chúng sinh thành một "nhân vật" đem nhiều tai họa đến
cho không biết bao nhiêu người bởi vì sự "Tẩu hỏa nhập ma" của chính
mình.
Bởi thế cho nên đi tìm Chân lý cũng thật là khó lắm thay!
Nguyên Thảo,
14-06-07.
14-06-07.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét