Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

THUYẾT GIẢNG KINH LUẬN-KINH PHẠM VÕNG


 
THUYẾT GIẢNG KINH LUẬN
Hòa Thượng Thích Duy Lực
Thích Đồng Thường Ghi Thành Văn
-o0o-
Giảng giải 
KINH PHẠM VÕNG

 -Giới Thanh Văn là giới tiệm thứ, tức là theo thứ lớp, từ giới từ giới mà thọ; như người nam thọ 5 giới, rồi thọ 10 giới, sau nữa là thọ 250 giới.-Giới Bồ Tát là đốn lập giới, tức là trước kia chưa có thọ giới nào cũng được thọ giới Bồ Tát. Trong kinh Phạm Võng nói: “Chư thiên, thái giám, ma, quỷ, thần,… đều được thọ giới, nếu nghe được tiếng của Pháp sư”.
Giới Thanh Văn: Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo Ni, phải có hình tướng rõ ràng; nam là nam, nữ là nữ, chứ không được nửa nam nửa nữ; nam không thành nam, nữ không thành nữ; như Thái Giám bị cắt mất nam căn, hay súc sanh, ma quỷ, tuy biến thành người cũng không được thọ.
Giới Thanh Văn là chỉ trì, tức là không làm là trì. Giới Bồ Tát có cái không làm là trì, có cái không làm là phạm. Giới Thanh Văn thân làm thì phạm, còn giới Bồ Tát có khởi niệm mới phạm, gọi là Tâm Địa giới. Giới Thanh Văn làm lợi mình, giới Bồ Tát làm lợi người.
Nếu không cho người chưa thọ giới Bồ Tát nghe những giới điều này thì sai lầm. Vì tất cả quỷ, thần, huỳnh môn, tôi tớ… đều được nghe và thọ, huống chi là loài người. Giới Thanh Văn khi thọ giới rồi mới cho biết giới điều, còn giới Bồ Tát phải giải thích cho biết trước, nếu đồng ý thì thọ giới; giới Thanh Văn phải thọ, khỏi cần giải thích giới điều trước.
-Phạm 10 điều trọng gọi là phạm ba la di; ba la di là cực ác, tức là tội cấp thứ nhất, theo Thanh Văn là tội tử hình thì Tỳ Kheo đó phải mất Tỳ Kheo; Tỳ Kheo Ni phạm ba la di là mất Tỳ Kheo ni, tức kiếp này không còn, muốn thọ lại, phải đợi kiếp sau. Theo pháp Tỳ Kheo hoàn tục, rồi xuất gia lại được 7 lần; còn Tỳ Kheo Ni hoàn tục, rồi không được xuất gia lại.
-Nếu giết người thì giới Thanh Văn phạm giới ba la di, còn giết súc sanh thì có thể phạm giới cấp 3 hay cấp 4. Tội giết người của giới Thanh Văn phải đủ 4 nhân duyên:
1/ Là đúng người. 
2/ Nó không phải người cho nó là người. 
3/ Có cố ý giết.  
4/ Giết đã chết.
-Tội trộm cắp cũng có đủ 5 nhân duyên, mới thành tội ba la di, 5 nhân duyên đó là: 
1/ Vật có chủ.  
2/ Tưởng là có chủ. 
3/ Giá trị của vật phải 5 chỉ (thời kỳ Phật, nếu trộm vật có giá trị 5 chỉ vàng thì bị tử hình theo luật nhà nước Aán Độ, vật đó giá trị dưới 5 chỉ thì tội giảm bớt. Bây giờ lại khác, tội trộm cắp không bị tử hình).  
4/ Có ý muốn trộm cắp. 
5/ Lấy vật rời khỏi chỗ.
Đủ 5 nhân duyên này thành tội ba la di, nếu không đủ 5 nhân duyên thì không thành tội.
-Tội dâm dục cũng phải có đủ 4 nhân duyên thành tội ba la di, 4 nhân duyên đó là:
1/ Có tâm dâm dục. 
2/ Có hoàn cảnh đầy đủ. 
3/ Nhập đạo (nam căn và nữ căn giao hợp).  
4/ Thọ vui sướng.
Nếu thiếu 1 trong 4 nhân duyên này thì không thành tội ba la di.
-Vọng ngữ gồm có: Đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ.
* Đại vọng ngữ là chưa chứng mà nói đã chứng, chưa có minh mà nói đã minh, cũng có 6 nhân duyên mới thành tội ba la di, 6 nhân duyên đó là:
1/ Thật không biết gì cả.  
2/ Nói chứng quả rồi.  
3/ Cố ý vọng ngữ.  
4/ Cố ý gạt người. 
5/ Mình cho nó là người.  
6/ Người đó nghe phải hiểu.
*Tiểu vọng ngữ là vọng ngữ thường, cấp thứ 4, như chuyện có nói không, chuyện không nói có.
-Tỳ Kheo phạm tội ba la di thì không cho sám hối. Nếu có chỗ cho sám hối thì phải săn sóc phụng sự 20 vị Tỳ Kheo thanh tịnh trong nửa tháng. Trong 20 vị Tỳ Kheo này, đều hoan hỷ thì cho đồng ý xuất tội; nếu 1 trong 20 vị Tỳ Kheo này không đồng ý thì không được xuất tội. Xuất tội là xuất tội địa ngục, chứ tướng Tỳ Kheo phải mất, địa ngục của tội ba la di là 921 ức năm.
-Tỳ Kheo Ni phạm ba la di cho sám hối, phải phụng sự săn sóc 20 Tỳ Kheo thanh tịnh và 20 Tỳ Kheo Ni thanh tịnh trong nửa tháng. Nếu 1 người trong 40 người này không đồng ý, thì không được sám hối xuất tội. Đây là giới luật Thanh Văn.
10 GIỚI TRỌNG
Chánh văn:
Đức Phật bảo các Phật tử rằng: Có 10 giới trọng, nếu người thọ giới Bồ Tát mà không tụng điều giới này, thời người ấy không phải Bồ Tát, không phải là Phật tử, chính ta cũng tụng như vậy.
Tất cả Bồ Tát đã học, sẽ học và đương học! Đã lược giảng xong tướng trạng của giới Bồ Tát cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì. 
Đức Phật dạy:
1- GIỚI SÁT SANH
Nếu Phật tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết: Nhơn giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết.
Phàm tất cả loài hữu tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Phật tử, lẽ ra luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
Giảng giải:
Phật nói: Phật tử tự giết tức là tự tử, cũng như giết người. Tự mình giết, dạy người giết, dùng các phương tiện giết, thấy người ta giết mình tán thán, dùng thần chú để giết, tạo nhân để giết, tạo trợ duyên để giết, nghĩ ra cách giết, hay chỉ nổi tâm tạo nghiệp giết người. Cho đến tất cả chúng sanh có thân mạng đều không được cố ý giết.
Theo giới Bồ Tát là hành đạo Bồ Tát cứu độ tất cả chúng sanh. Hai chữ “Bồ Tát” là tiếng phạn, dịch ra là giác hữu tình, tức là cứu độ chúng sanh, cũng là tâm từ bi. Tôi thường nói “tâm giác ngộ là bồ đề tâm, độ chúng sanh là từ bi tâm”. Từ bi tâm và bồ đề tâm là không phải hai thứ; bồ đề tâm lên 50 độ thì từ bi tâm cũng lên 50 độ, bồ đề tâm lên 100 độ thì từ bi tâm cũng lên 100 độ.
Giải thích thì thấy có hai thứ, nhưng kỳ thật không phải hai thứ. Nói đến thể dụng, bồ đề tâm là thể, từ bi tâm là dụng. Có từ bi tâm mới gọi là Bồ Tát cứu độ chúng sanh.
Nhưng hai chữ “từ bi” khác xa với hai chữ “bác ái”của ngoại đạo.
“Bác ái” của ngoại đạo là chấp ngã, trước hết phải có ta, như việc bố thí là của ta, rồi có ta thương xót rộng khắp đại chúng, gọi là bác ái.
“Từ” là vô duyên từ, tức là không có đối đãi, không có ta, không có người; không có ta làm từ bi cho ngươi, không có ngươi lãnh thọ từ bi của ta. Nếu có của ta của ngươi thì không phải từ bi.
“Bi” là đồng thể bi, tức là thể của ngươi cũng là thể ta; cái khổ của ngươi tức cái khổ của ta là cùng một thể. Cho nên, không có đối đãi mới là từ bi.
Từ bi không có sự chấp ngã, còn bác ái thì có chấp ngã, nên cách xa như trời với đất vậy. Chấp ngã không được giải thoát luân hồi sanh tử, còn phá chấp ngã thì được giải thoát luân hồi sanh tử.
Mình đã thọ giới Bồ Tát thì phải hành đạo Bồ Tát luôn có tâm từ bi, không có ngã để độ chúng sanh. Từ là ban vui cho chúng sanh, bi là cứu cái khổ cho chúng sanh.
Tâm hiếu thuận là luôn luôn không có ngã tướng, theo thế gian gian hiểu nghĩa ‘hiếu thuận’ lại khác, không được rộng khắp; còn hiếu thuận của Bồ Tát thì nghĩa rộng vô cùng, không có hạn chế. Trong Phật pháp có nói: “Tứ ân là ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân chúng sanh”. Trong giới Bồ Tát nói “mình phải hiếu thuận báo đáp 4 ân này”.
Kỳ thật, chỉ báo ân chúng sanh là báo ân luôn cả 3 ân kia, luôn luôn hiếu thuận cho tất cả chúng sanh, chứ không phải báo ân hiện tại cha mẹ của mình. Người thế gian chỉ có báo ân cha mẹ riêng của mình hay sư trưởng của mình.
Cho nên, mình phải nghĩ cách cứu độ chúng sanh, không những không cứu giúp chúng sanh, mà lại giết hại chúng sanh  thì Phật tử này phạm “Bồ Tát ba ladi tội”.
2- GIỚI TRỘM CƯỚP
Chánh văn:
Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp, nhân đến dùng bùa chú trộm cướp, nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp, nghiệp trộm cướp. Tất cả tài vật có chủ, dầu là của quỷ thần hay của giặc cướp, nhẫn đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật tử lẽ ra luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui, mà trái lại trộm tài vật của người. Phật tử này phạm "Bồ Tát ba la di tội".
Giảng giải:
Điều thứ 2 là trộm cướp, tại sao Phật tử tự trộm cướp? Tự mình nghĩ đem món đồ của mình cho người khác, nhưng sau nghĩ lại không cho, nên phạm tội trộm cướp. Vì giới Bồ Tát là giới Tâm địa, giới Thanh Văn thì không phạm; giới Bồ Tát có khởi tâm là phạm, đây gọi là tự trộm cướp.
Hay tự mình lấy đồ của người, cũng gọi là tự trộm cướp; làm phương tiện cho người trộm cướp, niệm thần chú khiến cho người trộm cướp; làm trợ duyên để cho người trộm cướp, nghĩ ra cách rồi chỉ cho người trộm cướp. Tất cả khi có nổi tâm tức là có nghiệp.
Ở đây nói “cho đến của quỷ thần, của có chủ một cây kim một cọng cỏ, không được cố ý ăn cướp”. Điều giới Bồ Tát thường có chữ “cố ý”, cố ý mới thành tội. Nếu không cố ý ăn cướp thì không thành tội, như đồ trong nhà của mình đã dùng quen, lấy dùng cũng không thành tội, hay đồ của bạn thân dùng qua dùng lại cũng không phạm, chứ không phải mỗi cái mà phạm. Nếu đồ của cha mẹ mình cất kín không cho mình biết, mà cố ý lấy thì phạm tội trộm cướp.
Mình hành đạo Bồ Tát là hiếu thuận tứ ân, trong đó từ chúng sanh đến chư Phật; hành đạo không nên có ngã, chỉ giúp cho chúng sanh được phước an vui thoát khổ. Trái lại, không làm như vậy mà trộm cướp tài vật của người khác, làm cho người buồn rầu đau khổ; Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
3- GIỚI DÂM
Chánh văn:
Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục, với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ cùng phi đạo mà hành dâm dục. Là Phật tử đối với tất cả không được cố dâm dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu thuận cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh dạy người, mà trái lại không có tâm từ bi, làm mọi người sanh việc dâm dục, không lựa súc sanh, cho đến hành dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân; Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
Giảng giải:
“Nếu Phật tử tự dâm”, tự dâm này, nam và nữ tự có. Người nam có thủ dâm, người nữ có thủ dâm nhưng ít hơn, hay lấy dụng cụ để làm dâm cho xuất tinh. Dạy người dâm, người nam đến với người nữ, hay người nữ đến với người nam, làm trợ duyên cho người dâm dục, nghĩ phương cách cho người thực hành, hay là nổi tâm dâm dục thì thành cái nghiệp dâm dục.
Không phải đối với người thôi, mà đối với súc sanh quỷ thần cũng vậy, cùng với phi đạo (phi đạo là không phải nam căn, chẳng phải nữ căn), hành độmg nơi nào ở trên thân đều là phạm dâm.
Theo hạnh Bồ Tát, tâm hiếu thuận cứu độ chúng sanh thì phải bố thí sự thanh tịnh cho người. Việc dâm dục là việc bất tịnh. Những điều sám hối có câu “phá phạm hạnh người khác”, chữ phạm là thanh tịnh. Giới luật nói “phá phạm hạnh” là phá giới lần thứ nhất, như Tỳ kheo cùng với người nữ dâm dục lần thứ nhất, tức là phá phạm hạnh. Nếu phạm giới dâm lần thứ nhì, lần thứ ba,…thì không phải là phá phạm hạnh, vì trước khi lần thứ hai lần thứ ba thì không còn thanh tịnh.
Phật tử thọ giới luôn giữ thanh tịnh cho người, mà trở lại phá phạm hạnh của người, làm cho người không được thanh tịnh, bất cứ là người, hay là súc sanh, mẹ, chị, em ở trong lục thân, nếu phạm dâm dục thì tội càng nặng thêm. Khi bắt đầu thọ giới, lúc hỏi giá nạn, nếu có phạm giới dâm trong lục thân thì không cho người ấy thọ giới. Cho nên, phạm giới dâm là không có từ bi, Phật tử ấy phạm giới ba la di của Bồ Tát. 

4- GIỚI VỌNG
Chánh văn:
Nếu Phật tử, mình nói vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, phương tiện vọng ngữ, cách thức vọng ngữ, nghiệp vọng ngữ. Nhẫn đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng ngữ, tâm vọng ngữ. Là Phật tử, lẽ ra luôn luôn phải chánh ngữ, chánh kiến, và cũng làm cho tất cả chúng sanh có chánh ngữ, chánh kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà ngữ, tà kiến, tà nghiệp, Phật tử này phạm “Bồ tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Vọng ngữ gồm có 4 thứ: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt.
-Vọng ngôn: Là có nói không, không nói có, nói dối gạt người.
-Ỷ ngữ: Là nói những lời nói có liên quan dâm dục của nam nữ, hay nói những lời hoa nguyệt.
-Ác khẩu: Chửi mắng người hay nói lời độc ác.
-Lưỡng thiệt: Nói lưỡi 2 chiều, đem chuyện người này nói với người kia, đem chuyện người kia nói với người này.
Tự mình vọng ngữ hay dạy người vọng ngữ. Giới Thanh văn có tiểu vọng ngữ và đại vọng ngữ, trong này bao gồm hết. Đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ đều ở trong 10 điều trọng. Vì hạnh Bồ Tát phải lợi tha, muốn lợi tha thì tự mình phải gương mẫu cho người, nếu mình vọng ngữ làm sao độ người không vọng ngữ được!
Cho nên, đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ đều không được. Tự vọng ngữ hay dạy người vọng ngữ, dạy người có phương tiện vọng ngữ, tạo cái nhân để cho người vọng ngữ, làm cái duyên giúp cho người vọng ngữ, hay là nghĩ cách gì để cho người vọng ngữ để gạt người, có nổi tâm vọng ngữ thành cái nghiệp vọng ngữ.
Theo hạnh Bồ Tát phải chánh ngữ, nói năng phải đàng hoàng, đúng đắn, có chánh kiến. Chánh kiến đối với tà kiến, trong Phật pháp phải có chánh kiến. Đại thừa phải phá ngã chấp, giới Bồ Tát là tập cho mình phá ngã chấp mới được giải thoát. Có lòng từ bi độ chúng sanh thì không có ngã, không được nghĩ là ta độ chúng sanh và có chúng sanh của ta được độ. Nếu thấy có chúng sanh để độ thì có ngã chấp, nên không được, như thế là chánh kiến; nếu còn có ngã chấp không gọi là chánh kiến.
Mình có chánh ngữ chánh kiến làm cho chúng sanh có chánh ngữ chánh kiến. Vì chánh ngữ chánh kiến được giải thoát cái khổ sanh tử luân hồi, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn. Trái lại, mình không làm như thế mà dạy cho chúng sanh tà ngữ, tà kiến, vọng ngữ đủ thứ, làm tà nghiệp. Bồ Tát là muốn chúng sanh thoát khổ, lại tự mình làm khổ và chúng sanh thêm khổ, thì phạm tội ba la di của Bồ Tát. 

5- GIỚI BÁN RƯỢU
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu: Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cánh thức bán rượu nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán, rượu là nhơn duyên sanh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Ngũ giới của giới Thanh văn, uống rượu thì phạm, còn bán rượu không phạm, vì không cho uống rượu. Giới Bồ Tát uống rượu là tội nhẹ, vì giới Bồ Tát là lợi tha, uống rượu chỉ hại tự mình chứ không hại đến người. Đáng lẽ, mình phải làm gương mẫu không uống rượu, mà dạy người ống rượu vậy làm sao được! Và bán rượu là hại người bị tội nặng.
Tự mình bán hay dạy người bán, làm cái nhân giúp cho người bán, hoặc làm trợ duyên giúp cho người bán; như không có chỗ, mình giúp cho người có chỗ để bán; không có vốn lại giúp vốn, đó là trợ duyên; hay là nghĩ cách bán làm sao cho đắc, nỗi tâm bán rượu để kiếm tiền cho nhiều cũng là tạo nghiệp bán rượu.
Tất cả rượu mình không được bán. Đáng lẽ, rượu không có tội, vì uống rượu làm say; nên phạm vào những tội: “sát, đạo, dâm, vọng”. Vì vậy, rượu làm cái nhân để người phạm tội nặng. Theo hạnh Bồ Tát là muốn cho chúng sanh được trí huệ sáng suốt, còn bán rượu cho người uống làm say mê thêm thì phạm giới cực ác của Bồ Tát.
6- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hoặc bảo rao nói những tội lỗi ấy: Nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi. Là Phật tử, khi nghe những lời ác, ngoại đạo cùng người Nhị thừa nói những điều phi pháp, trái luật trong Phật pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác ấy cho họ sanh tín tâm lành đối với Đại thừa, mà trái lại Phật tử tự mình rao nói tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
Giảng giải:
Nếu Phật tử thọ giới Bồ Tát  nói tội lỗi của tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di; hoặc là dạy người khác nói, hay làm cái nhân cho người nói, làm trợ duyên cho người nói, nghĩ cách sắp đặt cho người nói, nếu có nổi tâm muốn nói thành cái nghiệp. Nói lỗi này là cố ý  muốn phỉ báng.
Trong giới luật, ngày bố tát người nữ có thể chứng tỏ Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni phạm giới gì, việc ấy không phải phỉ báng, mà muốn bảo vệ luật. Bây giờ, nói giới và luật không có phân biệt; đáng lẽ giới là giới, luật là luật. Giới là giúp ích cho cá nhân, còn luật là giúp ích cho đoàn thể. Thí dụ giới là bảo hiểm cho cá nhân, còn luật là bảo hiểm cho đoàn thể; mà luật là bảo hiểm cái giới, nếu không có luật thì giới ấy không thi hành được. Hiện nay chỉ có giới, chứ không có luật; nên người trụ trì phạm tội ba la di không có ai can thiệp.
Theo giới luật thì phải có Tăng đoàn, nửa tháng để bố tát. Bố tát không phải chỉ tụng giới, mà làm việc, thọ giới,… cũng ở trong bố tát. Trước khi bố tát phải kiểm thảo, Chủ sự nói với đại chúng “ai có lỗi phải ra trước đại chúng phát lồ sám hối”. Nếu tự mình không nói ra, mà người khác biết phải nói ra trong chúng cử tội. Nếu biết không cử tội cũng phạm giới, tức là phú tàng (ngăn che).
Tỳ Kheo Ni ngăn che tội ba la di của bạn mình thì Tỳ Kheo Ni ấy cũng phạm ba la di.
Nếu có người nữ được mọi người tin tưởng, đến báo với Tăng đoàn rằng: Tôi đã thấy một Tỳ Kheo phạm tội gì đó… có thể phạm ba la di, có thể phạm tội cấp 2, cấp 3,… người nữ ấy không có lỗi với tứ chúng mà lại có công. Bởi vì giúp cho luật bảo vệ giới được tốt.
Nếu nói lỗi của tứ chúng, mục đích để phỉ báng mới phạm tội. Còn mình đã biết người kia phạm tội, rồi nhắc nhở người kia không nên phạm nữa, thì mình không phạm tội nói lỗi của tứ chúng. Vì đó là thiện ý chứ không phải ác ý, không phải nói lỗi là phạm giới.
Đệ tử của Phật nghe kẻ ngoại đạo và Nhị thừa phỉ báng Đại thừa còn không được, huống chi mình hành đạo Bồ Tát lại hủy báng nói lỗi của tứ chúng; vậy làm sao giáo hóa chúng sanh? Vì trách nhiệm của Bồ Tát là giáo hóa chúng sanh, làm cho chúng sanh giác ngộ được tự do tự tại. Nếu nói tội lỗi của tứ chúng thì phạm tội ba la di của Bồ Tát.
7- GIỚI KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
Chánh văn:
Nếu Phật tử tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người: Nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người. Là Phật tử, lẽ phải thay thế những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sanh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật tử tự phô dương tài đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê; Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
Giảng giải:
Giới Bồ Tát là lợi tha, chính mình phải phá ngã chấp; nếu tự khen mình chê người là tăng thêm ngã chấp. Lợi tha là muốn chúng sanh giải thoát, nếu tự mình có ngã chấp thì không được giải thoát, làm sao độ chúng sanh được giải thoát?
Làm hạnh Bồ Tát thì mình phải hy sinh để độ chúng sanh, tức là thay cho chúng sanh chịu những điều cực khổ, việc tốt nhường cho người, việc xấu mình chịu. Nhưng trái lại, nếu làm nhân, làm duyên, hay làm phương cách… như trên đã nói, khen mình chê người, lại tăng thêm ngã chấp, nghịch với hạnh Bồ Tát thì thành tội ba la di.
8- GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự mình bỏn sẻn, bảo người bỏn sẻn: Nhân sẻn, duyên sẻn, cách thức bỏn sẻn, nghiệp bỏn sẻn. Phật tử khi thấy những người bần cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ; mà Phật tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy, có người cầu học giáo pháp, cũng chẳng nói một kệ một câu, lại còn xua đuổi quở mắng. Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
Giảng giải:
Trong này gồm có 2 thứ: Bỏn sẻn tài hay bỏn sẻn pháp đều là phạm tội.
Bồ Tát phải phá ngã chấp, rồi giáo hóa chúng sanh được phá ngã chấp. Bồ Tát có Lục Độ và Tứ Nhiếp Pháp, trong này đều có điều thứ nhất là bố thí: Bố thí tài và bố thí pháp.
Thấy người nghèo đến xin, mà mình bỏn sẻn không cho, lại sanh tâm sân ghét, đuổi người ta đi thì phạm điều này, hay người ta đến cầu pháp cũng như vậy. Bố thí pháp thì công đức lớn hơn bố thí tài pháp rất nhiều, bỏn sẻn pháp nên tội cũng lớn.
Nếu hành đạo Bồ Tát, người ta xin thứ gì đều cho theo tinh thần vô ngã. Nhưng bây giờ mình thọ giới Bồ Tát là đang học hạnh Bồ Tát, có sức tới đâu thì làm tới đó; như người ta xin tiền thì tùy theo sức mình mà cho, đừng để người xin về tay không; hay mình không có cái gì để cho thì phải phát tâm tùy hỷ, nên không có phạm giới. Nếu mình không cho mà lại mắng đuổi người ta, thì phạm điều giới ba la di này.
9- GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
Chánh văn:
 Nếu Phật tử, tự mình giận, bảo người giận: Nhân giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp giận. Người Phật tử lẽ ra làm cho tất cả chúng sanh được những căn lành không gây gỗ; thường có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả chúng sanh, cho đến trong loài phi chúng sanh, đem lời ác mạ nhục, còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ, cho đến nạn nhân kia lấy lời xin lỗi, cầu sám hối tạ tội, nhưng vẫn không hết giận; Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
Giảng giải:
Nói đến Phật pháp, luôn luôn phải phá ngã chấp; nhất là giới Bồ Tát chuyên phá ngã chấp, nếu mình nổi sân thì đã có ngã chấp. Tất cả chúng sanh đều phá ngã chấp, thì không có việc tranh luận để đưa đến sân hận đấu tranh. Nếu có nổi tâm sân hận, phải biết lỗi của mình để sám hối. Đã có lỗi sân, mà mình không chịu nghe người ta khuyên, để sám hối thì phạm tội này.
Tâm từ bi và tâm hiếu thuận đều phá ngã chấp, tức là phụng sự cho tất cả chúng sanh; mình đã không phụng sự cho tất cả chúng sanh, lại nổi tâm hờn giận chúng sanh, còn có thêm ác khẩu chửi mắng, đánh đập,… người ta cầu xin lỗi, lại mình không cho xin lỗi, mình cứ giận hờn không nguôi thì phạm giới ba la di này.
 10- GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự mình hủy báng Tam bảo, xúi người hủy báng Tam bảo: Nhân hủy báng, duyên hủy báng, cách thức hủy báng, nghiệp hủy báng. Phật tử nghe một lời hủy báng Tam bảo của ngoại đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống là tự mình hủy báng! Không có đức tin và lòng hiếu thuận đối với Tam bảo, lại còn giúp sức cho kẻ ác, kẻ tà kiến hủy báng nữa; Phật tử này phạm “Bồ Tát ba la di tội”.
Giảng giải:
Tam bảo gồm hai thứ: Thường trụ Tam bảo và Tự tánh Tam bảo.
-Người quy Tam bảo gọi là quy y thường trụ Tam bảo, theo sự giáo của Thường trụ Tam bảo, rồi thực hành theo để ngộ Tự tánh Tam bảo, cũng gọi là ngộ Tự tánh chính mình, giải thoát tất cả khổ, được tự do tự tại vĩnh viễn.
-Tại sao gọi là Thường trụ Tam bảo? Tam bảo gồm có: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.
Phật tiếng Aán Độ là Phật Đà, dịch ra là giác giả (giác ngộ), trong đó gồm có: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn; tức là mình giải thoát tự do tự tại, cũng giải thoát cho người được tự do tự tại, nên gọi là giác hạnh viên mãn, nhưng bao gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai. Bây giờ, mình quy y phải có hình tượng Phật để tượng trưng cho Phật bảo. 
  
Mình muốn giác ngộ thì phải có phương pháp, pháp của Phật dạy gồm có 84.000 pháp môn, tùy theo căn cơ trình độ thích ứng của mọi chúng sanh, quy nạp có 4 pháp môn: “Tham thiền, niệm Phật, trì chú, quán t 
ưởng”, đó là phương pháp tu hành gọi là Pháp bảo. Nhưng lấy gì để tượng trưng? Lấy kinh của Phật để tượng trưng cho Pháp bảo. 
 Tăng tiếng Aán Độ là Tăng Già dịch là hòa hợp chúng, tức là nhiều người thanh tịnh hòa hợp lại thành Tăng; theo quy định là 4 người trở lên mới thành Tăng, còn 3 người trở xuống không gọi là Tăng. 
  
Hoàng Nhất luật sư nói: “Gần đây, mọi người chỉ quy y nhị bảo và giao thiệp với một Đại đức”. Bởi vì, họ quy y rồi chỉ nhìn nhận một thầy của mình, chứ không nhìn nhận cả chúng Tăng là thầy của mình. Tất cả Tăng chúng thay thế cho Tăng bảo, nhưng thầy của mình quy y đại diện cho Tăng bảo để chứng minh; người này đã quy y Tam bảo là đệ tử của Tam bảo, chứ không phải đệ tử riêng của một vị thầy. 
  
Tăng ở trong Tam bảo cần nhất, nếu có Phật bảo, có Pháp bảo, mà không có Tăng bảo thì Phật pháp tiêu diệt. Như Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, nếu không có Tăng từ mỗi đời tiếp nối thì Phật pháp tiêu diệt từ lâu; có Tăng bảo mới có Phật bảo và Pháp bảo, nhưng bây giờ người ta không chú trọng Tăng bảo, ấy là sai lầm. 
  
Trách nhiệm của Tăng, như Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh. Cho nên, giới luật có quy định: Tỳ kheo chưa đủ 10 tuổi hạ không được rời thầy, Tỳ Kheo Ni chưa đủ 12 tuổi hạ không được rời thầy. Thầy bổn sư có trách nhiệm dạy người đó, nếu không biết dạy người đó thì phải bị tội. Bởi vì, xuất gia rồi không biết gì để dạy chúng sanh, nên có thể phá hoại Tam bảo. Vậy làm sao đứng trong hàng ngũ Tăng bảo? Cho nên, quy định Tỳ Kheo phải biết giới Tỳ Kheo, giới Tỳ Kheo Ni và có chánh ngữ chánh kiến về Phật pháp. 
  
Cái tệ bây giờ, có người xuất gia được nửa năm, một năm, rồi lạc quyên tiền xây chùa, tự mình làm trụ trì; cũng có người chưa xuất gia, làm chùa xong, rồi mời thầy cạo đầu mình, làm lễ xuất gia và trụ trì luôn. Việc ấy trái ngược giới luật, phá hoại Tam bảo. 
  
Cho nên, nghĩa hủy báng Tam bảo rất rộng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hư tiêu Tín thí, lạm nhận cung kính là tội địa ngục”. Nếu mình không chân thật tu hành, nhận sự cúng dường của Tín thí là hư tiêu Tín thí. Người ta cung kính mình, không phải vì mình cạo đầu, mặc áo cà sa; người ta cung kính Tam bảo là muốn sự giáo hóa của Tam bảo, cho mình và chúng sanh được giải thoát. 
  
Phật pháp làm lợi ích cho chúng sanh  được tu chánh pháp, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn giải thoát, ấy là mục đích của Tam bảo. Nếu mình không chân thật tu hành, tự độ mình chưa được, làm sao độ chúng sanh! Tức là hư tiêu Tín thí. Còn mình lạm dụng hình tướng Tăng để nhận sự cúng dường của người, đều phải bị đọa địa ngục, chưa nói đến việc phá giới. 
  
Cho nên, giới hủy báng Tam bảo, không phải chỉ miệng nói hủy báng mà cái nghĩa nó rất rộng. Ở đây nói, nếu Bồ Tát nghe kẻ ngoại đạo và người ác dùng lời ác hủy báng Tam bảo, như 300 mũi giáo đâm chỉa vào tim mình. Trái lại, tự mình hủy báng Tam bảo thì mắc tội ba la di của Bồ Tát. 
  
Hiện nay, nhiều Phật tử không hiểu Phật pháp là do Tu sĩ không có trách nhiệm, vì lạm thu đệ tử xuất gia, đã tự mình không biết giới luật, không có chánh kiến Phật pháp, lấy gì để dạy đệ tử? Cũng như ban đầu sữa nguyên chất, rồi sau pha thêm nước, sau nữa hoàn toàn là nước không có sữa. Bây giờ, muốn khôi phục Phật giáo như xưa thì phải xây xựng Tăng bảo, mà hiện nay không có Tăng đoàn, tự mình làm chùa nhỏ để trụ trì, có phạm ba la di tội cũng không có ai can thiệp được. Nhưng người ta vẫn cung kính cúng dường, vậy Phật pháp làm sao khỏi bị tiêu diệt! 
  
Nếu thường trụ Tam bảo bị hủy hoại thì không thể hy vọng ngộ nhập được Tự tánh Tam bảo. Nếu không ngộ nhập được Tự tánh Tam bảo thì không được giải thoát. Được người tôn xưng là Tăng bảo, người xuất gia chúng ta hãy tự kiểm điểm chính mình, có xứng đáng là Tăng bảo hay chưa? 
  
Nếu có nhân duyên tổ chức thành Tăng đoàn, rồi Tăng đoàn tổ chức thành luật của Tăng đoàn mới bảo vệ được giới. Luật là bảo vệ giới, giới là bảo vệ mình; ở trong luật gồm có giới, mà giới không thể gồm có luật.
Hỏi: 
  
Trước khi thọ giới Bồ Tát thì phải nghe giảng giới Bồ Tát. Tại sao khi tụng giới lại không cho người chưa thọ giới Bồ Tát nghe?
Đáp: 
  
Phải cho nghe hết. Tụng giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không cho nghe đối với người chưa thọ giới này. Còn giới Bồ Tát thì tất cả mọi người đều được nghe. Kinh Phạm Võng nói: “Tất cả ma, quỷ, huỳnh môn, súc sanh,… nghe được lời Pháp sư mà lãnh thọ”, huống chi là người! Nếu thọ được thì phải được nghe.
Hỏi: 
  
Ở trong Tăng vấn hòa có hỏi: “Trong đây có ai chưa thọ giới Bồ Tát và không thanh tịnh ra chưa? Trả lời: Trong đây chưa ai thọ giới Bồ Tát, hoặc đã ra rồi”. Như vậy, chứng tỏ người chưa thọ giới Bồ Tát không được nghe giới Bồ Tát?
Đáp: 
  
Đó là việc sai lầm, lúc bạch tứ yết ma tức là tác pháp để làm việc. Lúc yết ma có thể người không có quan hệ thì không cho nghe. Vì yết ma có thể trị tội Tăng sĩ, tức là theo tội để phán tội Tăng sĩ; không cho những người có quan hệ, như cư sĩ để biết tội của Tăng sĩ do Tăng đoàn xử. Cho nên, mới hỏi những người không có quan hệ ra trước, chứ không phải tụng giới không cho nghe. 
  
Bây giờ, cũng có nhiều cư sĩ thọ giới Bồ Tát xuất gia, thọ được thì nghe được, làm sao không được nghe? Giới Bồ Tát là đốn lập giới, tức là trước kia chưa thọ giới gì cũng được thọ. 
  
Giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nếu có trường hợp nào, cư sĩ cũng có thể nghe biết; chứ không phải nhất định là không cho cư sĩ nghe biết. Vì sợ cư sĩ biết chư Tăng phạm giới luật, nổi tâm khinh mạn Tam bảo nên cấm không cho nghe. 
  
Còn giới Bồ Tát thì người xuất gia hay tại gia đều được nghe, làm sao không cho nghe? Thành ra mâu thuẫn, không cho nghe là pháp yết ma, chứ tụng giới sao không cho nghe! 
  
Người chưa thọ giới Bồ Tát đều được nghe giảng giới Bồ Tát. Giới Bồ Tát là phá ngã chấp, muốn giúp đỡ chúng sanh. Người nào có tâm là có tư cách thọ giới Bồ Tát, chứ không phải như giới Thanh Văn phải đúng người mới được thọ; không phải người, ma quỷ, súc sanh thì không được thọ. Còn giới Bồ Tá, ma quỷ, súc sanh đều được thọ, mà trước kia chưa thọ giới gì; trước kia chưa quy y Tam bảo thì quy y Tam bảo thì thọ liền, vì thọ giới nào cũng có tam quy hết. Cho nên, gọi là đốn lập giới, không phải tiệm thứ của giới Thanh Văn. 
  
Tam tạng là kinh, luật, luận; người thông suốt kinh gọi là kinh sư, người thông suốt luật gọi là luật sư, người thông suốt luận gọi là luận sư. Bây giờ, Tăng bảo thiếu luật sư, ít có người phát tâm học luật. Theo Tăng đoàn, người nào thọ giới rồi thì phải sống trong Tăng đoàn. Khi Phật giáo sang Trung Quốc có sáng lập phái luật tông. Muốn làm luật sư thì phải học giới luật. 
  
Sau này, ít có người phát tâm học luật, mà người hoằng luật thì người ta ít kính trọng vì họ không thích. Các vị thuyết pháp, người nghe lại đông; còn giảng giới luật thì ít có người đến nghe. Nhưng nếu không có luật thì không có pháp, Phật pháp bị tiêu diệt; vì khi Phật nhập Niết Bàn, trước đó có dặn dò đệ tử phải lấy giới luật là thầy; mà bây giờ không chú trọng đến luật, nên Phật pháp dần dần tiêu mất. 
  
Hiện nay, chỉ có phần giới, không có phần luật. Theo Tăng đoàn có việc gì phải qua pháp yết ma, pháp yết ma là ở bên phần luật. Nếu Tỳ Kheo không biết giới luật Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni không biết giới luật của Tỳ Kheo Ni; vậy làm sao giữ giới? Vì người thầy lạm nhận đệ tử xuất gia không dạy đệ tử, nên thầy đó phải bị tội; cũng là phá hoại Phật pháp, hủy báng Tam bảo. Đó là phá hoại cái gốc, còn dùng miệng để hủy báng là hủy báng bên ngoài.
48 ĐIỀU GIỚI KHINH
Chánh văn: 
  
Đức Phật bảo các vị Bồ Tát rằng: Đã giảng 10 giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói 48 giới khinh:
1- GIỚI KHÔNG KÍNH THẦY BẠN
Nếu Phật tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc Vương, ngôi Chuyển Luân Vương hay sắp lãnh chức quan, trước nên thọ giới Bồ Tát. Như thế tất cả quỷ thần cứu hộ thân vua và thân các quan, chư Phật đều hoan hỷ.
Đã đắc giới rồi, Phật tử nên có lòng hiếu thuận và cung kính. Nếu thấy có bực Thượng tọa, Hòa thượng, A xà lê, những bậc Đại đức đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp mà cúng dường, hoặc tự bán thân quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bực ấy. Nếu Phật tử sanh lòng kêu mạn, sân hận ngu si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y pháp mà cúng dường, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải:
Chuyển Luân Vương có 4 cấp: 
-Kim Luân Vương cai trị hết 4 đại bộ châu (1 tiểu thế giới có 4 đại bộ châu). 
-Ngân Luân vương cai trị 3 bộ châu. 
-Đồng Luân Vương cai trị 2 bộ châu. 
-Thiên Luân vương cái trị 1 bộ châu. 
Chuyển Luân Vương là phi hành (biết bay), mắt của mình không thấy được. 
Quốc Vương là vua của loài người trong một nước. Chuyển Luân vương là mình chỉ nghe thấy chứ không thấy.
Hai chữ “Bồ Tát” là tiếng Aán Độ, nói cho đủ là “bồ đề tát đỏa”, dịch ra là giác hữu tình, tức là giác ngộ chúng sanh. Giác này gồm tự giác, giác ngộ chúng sanh là giác tha. Hành đạo Bồ Tát là làm cái nhân để thành Phật. Nếu làm cho chúng sanh được giác ngộ cũng là tăng phước đức của mình, giúp cho người được giác ngộ.
Cho nên, tất cả chúng sanh muốn thành Phật, đều phải hành đạo Bồ Tát. Chuyển Luân Vương, Quốc Vương, bá quan, kiếp trước đã gieo trồng thiện căn, nên được làm vua làm quan, học có sẵn phước đức, muốn thành Phật thì dễ hơn.
Tại sao muốn thành Phật? Vì thành Phật thì vĩnh viễn hết tất cả khổ, nếu không thành Phật thì cái khổ không thể dứt được. Vì vậy, ở đây nói “khi được ngôi vua hay ngôi quan, trước hết phải thọ giới Bồ Tát”. Bởi vì, người nào cũng muốn được tự do tự tại giải thoát cho mình và giải thoát cho người; hai cái tương nhân với nhau, mình tự giác rồi lại giác tha. Giác tha cũng giúp cho mình được giác ngộ; tự giác là tự lợi, giác tha là lợi tha. Kỳ thật, lợi tha cũng là tự lợi, tự lợi cũng là lợi tha. 
  
Giới Bồ Tát là tập cho mình phá ngã chấp, phá được ngã chấp thì hết cái khổ sanh tử luân hồi. Hành đạo Bồ Tát là tự lợi cũng là lợi tha, 48 điều khinh phần nhiều nói về lợi tha. Nếu mình thọ giới Bồ Tát thì quỷ thần, hộ pháp ủng hộ, chư Phật cũng hoan hỷ. Đã được giới rồi thì phải có tâm hiếu thuận. 
  
Tâm hiếu thuận và tâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian. Hiếu thuận thế gian chỉ hiếu thuận cha mẹ và sư trưởng, còn Phật pháp là hiếu thuận tứ ân (ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng và ân chúng sanh). 
  
Hiếu thuận cha mẹ là chỉ một ân trong tứ ân, hiếu thuận chúng sanh gồm tứ ân; vì cha mẹ, sư trưởng và Phật đều ở trong chúng sanh. Tâm hiếu thuận là mình phát tâm độ chúng sanh được giác ngộ, nên đối với cha mẹ và sư trưởng đều phải cung kính. 
  
Vậy, gặp Hòa thượng, Thượng tọa, A xà lê (Thượng sư), bạn thân, người đồng kiến, đồng hạnh (như tham thiền với nhau gọi là đồng tham, tức là đồng hạnh), mình gặp phải đứng dậy nghinh tiếp; các vị lớn hơn, như: Hòa Thượng, Thượng tọa gặp thì phải lễ bái hỏi thăm. Trong thời của Phật, có người gặp vị Thượng tọa lễ bái, chấp tay hỏi thăm “Thượng tọa có ít bệnh, ít phiền não, an lạc không”? Ở bên người Hoa chỉ có xá chào, chứ không có hỏi. Đáng lẽ ra phải vấn tín (hỏi thăm). 
  
Trong này nói: “Bán thân, bán con trai, bán con gái,…” là có ý tận sức cúng dường, tùy theo sức mình cúng dường Tam bảo, vì mình đã quy y Tam bảo, cần sự giáo hóa của Tam bảo, theo đó mà thực hành đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn, giải thoát tất cả khổ. Cái ân đó rất lớn, nên mình tận sức mà cúng dường. Nếu không biểu thị cung kính, mà sanh tâm ngã mạn, hoặc còn nổi sân lên, không theo pháp cúng dường thì phạm tội khinh này.
2- GIỚI UỐNG RƯỢU
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra vô lượng tội lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo: Năm trăm đời không tay, uống là tự uống. Cũng chẳng đặng bảo người và tất cả chúng sanh uống rượu, uống là tự mình uống! Tất cả thứ rượu, Phật tử không được uống. Nếu mình cố uống cũng bảo người uống, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Cư sĩ thọ 5 giới, trong đó có một giới uống rượu, không có giới bán rượu, tức là uống rượu thì phạm và bán rượu thì không phạm. 
  
Giới Bồ Tát lại khác, bán rượu tội nặng, uống rượu tội nhẹ, vì uống rượu chỉ hại mình, còn bán rượu thì hại người. Giới Bồ Tát là lợi tha, mà nghịch lại hại người khác, cho nên tội nặng. Ở trong 10 điều trọng không được bán rượu, còn ở đây uống là tội khinh. 
  
Phật tử thọ giới Bồ Tát không được uống rượu. Rượu không có tội lỗi, nhưng uống rượu say rồi có thể phá giới trước làm ra tội lỗi, nên trong Phật giáo cấm uống rượu. Nếu đưa chén rược cho người uống, phải mắc quả báo 500 đời không tay, huống chi mình uống, cũng không được dạy người uống, không đượcc dạy tất cả chúng sanh uống, tức là tất cả rượu không được uống. 
  
Theo giới uống rượu thành tội, cũng có 4 nhân duyên:
1- Rượu đó uống say. 
2- Mình cho nó là rượu. 
3- Cố ý uống rượu. 
4- Uống rượu vào cổ họng.
Có khi người ta dùng rượu để làm trong đồ ăn, nhưng ăn đồ thì không phạm hay là cơm rượu để ăn uống không say thì không phạm. Nếu mình lấy các thứ để uống, lại uống nhầm rượu, không cho nó là rượu cũng không phạm. Uống rượu thiếu 1 trong 4 nhân duyên thì không phạm. 
  
Nếu tự mình uống rượu hoặc đưa rượu cho người uống thì phạm giới khinh này.
3- GIỚI ĂN THỊT
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thời mất lòng từ bi, dứt giống Phật tánh; tất cả chúng sanh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc vô lượng tội lỗi. Vì thế, nên tất cả Phật tử không được ăn thịt mọi loài chúng sanh. Nếu cố ăn thịt, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Giới Bồ Tát là muốn lợi ích cho chúng sanh. Nếu mình phát tâm hành đạo Bồ Tát, mà còn ăn thịt chúng sanh, làm sao độ chúng sanh được? Theo nhân quả thì giết một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt phải trả một cục thịt, mới là đúng nhân quả. 
  
Nếu mình cố ý ăn thịt chúng sanh thì không có lòng từ bi. Vì lòng từ bi là muốn độ chúng sanh. Như vậy, thọ giới Bồ Tát phải ăn chay trường, còn thọ ngũ giới không có quy định ăn chay trường. Cho nên, thọ giới Bồ Tát không được ăn thịt. 
  
Nếu mình ăn thịt gà thì sau này đầu thai thành gà, gà đầu thai thành người, rồi nó ăn lại. Ay là việc nhân quả; còn tội phá giới thì lại khác, tội phá giới có thể sám hối diệt tội, nhưng tội nhân quả không được sám hối diệt tội, vì nhân nào quả nấy.
4- GIỚI ĂN NGŨ TÂN
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, chẳng được ăn loại ngũ tân là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Loại ngũ tân này, gia vào trong các thứ thực phẩm đều không được ăn. Nêu cố ăn, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”. 
  
Giảng giải: 
  
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Không được ăn ngũ tân”. Người Hoa có để ý cử ăn ngũ tân, người Việt ít để ý cử ăn ngũ tân; như củ kiệu mà người Việt vẫn ăn. Ngũ tân gồm có: “Tỏi, nén, hành, hẹ, hưng cừ”. Hưng cừ chỉ Aán Độ mới có, ở đây có 4 thứ kia. 
  
Tại sao cấm ăn ngũ tân? Vì ăn sống thì sân hận, ăn chín thì kích thích dâm dục. Cho nên, người tu hành phải cấm, và tánh chất khi ăn thấy hôi. Nếu mình ăn ngũ tân, hộ pháp thần thấy hôi nên không ủng hộ, ma quỷ thì liếm môi mình. Vì vậy, Phật cấm người tu hành không được ăn ngũ tân, người ăn ngũ tân rất chướng ngại việc tu hành.

5- KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử khi thấy người phạm ngũ giới, bát giới, phá giới, hay phạm thất nghịch, bát nạn tất cả phạm giới,… phải khuyên bảo người ấy sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng bố tát, đồng thuyết giới, mà không cử tội người ấy, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Trong Phật pháp, nửa tháng; trước khi bố tát phải kiểm thảo, tức là nửa tháng nay có người nào phạm giới nên phát lồ sám hối; ra bạch trước đại chúng, tự mình nói tội của mình, sám hối thì được diệt tội. Ở đây nói gồm tất cả xuất gia và tại gia, 8 giới và 5 giới là của người tại gia, còn 10 giới trở lên là của người xuất gia. 
  
Theo giới luật nếu người đó không tự ra phát lồ sám hối, người bạn biết y có phạm mà không bảo y sám hối; sau này người ta phát giác thì người người đó cũng có tội phạm giới. Trong luật “Tỳ Kheo Ni ngăn che tội ba la di của bạn mình, không cử tội bạn mình thì Tỳ Kheo Ni cũng phạm tội ba la di”. Đây ở trong 8 điều của Tỳ Kheo Ni. Nếu biết mà không cử tội gọi là tội phú tàng, ba la di là tội hạng nhất. Tỳ Kheo che dấu tội khinh của bạn mình thì Tỳ Kheo ấy cũng phạm tội khinh (hạng 2 hay hạng 3). 
  
Ở đây, nói cùng tu trong chúng là cùng trong Tăng già, Tăng già là hòa hợp chúng; không những Tu sĩ hòa hợp thành Tăng, mà cư sĩ cũng hòa hợp thành Tăng; như Cư Sĩ Lâm hòa hợp chúng thành một đoàn thể cũng gọi là Tăng. Nhưng bây giờ chỉ nói bực xuất gia là Tăng, bực tại gia không nói là Tăng. Theo nghĩa hòa hợp chúng thì cư sĩ có hòa hợp chúng. 
  
Người xuất gia và người tại gia cùng chung bố tát, mình biết bạn mình có tội thì phải khuyên y sám hối. Nếu y không chịu sám hối thì mình phải cử tội của y. Nếu không cử tội thì phạm điều tội khinh này.
6- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư Đại thừa, hay những bực đồng học đồng kiến, đồng hạnh Đại thừa, từ trăm dặm ngàn dặm đến nơi tăng phường, nhà cửa, thành ấp, thời liền đứng dậy rước vào, đưa đi lễ bái cúng dường. Mỗi ngày 3 thời cúng dường, trăm thức uống ăn, giường ghế thuốc men, tất cả đồ cần dùng giá đáng 3 lượng vàng, đều phải cấp hộ cho Pháp sư. Mỗi ngày sáng trưa chiều, thường thỉnh Pháp sư thuyết pháp và đảnh lễ, không hề có sân hận buồn rầu. Luôn thỉnh pháp không mỏi nhàm, chỉ trọng pháp chớ không kể thân. Nếu Phật tử không như thế thì phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Tăng bảo là quan trọng nhất trong Tam bảo. Nếu Tăng bảo không có thì Phật bảo, Pháp bảo cũng bị tiêu diệt. Dù có Pháp bảo hay nhất, nhưng không có Tăng bảo thay thế cho Tam bảo để giáo hóa chúng sanh thì có Phật bảo và Pháp bảo cũng như không. Tăng bảo có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh, chuyên nhất gọi là Pháp sư.  
  
Phật giáo chia ra làm  3 tạng: Kinh tạng luật tạng và luận tạng.
-Thông suốt kinh tạng gọi kinh sư. 
-Thông suốt luật tạng gọi luật sư.  
-Thông suốt luận tạng gọi là luận sư.
Nếu thông suốt hết kinh, luật, luận gọi là tam tạng Pháp sư. Như Trần Huyền Trang là tam tạng Pháp sư, Cưu Ma La Thập là tam tạng Pháp sư, tức là 2 vị đã thông suốt kinh, luật, luận. 
  
Nếu Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, gặp Pháp sư Đại thừa, từ trăm dặm ngàn dặm đến hoặc ở nơi chùa, nhà, thành, ấp mình phải nghinh tiếp chào hỏi, đưa đi lễ bái cúng dường. Ở trong này nói 3 thời (sáng, trưa, chiều) cúng dường ăn uống và nói cúng dường mỗi ngày 3 lượng vàng, là nói mình phải hết lòng cúng dường. 
  
Có 2 câu:
Đừng nói làm Tăng thọ cúng dường, 
Không tu, giọt nước làm sao tiêu!
Người tại gia tận sức mình cúng dường, người xuất gia phải lượng sức mình để thọ nhận. Có 4 câu kệ:
Hạt gạo của Thí chủ, 
Lớn bằng núi Tu di.   
Nếu không tu giải thoát,  
Mang lông đội sừng trả.
Việc giúp người thế gian nghèo khổ thì được phước đức nhỏ, vì phước đức chỉ tạm thời. Như người đó đói, rồi mình cho họ ăn hết đói, nhưng những ngày sắp tới họ vẫn đói. Nếu ngày nào cũng cho ăn như vậy, cho đến già đến chết, nhưng không có giải thoát cái khổ, rồi sau vẫn còn khổ. 
  
Bố thí Phật pháp thì vĩnh viễn hết khổ, vì đạt đến tự do tự tại; không bị thời gian số lượng hạn chế, nên Phật pháp rất cứu kính triệt để. Nếu cái khổ, muôn triệu lần kiếp sau trở lại, không gọi là tự do tự tại, vì bị thời gian số lượng hạn chế. 
  
Cho nên, cúng dường chư Tăng, chư Tăng giác ngộ rồi độ vô lượng vô biên chúng sanh. Bởi vì, chư Tăng không có làm nghề gì để sanh sống; mà việc ăn, mặc, ở và các phương tiện khác đều nhờ người tại gia cúng dường. 
  
Như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hư tiêu Tín thí, lạm nhận cung kính”, những người như đây tạo tội địa ngục; vì không có sự chân thật tu hành, làm hư tiêu của cúng dường Tín thí, tức là những người ấy giả mạo mặc áo cà sa, cạo đầu để thọ nhận cung kính lễ bái. 
  
Chư Tăng có trách nhiệm độ chúng sanh, trước phải tự độ. Như chữ “ Bồ Tát” là tự độ và giác tha. Người tại gia có bổn phận của người tại gia, người xuất gia có bổn phận của người xuất gia. Người tại gia tận sức cúng dường là có mục đích  để nghe sự giáo hóa của  Tam bảo, rồi theo đó thực hành được giác ngộ, vĩnh viễn không còn khổ. Nếu chỉ cúng dường không cần nghe pháp thì phước đức của sự cúng dường lại ít. 
Cho nên, điều này cúng dường, phải thỉnh cầu thuyết pháp là vậy. Người tại gia làm tròn bổn phận của người tại gia, người xuất gia thì làm tròn bổn phận của người xuất gia thì không phạm điều giới khinh này.
7- GIỚI KHÔNG ĐI NGHE PHÁP
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, hàng tân học Bồ Tát, phàm nơi nào chốn nào có giảng kinh, luật, phải mang kinh đến chỗ Pháp sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng, trong vườn cây, chùa, nhà,… tất cả chỗ thuyết pháp đều đến nghe học. Nếu Phật tử không đến nơi ấy để nghe pháp thưa hỏi, thời phạm khinh cấu tội.
Giảng giải: 
  
Tại sao không đi nghe pháp mà phạm điều này? Vì thọ giới Bồ Tát làm theo hạnh Bồ Tát là lợi tha. Trước phải tự lợi, nếu mình không đủ tư cách làm sao độ chúng sanh? Mặc dầu, người tại gia cũng vậy, muốn độ chúng sanh phải biết Phật pháp mới độ chúng sanh được. Nếu không biết Phật pháp thì không thể độ chúng sanh. Cho nên, người mới học hạnh Bồ Tát phải đi nghe pháp. 
  
Biết chỗ nào có Pháp sư giảng kinh, luật, bất cứ chỗ nào như: Chùa, nhà,… người mới thọ giới Bồ Tát phải đem kinh luật đến chỗ Pháp sư nghe giảng và thưa hỏi. Nếu biết có Pháp sư giảng kinh luật, mà làm biếng không đến đó nghe giảng và thưa hỏi thì phạm điều giới khinh này.
8- GIỚI CÓ TÂM TRÁI BỎ ĐẠI THỪA
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, có quan niệm trái bỏ kinh luật Đại thừa thường trụ, cho rằng không phải Phật nói mà đi thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả cấm giới Thanh Văn Nhị thừa cùng ngoại đạo ác kiến, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Đại thừa chuyên lợi tha, Tiểu thừa chuyên tự lợi. Tiểu thừa chỉ tu giải thoát cho mình, Đại thừa giải thoát cho mình và giải thoát cho người khác. Cho nên, người thọ giới Bồ Tát phản bội Đại thừa cho là không phải Phật thuyết; như giáo lý Tiểu thừa không nhìn nhận có Đại thừa, họ nói Đại thừa không phải Phật thuyết. Nếu nói như vậy thì lọt vào tà kiến và ác kiến. 
  
Kỳ thật, Đại thừa và Tiểu thừa đều là Phật thuyết. Phật vì trình độ căn cơ của chúng sanh mà thuyết có 3 thừa. Người thọ giới Bồ Tát là đạo Bồ Tát, chính là Đại thừa là phải theo kinh luật Đại thừa; đã thọ giới Bồ Tát mà theo kinh Nhị thừa(Thanh Văn và Duyên Giác cũng là Tiểu thừa), mặc dầu, Phật thuyết nhưng chỉ tạm thời sau này bỏ A La Hán của Tiểu thừa mà tiến lên Đại thừa. 
  
Người thọ giới Bồ Tát tức là Đại thừa, mà trái lại học Tiểu thừa thì phạm điều tội khinh này. Hoặc theo ác kiến của ngoại đạo, ác kiến trong đạo Phật gồm có 5 thứ: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. 
  
-Thân kiến là chấp thật thân này. 
-Biên kiến là chấp thật có hoặc không. 
-Tà kiến là không nhìn nhận có nhân quả.
-Kiến thủ kiến là lấy một tri kiến nào cho là chân thật cao nhất, như nói vũ trụ vạn vật do Thượng đế tạo ra.
-Giới cấm thủ là lấy một giới luật nào coi là hạng nhất để thành Phật, như ở Aán Độ có người không làm mích lòng trâu bò; nếu trâu bò ăn lúa mạ, không ai dám đuổi; cũng có người không ăn thịt heo, nhưng thịt khác lại ăn.
Nếu lấy kiến giải nào cao nhất  đều không được, nên Phật pháp không kiến lập chân lý; nếu kiến lập chân lý thì lọt vào kiến thủ kiến, trái với Đại thừa thì phạm vào tội khinh.
9- GIỚI KHÔNG KHÁN BỆNH
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng dường Phật. Trong tám phước điền, khán bệnh là “phước điền thứ nhất”. Nếu như cha mẹ, sư tăng cùng đệ tử có bệnh, có tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều nên săn sóc cho được lành mạnh; Phật tử vì lòng hờn giận không chăm nuôi, nhẫn đến thấy trong tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng nội đường sá có người tật bệnh mà không cứu tế. Phật tử này phạm “khinh cấu tội”. 
  
Giảng giải: 
  
Trong này nói “nuôi bệnh là phước cao nhất trong 8 thứ gieo ruộng phước”. Những quan hệ với mình, như sư trưởng, cha mẹ, đệ tử,… nếu có bệnh, mình biết thì phải an ủi hỏi thăm hay cần cúng dường giúp đỡ. Nếu mình thọ giới Bồ Tát lại có tâm sân hận, hoặc thầy có dạy bảo la rầy, mình có tâm vùng vằn không chịu đi thăm nuôi người bệnh thì phạm điều giới khinh này; nếu không có ác tâm cố ý thì không phạm. 
  
Chỗ này, nói chùa, thành phố hay ngoại ô, trong núi rừng có gặp người bệnh phải nên cứu giúp. Nếu người thọ giới Bồ Tát gặp người bệnh trong thành phố, người ấy có chuyện cần gấp thì có thể không thể cứu giúp, vì còn có nhiều người khác. Nếu như gặp người bệnh ở nơi thôn giả hẻo lánh, rừng núi thâm sâu, không có người qua lại thì phải cứu giúp cho đàng hoàng; nếu không cứu giúp thì phạm điều giới khinh này.
10- GIỚI CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, không đặng cất chứa những binh khí, như dao, gậy, cung, tên, búa, giáo,… cùng những đồ sát sanh như chài, lưới rập, bẫy,… Là Phật tử, dầu cho đến cha mẹ bị giết, còn không báo thù, huống là đi giết tất cả chúng sanh! Không được cất chứa những khí cụ sát sanh! Nếu cố cất chứa, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”. 
   
Mười giới như thế, cần nên học và kính trọng thọ trì. Trong phẩm có giảng rộng.
Giảng giải: 
  
Những khí cụ thường dùng cho đời sống hàng ngày, như: dao, búa, gậy,… không có liên quan binh khí dùng cho chiến tranh thì được dùng. Không được dùng những khí cụ bắt loài súc sanh để ăn thịt, hay những khí cụ có liên quan đến trộm cướp; chứ không phải tất cả khí cụ không được dùng.
11- GIỚI ĐI SỨ
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, chẳng đặng vì quyền lợi và ác tâm đi thông sứ mạng cho hai nước hội hiệp quân trận, đem binh đánh nhau làm cho vô lượng chúng sanh bị giết hại. Là Phật tử, còn không được vào, cùng qua lại trong quân trận, huống lại làm môi giới cho chiến tranh. Nếu cố làm, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Điều này đối với luật pháp của thế gian cũng phạm tội nặng. Theo giới luật của Bồ Tát là “những người phạm pháp luật của nhà nước, tức là phạm pháp luật của nhà Phật”. Như người Trung Quốc thông đồng với người ngoại quốc làm giặc trong nước gọi là Hán gian, người Việt Nam thông đồng với người ngoại quốc làm giặc trong nước gọi là Việt gian. Vậy, pháp luật thế gian không cho, làm sao giới luật nhà Phật lại cho!
12- GIỚI BUÔN BÁN PHI PHÁP 
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, cố bán người lành, tôi trai, tớ gái, lục thú, buôn bán quan tài, ván cây, đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống lại bảo người. Nếu cố tự buôn bán hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Giới Bồ Tát vì lợi tha, tức là độ sanh nên tránh khỏi các việc sát sanh có liên hệ sanh mạng của chúng sanh. Giới buôn bán này có quan hệ chúng sanh, như buôn bán nô lệ thì pháp luật không cho, nhưng bán súc vật thì pháp luật lại cho. 
  
Người thọ giới Bồ Tát là muốn độ chúng sanh, không được sát sanh; không được ăn thịt chúng sanh, huống chi bán chúng sanh. Vì tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Buôn hòm ở giới này không cho, vì buôn bán nghề này thì mong cho mình bán đắc nên có ý muốn cho người ta chết nhiều. Do có quan hệ sanh mạng nên cấm không được bán. Tự mình không bán, mà dạy người ta bán thì phạm điều giới khinh này.
13- GIỚI HỦY BÁNG
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, vì ác tâm nơi người tốt, người lành, Pháp sư, Sư tăng, hoặc quốc vương và hàng quý nhơn, vốn vô sự mà hủy báng là phạm bẩy tội nghịch, mười giới trọng. Với cha, mẹ, anh, em, lục thân phải có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tội nghịch, đọa nơi ác đạo. Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Nếu vu khống tức là không có sự thật, mà mình tạo ra chuyện để gán cho người, rồi hủy báng họ. 10 điều trong có 1 điều là “không nói lỗi của tứ chúng”. Việc đó đã có sự thật, nên mình không được nói; không được nói ở đây là do có ác ý. Việc không có sự thật, mình tạo ra để nói thì tội ấy thì nặng thêm. 
  
Hủy báng người lớn bị tội nặng, hủy báng người nhỏ mang tội nhẹ, nhưng đều có tội. Trong này nói hủy báng là tội thất nghịch. Khi thọ giới có hỏi giá nạn, nếu 7 điều này (thất nghịch) phạm không cho thọ giới; nhưng 7 điều này ít có người phạm, muốn phạm cũng không có cơ hội để phạm vì không có Tăng đoàn. 
  
Thất nghịch là: Giết cha, giết mẹ, giết sư trưởng, giết thầy, làm cho thân Phật chảy máu, giết Hòa thượng, phá Tăng chuyển pháp luân. 
  
Tại sao là phá yết ma Tăng? Theo Tăng đoàn bất cứ việc lớn nhỏ đều phải qua yết ma rồi mới thi hành. Khi đã qua yết ma thì người nào cũng phải theo, còn mình tổ chức một Tăng đoàn khác cũng làm yết ma để phản đối tăng đoàn kia, gọi là phá yết ma Tăng. 
  
10 điều trọng cũng có nói, không những đối với cha mẹ anh em trong lục thân (lục thân gồm có 3 đời: Cha, mẹ, vợ, chồng, con gái, con trai), phải sanh tâm từ bi hiếu thuận với tất cả chúng sanh đều như vậy. Nếu không làm như thế, mà có tâm hủy báng người thì phạm điều giới khinh này.
14- GIỚI PHÓNG LỬA
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, vì tâm ác phóng lửa đốt núi rừng, đồng nội; từ tháng tư đến tháng chín phóng hỏa, hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người và cung điện tài vật của quỷ thần. Tất cả chỗ có sanh vật không được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đốt, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Điều này để tránh sự sát sanh, nếu mình phóng hỏa đốt núi rừng, có thể thiêu chết các sanh mạng chúng sanh, nên ở đây mới cấm. Không những tháng tư đến tháng chín, lúc mùa nắng dễ cháy lan rộng; không phải chỉ ở trong những tháng này mới phạm, mà các tháng khác nếu đốt thì cũng phạm.  
  
Nếu mình cố ý đốt núi rừng, nhà cửa, thành ấp, chùa chiền hay các vật của chính phủ, của quỷ thần,… tất cả có sanh mạng đều không được đốt. nếu mình cố ý đốt thì phạm điều giới khinh này. Vì có dính líu đến sự sát sanh là trái ngược với đạo Bồ Tát.
15- GIỚI DẠY GIÁO LÝ NGOÀI ĐẠI THỪA
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, từ đệ tử Phật, lục thân, tất cả thiện tri thức, đến ngoại đạo ác nhân, đều phải khuyên bảo họ trì kinh luật Đại thừa. Nên giảng cho hiểu nghĩa lý khiến phát bồ đề tâm, thập phát thú, thập trưởng dưỡng tâm, thập kim cang tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu pháp dụng tuần thứ của mỗi món; mà Phật tử lại vì các tâm, sân tâm đem kinh luật Thanh Văn Nhị thừa cùng các bộ luận của ngoại đạo tà kiến để dạy ngang cho người, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Phật tử đã thọ giới Bồ Tát thì phải hành đạo Bồ Tát. Nếu Phật tử không hành đạo Bồ Tát, mà dạy giáo lý Tiểu thừa hay ngoại đạo thì phạm điều giới khinh này. Vì giới Đại thừa thì phải theo kinh Đại thừa để hiểu nghĩa Đại thừa. 
  
Đại thừa Bồ Tát là nhân để thành Phật, nếu mình nghịch với hạnh Bồ Tát thì không thể thành Phật. Cho nên, phải dạy người ta phát tâm bồ đề. Bồ đề là giác ngộ, muốn giác ngộ thì giáo môn cũng có thứ lớp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa. Mỗi bậc chia ra 10 cấp, hết thảy 50 cấp; nhưng ở đây chỉ nói 30 cấp, tức nói với người sơ cơ, 30 cấp này cũng gồm hết thảy 50 cấp. 
  
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng gọi là Tam Hiền, gồm có 30 cấp; từ Sơ địa đến Thập Địa gồm là Thánh có 10 cấp, Đẳng Giác và Diệu giác là 2 cấp; tổng cộng gồm có 42 cấp. Cho nên, người thọ giới Bồ Tát còn ác tâm, tâm sân, cố ý không theo Đại thừa; mà trái lại dạy giáo lý Nhị thừa hay ngoại đạo thì phải phạm điều giới khinh này, phải mất 42 Hiền thánh.
16- GIỚI VÌ LỢI MÀ GIẢNG PHÁP LỘN LẠO
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, phải tận tâm học kinh luật oai nghi Đại thừa, thông hiểu nghĩa lý, khi thấy hàng tân học Bồ Tát từ xa trăm dặm đến cầu kinh luật Đại thừa, nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ hạnh, hoặc đốt thân, đốt cánh tay, đốt ngón tay. Nếu không đốt thân, đốt cánh tay, đốt ngón tay cúng dường chư Phật thời không phải là những hàng Bồ Tát xuất gia. 
  
Nhẫn đến xả thân thịt nơi thân mình cùng tay chân mà bố thí cho tất cả cọp, sói, sư tử đói, cùng tất cả các loài quỷ đói. Rồi sau tuần tự căn cơ của mỗi người mà giảng chánh pháp cho hàng tân học ấy được mở mang tâm ý. Nếu Phật tử vì quyền lợi, đáng dạy mà không dạy; lại giảng kinh luật một cách điên đảo, văn tự lộn xộn không có thứ lớp trước sau; thuyết có hủy báng Tam bảo, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Tu sĩ có trách nhiệm độ chúng sanh, nếu vì lợi dưỡng mà ham thích điên đảo thuyết pháp cho người để được cúng dường cho mình. Họ muốn mình theo thế tục, mà không dạy chánh pháp cho họ, lại nói chuyện thế gian thì phạm điều giới khinh này. 
  
Những người đến cầu pháp, mình phải theo chánh pháp mà thuyết. Trong này nói “đốt mình, đốt cánh tay, đốt ngón tay,… để cúng dường chư Phật, cho đến gặp sư tử, hổ lang,… đều xả thân thịt mà thí cho nó”, chỗ này cần phải hiểu: giới Bồ Tát lúc nào cần độ chúng sanh, cần phải hy sinh thì mình mới hy sinh. 
  
Hy sinh thân này cho sư tử, hổ, lang,… không có giá trị gì thì không được hy sinh, nếu hy sinh thì càng phạm tội. Vì trong giới Bồ Tát nói: “Biết chỗ nguy hiểm không được đến, nếu đi phải có nhiều người”, tức là mình hy sinh không có giá trị; phải giữ thân này để hành đạo Bồ Tát, hy sinh này rồi ai hành đạo Bồ Tát? 
  
Trong giới luật không có việc đốt liều, đây là một tập quán trở thành thói quen. Có người đốt 24 liều. Phật pháp muốn mình phá ngã chấp. Họ đốt liều cho là hay, nhưng kỳ thật tăng thêm ngã chấp thì nghịch với ý Phật pháp. 
  
Kinh Lăng Nghiêm nói đốt da thịt trên thân, vì phát tâm, không phải do thọ giới mà đốt; tức là biểu hiện không chấp thân này, không quý trọng thân này. Vì độ chúng sanh nên mình phải chịu cực khổ. 
  
Nếu mình vì sự lợi dưỡng mà điên đảo, theo yêu cầu của họ, làm những việc mê tín, bàn xâm, thuyết chuyện thế tục thì người thọ giới Bồ Tát phạm điều giới khinh này.
17- GIỚI CẬY THẾ LỰC QUYÊN TỞI
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi dưỡng, danh dự mà thân cận quốc vương, hoàng tử và các quan, nương quyền cậy thế bức người để lấy tiền của, lại bảo người cũng cầu như vậy. Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác cầu, đa cầu, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Người đã thọ giới Bồ Tát rồi luôn luôn cứu giúp chúng sanh. Đã không như vậy, mà ỷ thế lực của vua quan, lại ăn hiếp người khác, hoặc vì tiền tài danh dự, giao thiệp quý tộc vua quan để được cúng dường. 
  
Lục Độ và Tứ Nhiếp Pháp của Bồ Tát có điều thứ nhất là bố thí. Những gì của mình còn bố thí cho chúng sanh, trái lại cầu danh lợi hay dạy người khác cầu danh lợi, thì không có tâm hiếu thuận chúng sanh và không có tâm từ bi. 
  
Thói quen của mọi người ham thích cầu xin, kỳ thật cầu xin không được. Như cầu xin chư Phật gia hộ cho mình để kiếm nhiều tiền, được bình yên. Nếu cầu xin được thì không có nhân quả, hay cầu xin Phật cho được thì Phật khỏi dạy mình tu; vì Phật không bảo hộ được cho người nào cả, Phật chỉ dạy đường lối cho mình thực hành. 
  
Nếu có cầu xin được thì nghịch với ý Phật, cũng là phá hoại nhân quả. Như mình trồng bí thì được bí, trồng đậu thì được đậu; mình không trồng đậu bí, mà được đậu bí thì không có nhân quả. Không có nhân quả nên không có Phật pháp, cũng là hủy báng Tam bảo. 
  
Người thọ giới Bồ Tát mà cầu danh, cầu lợi, ác tâm cậy mượn quyền thế mà hiếp đáp người thì người này phạm khinh cấu tội.
18- GIỚI KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, phải học 12 phần kinh, thường tụng giới. Mỗi ngày 6 thời, nghiêm trì Bồ Tát giới, hiểu rõ nghĩa lý tánh Phật tánh của giới. Nếu Phật tử không hiểu một kệ một câu cùng nhân duyên của giới luật, mà dối rằng thông hiểu, đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một pháp, không biết một luật mà lại đi truyền giới cho người. Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Nếu mình không hiểu mà làm thầy truyền giới thì phạm giới này. Muốn truyền giới cho người, phải hiểu giới đó mới được; nếu mình không hiểu làm sao truyền dạy cho người khác hiểu được? Cho nên, Tỳ Kheo khi thọ giới xong, phải theo thầy bổn sư 10 năm, rồi được xa rời thầy để làm thầy người khác và Tỳ Kheo Ni phải 12 năm được xa rời thầy bổn sư. 
  
Thường thường người Việt cho Hòa thượng là cao nhất, rồi đến Thượng tọa, Đại đức. 2 chữ ‘Hòa thượng’ là thân giáo sư, tức bổn sư là người cạo đầu và truyền giới cho mình. Thời xưa, người cạo đầu, truyền giới Sa Di, Tỳ Kheo, Bồ Tát đều là bổn sư của mình làm. 
  
Tỳ Kheo phải thông suốt 2 bộ luật: Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, vì Tỳ Kheo có trách nhiệm dạy Tỳ Kheo Ni . Nếu không biết giới luật Tỳ Kheo Ni làm sao dạy Tỳ Kheo Ni? Trong pháp Bát Kỉnh của Tỳ Kheo Ni, Tỳ Kheo Ni phải mời Tỳ Kheo về chùa Tỳ Kheo Ni để dạy. 
  
Làm thầy người phải biết nghĩa lý giới luật của Phật, truyền giới Bồ Tát cũng phải hiểu hết nghĩa lý giới Bồ Tát; truyền giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni phải hiểu hết nghĩa lý giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. 
  
Làm hạnh Bồ Tát mà không biết hạnh Bồ Tát làm sao dạy chúng sanh? Vì vậy, phải hiểu từng câu kệ, từng giới luật, nhân duyên giới luật. Như giới luật có “khai, giá, trì, phạm”, theo uống rượu thì phạm, nhưng giới uống rượu có thể khai; vì mình bệnh cần rượu để uống trị bệnh, nên công khai nói với người là dùng rượu để trị bệnh, người ấy chứng minh thì rượu đó uống được, tức là không phạm. 
  
Nếu mình không hiểu mà tự cho là hiểu, tức là dối mình dối người, mà lại truyền giới cho người thì phạm điều giới khinh này.
19- GIỚI LƯỠNG THIỆT (LƯỠI ĐÔI CHIỀU)
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, vì ác tâm thấy Tỳ Kheo trì giới hay bưng lư hương, tu hạnh Bồ Tát, tự đâm thọc hai đầu, cho sanh sự bất hòa khinh khi người hiền, tạo nhiều tội ác. Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Nói lưỡi đôi chiều này ở trong giới vọng ngữ. Người tại gia 5 giới (sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu). 
  
Vọng ngữ gồm có 4 thứ: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt. 
  
-Vọng ngôn: Chuyện có nói không, chuyện không nói có. 
  
-Ỷ ngữ: Nói lời hoa ngữ có liên quan dâm dục. 
  
-Ác khẩu: Nói lời ác độc, chửi mắng. 
  
-Lưỡng thiệt: Nói lưỡi 2 chiều, tức là đem chuyện người này đến nói với người kia, đem chuyện người kia nói với người này. 
  
Ở đây, đặc biệt nêu ra điều này là tội khinh của giới Bồ Tát, làm cho người gây lộn đánh lộn với nhau; đối với người lớn thì tội nặng, đối với người nhỏ thì tội nhẹ. Tất cả đều phạm giới này.
20- GIỚI KHÔNG PHÓNG SANH
Chánh văn:
Nếu Phật tử, vì tâm từ bi mà làm việc phóng sanh. Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ ta. Từ nhiều đời ta thác sanh nơi đó. Vì lẽ ấy chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng sanh để ăn thịt, thời chính giết cha mẹ của ta, mà cũng là thân cũ của ta. Tất cả chất tứ đại là bổn thân bổn thể của ta, cho nên thường làm việc phóng sanh và khuyên bảo người làm. Nếu lúc thấy người đời sát sanh, nên tìm cách hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ! Thường đem giới Bồ Tát giảng dạy để cứu độ chúng sanh. 
  
Nếu ngày cha mẹ hay anh em chết, nên thỉnh Pháp sư giảng Bồ Tát giới. Người chết nhờ phước đức ấy, hoặc vãng sanh Tịnh Độ ra mắt chư Phật, hay thác sanh cõi trời cõi người. Nếu không làm các điều trên đây, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”. 
   
Mười giới nên cần học tập kính trọng phụng trì. Như trong phẩm “Diệt Tội”giảng rõ mỗi giới.

Giảng giải: 
  
Hạnh Bồ Tát phải cứu giúp chúng sanh, tránh những việc giết hại chúng sanh, không những tự mình không giết hại, mà khuyên người không giết hại. Có trường hợp khuyên không được giết hại, người ấy nghe hay không là tùy họ, nhưng có bổn phận phải khuyên. 
  
Nếu họ không nghe, nhưng mình có phát tâm làm hạnh Bồ Tát rồi, họ không nghe là tại họ, vì nhân duyên họ chưa thuần thục. Nếu người ta không nghe mà mình không khuyên thì không được. Như họ không phóng sanh, mình cũng khuyên họ phóng sanh; tự mình không sát sanh cũng khuyên người không sát sanh. 
  
Mình đã khuyên người không sát sanh là gieo trồng thiện nhân cho họ, cũng là kết duyên với con vật sắp bị chết. Mặc dầu, họ không nghe mình khuyên, nhưng sau này nhân duyên đã thuần thục, sẽ có cơ hội độ người đó và độ con vật, vì mình đã có phát tâm kết duyên. 
  
Lục thân quyến thuộc của mình chết, thường mời chư tăng tụng kinh lễ sám. Kỳ thật, Phật không dạy người tụng kinh lễ sám để siêu độ người chết. Phật dạy trong giới Bồ Tát là mời Pháp sư thuyết pháp trước linh cửu hay làm tuần thất cũng như vậy. Việc đó mới có lợi ích cho người chết và người sống. 
  
Tụng kinh cho người còn không hiểu, sao người chết hiểu được? Nếu không hiểu thì không lợi ích. Cho nên, Phật dạy phải mời Pháp sư giảng kinh luật được lợi ích cho người sống lẫn người chết. 
  
Tôi (Duy Lực) muốn sửa thói quen này, tôi có thuyết pháp nhà xác Tiều Châu, nhà xác Quảng Đông hay đến nhà người ta. Nếu mời các thầy đám bày vẽ cúng thịt sát sanh, đốt vàng mã, tụng kinh, việc đó càng thêm tội. 
  
Cho nên, người thọ giới Bồ Tát phải theo đúng lời Phật dạy, nếu không thì phạm điều giới khinh này.

21- GIỚI ĐEM SÂN BÁO SÂN, ĐEM ĐÁNH TRẢ ĐÁNH
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ anh em hay lục thân bị người giết cũng chẳng được báo thù. Hoặc quốc chủ bị người thí chết cũng chẳng được báo thù. Giết sanh mạng để báo thù sanh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo. Hãy còn không được chứa nuôi tôi tớ, rồi đánh đập nhiết chúng, mỗi ngày tam nghiệp tạo vô lượng tội, nhất là khẩu nghiệp. Huống lại đi làm tội thất nghịch. Nếu Bồ Tát xuất gia không có lòng từ bi cố báo thù, nhẫn đến cố báo thù cho trong hàng lục thân, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

Giảng giải: 
  
Pháp Lục Độ có điều nhẫn nhục. Người đã thọ giới Bồ Tát rồi, nếu mình không hành nhẫn nhục, người giận mình thì mình giận lại, người chửi mắng mình thì mình chửi mắng lại, người đánh mình thì mình đánh lại, hay người giết anh em mình thì mình giết lại để báo thù. Vậy làm sao hành đạo Bồ Tát? Như thế, đâu có khác người thế gian! 
  
Thời xưa, thói quen có mối thù của cha mẹ, mình báo thù mới là có hiếu. Nhưng đối với Phật pháp thì không được. Mặc dầu, họ giết cha mẹ mình, nhưng mình không được giết lại cha mẹ người đó hay giết người hung thủ. Người giết bà con mình, mình giết lại; cứ giết qua giết lại mãi, đến chừng nào thôi! 
  
Người thọ giới Bồ Tát là muốn cắt đứt cái khổ sanh tử, tuy người giết cha mẹ mình; nhưng mình không được giết lại, tức là hành được pháp nhẫn nhục. Nếu không như vậy thì phạm điều giới khinh này.

22- GIỚI KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử mới xuất gia chưa thông hiểu kinh luật, mà tự ỷ mình là trí thức thông minh, hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi, hoặc ỷ mình là dòng sang, con nhà quyền quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to, giàu lớn,… rồi sanh lòng kiêu mạn mà không chịu học hỏi kinh luật với các vị Pháp sư học đạo trước mình. Vị Pháp sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà hạ tiện, tuổi trẻ, nghèo nàn hèn hạ, hay có tật nguyền, nhưng thiệt có đức hạnh cùng thông hiểu nhiều kinh luật. Hàng tân học Bồ Tát không được nhìn vào dòng giống vị Pháp sư mà không chịu đến học đạo lý Đại thừa với vị ấy, Phật tử nếu như vậy thời phạm “khinh cấu tội”.

Giảng giải: 
  
“Y pháp bất y nhân” trong tứ pháp y là trọng pháp, không phải trọng người; phải y theo pháp, chứ không phải y theo người. Tuy người đó tuổi nhỏ hơn, hay người đó hạ tiện nhèo khổ hơn mình, hoặc các căn không đủ, như: Què tay chân, mắt mù,… nhưng họ có đức hạnh, biết Phật pháp; mình nên thỉnh họ, không cho mình lớn hơn có địa vị cao hơn. 
  
Nếu ỷ mình thông minh có trí tuệ, có địa vị cao, tuổi lớn thuộc dòng quý tộc, giàu sang mà không cầu pháp với người nghèo khổ, người có địa vị thấp hơn mình mà biết Phật pháp thì người thọ giới Bồ Tát phạm điều giới khinh này. 
  
Phải cầu pháp và hỏi pháp với sư hiểu đệ nhất nghĩa đế. Tại sao gọi là đệ nhất nghĩa đế? Đệ nhất nghĩa đế là nghĩa cao hơn hết, không có nghĩa nào cao hơn, không có ngôn ngữ nào diễn tả.  
  
Đệ nhất nghĩa đế là Tự tánh hay Phật tánh, ai cũng có Phật tánh; đáng lẽ Phật tánh không có tên, nhưng cũng đặt tên để gọi. Miễn cưỡng đặt tên là Tự tánh, cái dụng của Tự tánh vô lượng vô biên, tùy theo dụng ấy mà đặt tên. 
  
Tự tánh không có sanh diệt, đặt tên là Niết Bàn (niết là không sanh, bàn là không diệt); Tự tánh không đi không lại, đặt tên là Như Lai; Tự tánh sanh ra vạn pháp, đặt tên là Pháp thân; Tự tánh không hư vọng, đặt tên là Thật tướng. 
  
Tức là dụng của Tự tánh vô lượng vô biên, nên tên có vô lượng vô biên; tùy theo dụng của Tự tánh mà đặt tên, nhưng tên có nhiều mà thể không có hai thứ. Nếu hiểu đệ nhất nghĩa đế thì biết tất cả pháp không khác. Như đem tên để phân biệt thì có muôn ngàn sai biệt, như danh từ: Bất nhị, vô sở trụ, Tự tánh,… 
  
Đệ nhất nghĩa là hoạt bát vạn năng, không thể đặt tên nhất định để gọi; thí dụ cái tay cho Tự tánh, tay lấy khăn lấy ly,… làm việc gì cũng được. Nếu tay trụ cái gì thì mất dụng hoạt bát vạn năng, như tay cầm viết để viết không buông thì mất tác dụng của tay; buông viết thì khôi phục dụng hoạt bát vạn năng của tay. 
  
Khi viết gọi là tay cầm viết, tay không phải là tay cầm viết, chỉ là tên tạm thời. Dụng của Tự tánh cũng vậy, tên tay cầm viết không phải sai. Kỳ thật, tay không có tên, như dùng tay để chỉ vật gì, không thể cho là nhất chỉ tay, nhưng nói nhất chỉ tay cũng đúng cũng không đúng; như dùng tay móc đất, không thể cho là tay co ngón. Tay đâu phải vậy? Vì lúc dùng mới vậy. 
  
Như đánh lộn làm nắm tay, gọi là tay tác quyền; nhưng cái này là tùy theo dụng mà đặt tên, cái đó không phải vậy. Cho nên, không đặt tên tay là cái gì, đặt tên là lúc dùng của tay. Bản thể của tay là hoạt bát vạn năng, không thể gọi là tay cầm bút, tay nhất chỉ, tay co ngón, tay tác quyền,… ấy là đệ nhất nghĩa đế. 
  
Người ta thường y văn giải nghĩa, Phật nói là tay cầm bút, rồi giải cho là tay cầm bút. Đâu có thể đặt tên nhất định? Ấy là cái dụng tạm thời thôi! Tự tánh cũng vậy, những tên như: Pháp thân, Thật tướng, Bát nhã, Niết bàn, Bồ đề, chơn như,… đều là cái dụng của Tự tánh. Bản thể của Tự tánh không thể đặt tên nhất định. Hiểu như vậy là đệ nhất nghĩa đế.

Hỏi: 
  
Có được truyền giới trước linh cửu cho người chết không?

Đáp: 
  
Như vậy, không được. nhưng cũng có người truyền giới u minh gì đó cho người chết! Truyền giới thì phải có mặt người muốn thọ giới mới được. Người đó phải hiểu lời nói của Pháp sư, người đã chết rồi làm sao hiểu được lời nói của Pháp sư? Làm sao truyền giới cho người chết được? Mà có người bày đặt bậy bạ truyền giới cho người chết. Trong giới luật không có điều này. 
  
Theo giới Thanh Văn, nếu súc sanh, ma quỷ biến hóa người, không được thọ giới; bán nam bán nữ, nam không có nam căn, nữ không có nữ căn cũng không cho thọ giới. Phải đúng nam xuất gia được làm Tăng, phải đúng nữ xuất gia được làm Ni. Vậy, người chết không được thọ giới rồi. Trước khi thọ giới có hỏi giá nạn, người chết làm sao trả lời được? Nếu truyền giới là trái ý của Phật.
  
Giới Thanh Văn gồm có: Ngũ giới, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Giới này có giá trị trong một đời, nếu mất hay biến dạng thì coi như giới tướng mất. Cũng có người thay thế cho Hòa thượng đã mất mà truyền giới cho người, ấy là sai lầm. Hoặc là người nam thọ giới Tỳ Kheo, sau này Tỳ Kheo biến dạng người nữ thì giới Tỳ Kheo phải mất. Người nữ thọ giới Tỳ Kheo Ni, sau này biến dạng người nam thì giới Tỳ Kheo Ni cũng phải mất. 
  
Giới Bồ Tát là giới tâm địa thì vĩnh viễn không mất, dù có thân chết cũng không mất giới; giới này không phân biệt loài nào đều được thọ giới. Tuy kiếp sau vì không biết nên mới thọ lại, không phải mới thọ. 

Cho nên, thọ giới Bồ Tát phải thỉnh Phật Thích Ca làm Hòa thượng tác giới (Hòa thượng đàn đầu), Văn Thù Bồ Tát làm yết ma, thỉnh Di Lặc Bồ Tát làm giáo thọ, thỉnh mười phương chư Phật làm tôn chứng. Pháp sư truyền giới chỉ một người cũng đủ, có thể hai người cũng được, mà thay thế cho Phật, Bồ Tát truyền giới. 
  
Người đó chết, nhưng giới Bồ Tát không mất, nên nói “giới Bồ Tát từ thân này cho đến đời vị lai không giới hạn”, chứ không phải như giới Thanh Văn chỉ có một đời thôi. 

Hỏi: 
  
Giới Bồ Tát cần phải đủ số chúng, rồi mới truyền phải không?

Đáp: 
  
Truyền giới chỉ cần một Pháp sư là được, vì Phật Thích Ca, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Di Lặc là 3 vị thầy. 10 phương chư Phật làm tôn chứng. Truyền giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni thì phải 10 sư, tức là có tam sư thất chứng. Giới Sa Di và Sa Di Ni phải có 4 thầy để truyền. Nếu có Tăng đoàn, chỉ cần báo Tăng đoàn thì một thầy truyền giới là được. Nhưng hiện nay không có Tăng đoàn, nên phải có 4 thầy (thành Tăng) được truyền giới Sa Di, Sa Di Ni; tức là đã có bạch với Tăng rồi. Nếu không bạch với Tăng mà cho một người xuất gia thì không đúng giới luật, còn ngũ giới và bát quan trai chỉ có một người truyền là được. Ngày xưa, thường truyền giới trong lúc bố tát.

23- GIỚI KHINH NGẠO KHÔNG TẬN TÂM DẠY
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ Tát, thời đối trước tượng Phật, cùng tượng Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới. Nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ Tát sám hối trong 7 ngày, hễ thấy được hảo tướng là đắc giới. Như chưa thấy hảo tướng thời sám hối mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, hay cả trăm ngày, cầu thấy được hảo tướng. 
  
Khi được thấy hảo tướng rồi, thời được đối trước tượng Phật, Bồ Tát mà thọ giới. Như chưa thấy hảo tướng, thời dầu ở trước tượng Phật thọ giới vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước Pháp sư đã thọ giới Bồ Tát mà thọ giới, thời không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy? Vì vị Pháp sư ấy là chư sư truyền giới, nên không cần hảo tướng. 
  
Hễ đối vị Pháp sư ấy thọ giới liền đắc giới, do vì hết lòng kính trọng nên đắc giới. Nếu ở trong vòng nghìn dặm, mà tìm không được Pháp sư truyền giới, thời Phật tử đối trước tượng Phật và Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ Tát, nhưng cần phải thấy hảo tướng. 
  
Nếu vị Pháp sư ỷ mình thông kinh luật cùng giới Đại thừa, kết giao với các nhà quyền quý, khi có hàng tân học Bồ Tát đến cầu học nghĩa kinh, luật, lại giận ghét, hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị này phạm khinh cấu tội.

Giảng giải: 
  
Cách xa không có thầy truyền giới thì ở trước tượng Phật xin phát nguyện thọ giới, nhưng cần phải thấy tướng tốt. Nếu 7 ngày không thấy tướng tốt, phải thêm 7 ngày nữa; cho đến 1 năm cần có thấy tướng tốt mới được đắc giới. Nếu chưa thấy tướng tốt thì không gọi là đắc giới. 
  
Nhưng thọ giới đối trước Pháp sư không buộc phải thấy tướng tốt. Bởi vì, Pháp sư có thầy nối truyền và biết giới tướng, còn mình thọ giới cũng phải biết giới tướng của Bồ Tát thì có thể tự nguyện mà thọ. Nếu không hiểu giới tướng thì không thể thọ, vì không hiểu làm sao thực hành? Nhưng trong này không nói hiểu hay không hiểu. Cho nên, cần hiểu 10 giới trọng và 48 giới khinh. Thấy tướng tốt như: Thấy Phật, thấy Bồ Tát, thấy ánh sáng, thấy cảnh đẹp. 
  
Nếu Pháp sư ỷ mình thông suốt giới luật, giao thiệp với vua, bá quan lại khinh rẻ người mới học giới Bồ Tát  đến cầu xin hỏi kinh luật và có ác tâm không đáp tử tế mỗi lời hỏi thì Pháp sư ấy phạm điều này.

24- GIỚI KHÔNG HỌC TẬP ĐẠI THỪA
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, có kinh luật Đại thừa, chánh kiến, chánh tánh, chánh pháp thân của Phật; mà không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở lại học sách luận tà kiến Nhị thừa, ngoại đạo, thế tục; đó là làm mất giống Phật, là nhân duyên chướng đạo, chẳng phải hành đạo Bồ Tát. Nếu cố làm như vậy, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

Giảng giải: 
  
Chánh pháp của Phật là kinh Đại thừa, trong này nói chánh kiến, chánh tín, chánh pháp. Kinh Đại thừa là kinh liễu nghĩa, nếu có chấp thật thì không phải chánh kiến, phá chấp thật là chánh kiến. Chánh tánh là Tự tánh, như Lục Tổ nói “thuyết pháp không rời Tự tánh”. Chánh pháp giúp cho mình được chánh tánh (kiến tánh thành Phật). Muốn kiến tánh thành Phật phải có chánh kiến phá hết tất cả bệnh chấp thật. 
  
Như lúc đang tham thiền là lúc đang học chánh pháp của Phật. Nếu ngày đêm tham thiền không dứt, tức là siêng năng học chánh pháp của Phật. Chánh pháp là phá ngã chấp thì tất cả cái gì cũng phải xả. Tham thiền khởi lên nghi tình là cây chổi automatic quét tất cả vọng niệm khởi lên hay không vọng niệm khởi lên. 
  
Nếu không như vậy là học tà kiến (tà kiến là không có nhân quả), Nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) là khác với Đại thừa. Vì Đại thừa phá hết nhân ngã chấp, pháp chấp; Nhị thừa chỉ phá hết nhân ngã chấp, lại chấp pháp. Vì vậy, giới Bồ Tát là Đại thừa không được học giới Tiểu thừa. Học Tiểu thừa còn không được, huống chi học pháp ngoại đạo hay thế tục! 
  
Nếu học kinh sách ngoại đạo hay thế tục là dứt mất Phật tánh của mình, làm chướng ngại cho mình kiến tánh, không phải là hạnh Bồ Tát. Nếu mình cố làm như vậy thì phạm điều giới khinh này.

25- GIỚI TRI CHÚNG VỤNG VỀ
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt làm Pháp sư, Giảng sư, Luật sư, Thiền sư, Thủ tọa, Tri sự, Tri khách, phải có lòng từ bi khéo hòa giải trong chúng, khéo giữ gìn tài vật của Tam bảo, chớ dùng vô độ như của riêng mình, mà khuấy chúng gây gổ, kình chống, lung lòng xài của Tam bảo, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

Giảng giải: 
  
Điều này nói đến người xuất gia là Tăng bảo quan trọng nhất trong Tam bảo, có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh, thuyết pháp hay dạy pháp môn gì của Phật. Như người tu Mật tông thì hoằng dương Mật tông, tu Tịnh độ thì hoằng dương Tịnh độ, tu Tổ Sư thiền thì hoằng dương pháp môn Tổ Sư thiền. 
  
Bất cứ hoằng dương pháp môn nào cũng lấy phá ngã chấp làm căn bản, phải sanh lòng từ bi. 2 chữ “từ bi” là phá ngã chấp, từ bi và bác ái cách nhau rất xa; bác ái là chấp ngã. 
  
Từ là vô duyên từ, không có đối đãi, không có ta từ bi, không có người thọ nhận từ bi của ta. 
  
Bi là đồng thể bi, tức là thể của chúng sanh cũng là thể của ta; khổ của chúng sanh cũng là khổ của ta, không có đối đãi ta và ngươi. 
  
Cho nên, gọi là tâm từ bi.  
  
Bác ái thì có ta yêu đại chúng, có đối đãi có ngã. 
  
Ở trên nói hiếu thuận tâm, hiếu thuận tâm chúng sanh là từ bi. Như vậy, tất cả đều của chung, nên không được tranh giành, phải giữ gìn đồ vật của Tam bảo, không dùng lãng phí, đồ vật của Tam bảo cũng như đồ vật của mình. Vì còn có ngã chấp nên có tự có tha. Nếu chấp ngã tranh giành với nhau làm cho chúng lộn xộn, hay tự mình lãng phí của Tam bảo thì phạm điều giới khinh này.

26- GIỚI RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử ở trước trong tăng phường, lúc sau thấy khách Bồ Tát đến, hoặc nơi thành ấp nhà cửa của Tăng hay của vua, nhẫn đến chỗ kiết hạ an cư cùng trong đại hội,… chư Tăng ở trước phải rước vào đưa đi, cung cấp cho những đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường, ghế,… nếu tự mình không có thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung cấp cho những khách Tăng ấy. 
  
Nếu có Thí chủ đến thỉnh chúng Tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị tri sự phải theo thứ tự phái khách tăng đi thọ trai. Nếu chư Tăng ở trước riêng đi thọ trai mà không phái cho khách Tăng đi, thời vị tri sự mắc vô lượng tội, không đáng hàng sa môn, không phải dòng Thích tử, nào khác gì loài súc sanh. Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Theo quy củ Tòng Lâm Trung Quốc gọi nhà chùa là thường trụ, tức là nhà chùa của 10 phương, không phải của một tư nhân nào. Cho nên, người nào đến chùa này thì có phần làm chủ chùa này, khi nào đi chỗ khác không còn phần làm chủ. 
  
Người xuất gia mới đến ở tạm gọi là khách Tăng, khách Tăng và người ở lâu đều hưởng quyền lợi như nhau, không được phân biệt. Vậy người ở chùa lâu, thấy người mới đến phải nghinh tiếp. Việc ăn uống chỗ ở hay việc gì khác, quyền lợi đều bằng nhau. 
  
Trong này nói bán con trai, con gái, lóc thịt của mình bán, đó là muốn mình tận sức cúng dường giúp đỡ, không có tâm phân biệt, kính trọng khách Tăng mới đến. Mình ăn cái gì thì khách Tăng ăn cái nấy. Ở Tòng Lâm, cơm và đồ ăn của Tăng ở lâu và khách Tăng đều cùng một thứ. 
  
Trong giới điều của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không được riêng chúng mà ăn. Theo quy củ của Tòng Lâm, người chưa thọ giới Bồ Tát cũng đều như vậy. Nếu Thí chủ thỉnh đi thọ cúng dường, họ chỉ thỉnh 50 vị nhưng chùa có 100 Tăng thì vị tri sự phải mời các vị khách Tăng có phần dự trước, rồi sau lần lượt đến các vị Tăng ở lâu. 
  
Nếu không mời thỉnh khách Tăng dự cúng dường, trong này nói không phải con nhà Phật, mà là súc sanh. Cho nên, người thọ giới Bồ Tát này phạm khinh cấu tội.
27- GIỚI THỌ BIỆT THỈNH
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, tất cả chẳng nhận riêng của mình. Của cúng dường này của thập phương Tăng, nếu nhận riêng thời là lấy của thập phương Tăng đem về phần mình. Và của vật trong tám phước điền: Chư Phật, thánh nhân, sư Tăng, cha mẹ và người bệnh, tự mình riêng nhận dùng, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Quy củ của Tòng Lâm, chư Tăng phải ăn uống chung trong Tòng Lâm. Nếu chư Tăng được thỉnh riêng đi cúng dường. Tất cả tiền bạc vật dụng đều bỏ chung vào ngân khố của chùa, rồi sau chia điều cho mỗi vị Tăng. 
  
Nếu Tăng đi cúng dường riêng, vật dụng tiền bạc, mà không bỏ vào ngân khố của chùa, lại dùng riêng thì Tăng đó ăn trộm của thường trụ.
28- GIỚI BIỆT THỈNH TĂNG
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, có những hàng Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia và tất cả Đàn việt lúc muốn thỉnh Tăng để cúng dường cầu nguyện, nên vào tăng phường thưa với vị Tri sự. Vị Tri sự bảo rằng: Theo thứ tự mà thỉnh thời được thập phương Hiền Thánh Tăng. Mà người thỉnh riêng năm trăm vị A La Hán Bồ Tát Tăng vẫn không bằng theo thứ tự thỉnh một vị phàm phu Tăng. Trong giáo pháp của bảy đều không có pháp thỉnh Tăng riêng. Nếu thỉnh Tăng riêng, đó là pháp của ngoại đạo, là không thuận với hiếu đạo. Nếu Phật tử cố thỉnh riêng thời phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Điều 27 và điều 28 khác nhau chỗ: 
  
-Điều 27 là Tăng được thọ cúng dường, do Tăng đoàn sai đi. 
  
-Điều 28 là Tăng được Thí chủ thỉnh riêng đi thọ cúng dường. 
  
Nếu đã thọ giới Bồ Tát mà lựa thỉnh riêng để cúng dường thì không được phước nhiều. Cúng dường có trình qua Tăng đoàn thì chư Tăng theo thứ tự thay phiên nhau đi thọ cúng dường. trong này nói biệt thỉnh 500 vị A La Hán không bằng theo thứ lớp mà thỉnh một vị phàm Tăng. Đáng lẽ, cúng dường A La Hán thì phước được nhiều, nhưng vì phạm giới biệt thỉnh. 
  
Đại thừa phải phá ngã chấp, biệt thỉnh là chấp ngã; vì người nào mình thích thì thỉnh, người nào mình không thích thì không thỉnh. Cho nên, Phật pháp không có pháp biệt thỉnh. Nếu cố thỉnh riêng thì Phật tử phạm điều tội khinh này.
29- GIỚI TÀ MẠN NUÔI SỐNG
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử dùng ác tâm vì lợi dưỡng buôn bán nam sắc, nữ sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng bàn mộng, đoán sẽ sanh trai hay gái, bùa chú, pháp thuật, nghề nghiệp, phương pháp nuôi ó và chó săn, hòa hiệp trăm thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sanh kim, độc ngân, độc sâu cổ, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Nếu cố làm các điều như thế, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Nếu người tại gia thọ giới Bồ Tát, cũng phải có nghề sinh sống; nhưng phải lựa nghề tránh việc sát sanh, không phạm pháp luật nhà nước thì được làm. Không được có ác tâm vì lợi dưỡng buôn bán nam nữ. 
  
Các vị Tiểu thừa không tự mình nấu thức ăn, nên phải đi khất thực; Thí chủ cúng thứ gì thì ăn thứ ấy, không sanh tâm phân biệt và không mua cá thịt về chùa để ăn. Giới Đại thừa phải ăn chay, các nước Đại thừa như: Việt Nam, Trung Quốc,… 
  
Xem tướng đàn ông đàn bà, bàn mộng lành, sanh nam hay nữ,… làm những thuốc độc để bùa chú hóa giải đều là việc mê tín, nghịch với nhân quả, mà còn hại người, không có lòng từ bi, không được giải thoát. Nếu Phật tử thọ giới Bồ Tát cố làm thì phạm điều giới khinh này.
30- GIỚI QUẢN LÝ CHO BẠCH Y
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử vì ác tâm tự mình hủy báng Tam bảo, giả tuồng kính mến, miệng thì nói không, mà hành vi lại ở trong đó, làm quản lý cho hàng bạch y, vì hàng bạch y làm mai mối cho nam nữ giao hội sắc dâm, gây thành các nghiệp kiết phược; những ngày lục trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi năm, làm việc sanh trộm cướp, phá trai phạm giới, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”. 
  
Mười giới như thế, cần nên học hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm “chế giới” có giảng rõ.
Giảng giải: 
  
Người tại gia và người xuất gia cấu kết với nhau làm trái giới luật nhà Phật. Các vị xuất gia, tự mình hủy báng Tam bảo và dạy các vị tại gia hủy báng Tam bảo, cũng như tâm mình muốn nhưng lại nói không. Bạch y là người tại gia, chuyện của người tại gia thì người tại gia lo, tu sĩ không được lo chuyện của người tại gia. 
  
Luật Tỳ Kheo không cho mai mối hay làm nhân duyên cho nam nữ tư thông với nhau, cho đến gã cưới. Trách nhiệm của Tu sĩ là độ chúng sanh, mà lại làm những việc thế gian, chướng ngại cho việc tu hành giải thoát. 
  
Trong đây nói “6 ngày trai”. Bồ Tát tại gia phải thọ 6 ngày (8, 23, 14, 15, 29, 30) Bát quan trai trong 1 tháng (1, 5, 9), phải thọ Bát quan trai suốt 3 tháng. Nếu sát sanh, trộm cướp, hủy giới phá trai thì Phật tử phạm điều giới khinh này.
31- GIỚI KHÔNG MUA CHUỘC
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt ở trong đời ác, thấy hàng ngoại đạo, bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ Tát, cha mẹ, đem bán kinh luật, đem bán Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cùng những người hành đạo Bồ Tát , kẻ phát tâm bồ đề, để làm tay sai cho quan hay làm tôi tớ cho mọi người. Phật tử tự thấy những sự như thế, nên có lòng bi tìm cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật tử phải đi quyên tiền các nơi để chuộc hình tượng Phật, Bồ Tát và tất cả kinh luật, chuộc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, người tu hạnh Bồ Tát, kẻ phát tâm bồ đề. Nếu không mua chuộc, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Các nước văn minh không có buôn bán người, các nước lạc hậu cũng còn có nước buôn bán người. Người đã thọ giới Bồ Tát gặp súc sanh còn phải phóng sanh, huống là người bị buôn bán, phải tìm phương cứu giúp cho họ. Hoặc gặp tượng Phật, tượng Bồ Tát, tượng cha mẹ, kinh sách, phải cách tận sức mua chuộc; cho đến gặp Tu sĩ bị bắt, nếu không có tiền, phải đi quyên tiền để chuộc lại. 
  
Nếu Phật tử thọ giới Bồ Tát thấy mà không mua chuộc thì phạm điều giới khinh này.
32- GIỚI TỔN HẠI CHÚNG SANH 
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử không được buôn bán dao, gậy, cung, tên, những khí giới sát sanh. Không được chứa cân non giạ thiếu. Không được nương thế lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Không được ác tâm trói buộc người và phá hoại việc thành công của người. Không được nuôi mèo, chồn, heo, chó. Nếu cố làm các điều trên, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Người xuất gia theo giới luật là không được mua bán, người tại gia phải có việc làm ăn mua bán; nhưng làm nghề buôn bán không tổn hại chúng sanh, như mua bán cân lường phải đủ; nói giá rồi không tăng giá thêm, mặc dù đồ đó lên giá; nhưng mình đã nói giá rồi, thì phải theo giá đó mà bán. 
  
Không được ỷ thế lực của quan mà lấy tài sản người khác, hay là không được nuôi những thú ăn mặn, như “mèo, chồn, heo, chó,…”; những con vật ăn chay được nuôi, như “bò, trâu, ngựa, dê,…”, nhưng phải qua pháp tịnh thí. 
  
Tại sao gọi là pháp tịnh thí? Là mình thí chủ quyền cho người khác, nghĩa là mình nuôi chứ không được bán hay cho người ta có thể giết; mình nuôi đến khi nào nó tự chết, tức là tránh việc sát sanh. Nếu nuôi súc vật có liên quan đến sanh mạng thì phạm vào điều giới khinh này.
33- GIỚI TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, không đặng vì ác tâm đi xem các nam nữ… đánh nhau, hay binh trận binh tướng giặc cướp… đấu chiến nhau; cũng chẳng đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng,… cho đến bói xủ; chẳng được làm tay sai cho kẻ bọn cướp. Nếu cố làm các điều trên, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
(Giới này ở trong 10 giới Sa Di đã có và Bát quan trai cũng có).
34- GIỚI TẠM BỎ BỒ ĐỀ TÂM
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, ngày đêm sáu thời học tụng giới Bồ Tát này. Nên giữ gìn giới luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim cương, như đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ Kheo bị cột bằng dây cỏ. Thường có tín tâm lành đối với Đại thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa thành, còn chư Phật là Phật đã thành, rồi phát bồ đề tâm và giữ vững không thối chuyển. Nếu có một tâm niệm xu hướng theo Nhị thừa hay ngoại đạo. Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Nếu Phật tử đã thọ giới Bồ Tát, mà còn nhớ đến việc của Tiểu thừa thì phạm giới này, tức là luôn luôn giữ lập trường Đại thừa, cũng là bồ đề tâm. 
  
2 chữ “bồ đề” trước đó dịch là đạo, sau này dịch là giác ngộ. Muốn giác ngộ phải phát tâm vô sở đắc. Cho nên, Thiền tông nói “phát tâm bồ đề là phát tâm vô sở đắc”. Nếu có ngã chấp thì không phải tâm bồ đề. Đi đứng nằm ngồi luôn luôn giữ tâm bồ đề, như người ở ngoài biển phải giữ gìn phao nổi, không để phao bị lũng xẹp. 
  
Như có Tỳ Kheo giữ giới bị cướp tặc bắt và biết Tỳ Kheo này giữ giới, nên lấy cỏ buộc Tỳ Kheo lại, rồi bỏ đi. Vì giữ giới nên không bứt đứt cỏ để đi, chờ có ai đi ngang qua nhờ gở ra. Người thọ giới Bồ Tát phải giữ lập trường Đại thừa như Tỳ Kheo buộc cỏ. Tin mình là Phật chưa thành, chư Phật là Phật đã thành. 
  
Thành Phật là giác ngộ, muốn giác ngộ phải phát tâm vô sở đắc, không có niệm thối lui bồ đề tâm. Nếu có khởi lên niệm Tiểu thừa là làm mất bồ đề tâm, thì Phật tử thọ giới Bồ Tát phạm điều tội khinh này.
35- GIỚI KHÔNG PHÁT NGUYỆN
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, nên phát những điều nguyện lớn: Nguyện ở hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, nguyện gặp thầy tốt, bạn tri thức, thường dạy bảo tôi kinh luật Đại thừa, dạy cho tôi về “thập phát thú”, “thập trưỡng dưỡng”, “thập kim cương”, “Thập địa”, cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng chánh pháp, nguyện giữ vững giới của Phật; thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu tất cả Phật tử không phát tất cả điều nguyện trên đây thời phạm khinh cấu tội.
Giảng giải: 
  
Giới này là hạnh Bồ Tát phát nguyện Đại thừa để độ chúng sanh. Trên có nói “tâm hiếu thuận cha mẹ, sư trưởng, và Phật đều gồm trong tâm hiếu thuận chúng sanh”. Mình phải biết tìm thầy sáng suốt, gần gủi bạn lành, giúp đỡ cho mình tu hành pháp Đại thừa. 
  
Ở đây nói: “Mười phát thú, mười trưởng dưỡng, mười kim cang và mười địa”. Mười phát thú là Thập trụ có mười cấp, mười trưởng dưỡng là Thập Hạnh có mười cấp. Từ Sơ Địa đến Thập Địa là Bồ Tát, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng là Tam Hiền còn gọi là Hiền Vị. Thập Địa là địa vị Thánh, còn gọi là Hiền Thánh. 
  
Người thọ giới Bồ Tát nếu phạm điều này thì mất 42 ngôi vị Hiền Thánh, có thêm Đẳng Giác và Diệu Giác. Theo Giáo môn từ cấp từ cấp mà tu chứng. Muốn theo kinh Đại thừa thì phải hiểu ý trong kinh Đại thừa, y theo cách của Phật mà thực hành, y theo giới luật của Phật mà giữ. 
  
Nếu có phải bỏ thân mạng, chứ không bỏ giới luật của Phật và không bỏ sự tu hành của mình. Bồ Tát phải phải phát nguyện như vậy, trái lại không phát nguyện thì Phật tử thọ giới Bồ Tát phạm điều giới khinh này.
36- GIỚI KHÔNG PHÁT THỆ
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, khi đã phát mười điều nguyện trên đây rồi, phải giữ gìn giới cấm của Phật. Tự thệ rằng: Thà nhảy vào đóng lửa dữ, hố sâu, núi dao, quyết không cùng với tất cả người nữ làm điều bất tịnh, để phạm điều cấm trong kinh luật của tam thế chư Phật. 
  
Lại thề rằng: Thà lấy lưới sắt quấn giáp thân mình cả nghìn lớp, quyết không để thân này phá giới mà thọ những đồ y phục của tín tâm đàn việt. Thà chịu nuốt hoàn sắt nóng cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm ngàn kiếp, quyết không để miệng này phá giới mà ăn các thứ thực phẩm của tín tâm đàn việt. Thà nằm trên đống lửa lớn, trên tấm sắt nóng, quyết không để thân này phá giới mà nhận lấy các thứ giường ghế của tín tâm đàn việt. Thà trong một hai kiếp chịu cho trăm gươm giáo đâm vào mình, quyết không để thân này phá giới mà thọ các thứ thuốc men của tín tâm đàn việt. Thà nhảy vào vạc dầu sôi trong trăm nghìn kiếp, quyết không để thân này phá giới mà lãnh những phòng nhà, ruộng đất của người tín tâm đàn việt. 
   
Lại phát thệ rằng: Thà dùng chày sắt đập nát thân này từ đầu tới chân nát tan như tro bụi, quyết không để thân này phá giới mà thọ sự cung kính lễ bái của tín tâm đàn việt. 
   
Lại phát thệ rằng: Thà lấy trăm nghìn lưỡi gươm giáo khoét đôi mắt mình, quyết không đem tâm phá giới này, mà nhìn xem sắc đẹp của người. Thà lấy trăm nghìn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình trải trong một hai kiếp, quyết không đem tâm phá giới này mà nghe tiếng tốt giọng hay. Thà lấy trăm ngàn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, quyết không đem tâm phá giới này mà ngửi các mùi thơm. Thà lấy trăm ngàn lưỡi dao cắt đứt lưỡi mình, quyết không đem tâm phá giới này, mà ăn các thức ăn tịnh thực của người. Thà lấy búa bén chặt chém thân thể mình, quyết không đem tâm phá giới này mà tham mặc đồ tốt. 
  
Lại phát nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo. 
  
Nếu Phật tử không phát những điều thệ này, thời phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Tóm lại, điều này nói “thệ với nguyện” thường thường liền với nhau. Trong này chú trọng giữ giới, đã thọ giới Bồ Tát thì phải giữ giới. Tu sĩ được sự cúng dường ăn, mặc, ở, đi của Thí chủ. Kinh Lăng Nghiêm chưa nói đến phá giới, nếu Tu sĩ không tu hành thì có tội; có phá giới thì tội lại càng nặng thêm, tùy theo tội mà bị đọa địa ngục có khác nhau. 
  
Vì phát tâm giữ giới nên phải phát thệ nguyện, để buộc mình phải giữ giới, có chịu bao nhiêu cực khổ cũng không bỏ giới. Nếu không giữ giới thì không được mặc chiếc áo, ăn uống của Thí chủ, tức là không thọ dụng của Tín chủ mười phương. Dù có dao đâm tan nát thân này, nếu lấy tâm phá giới thì không được. Tóm lược ý là như vậy. 
  
Không những tự mình giữ giới mà còn phát nguyện tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. Bởi vì, mình thọ sự cúng dường của Thí chủ mười phương, phải có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh để tu hành thành Phật, giải thoát tất cả khổ. Không giác ngộ thì không giải thoát tất cả khổ. 
  
Tu sĩ phải tự giác, giác tha, nên phát nguyện cho tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. Đây là việc Tu sĩ có trách nhiệm, nếu không như thế thì phạm điều giới khinh này.
37- GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, mỗi năm phải hai kỳ hạnh đầu đà, mùa đông mùa hạ thời ngồi thiền kiết hạ an cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bát, bình, tọa cụ, tích trượng, hộp lư hương, đãy lượt nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ Tát. Khi Phật tử cử hành đầu đà cùng lúc du phương đi lại trăm dặm ngàn dặm, mười tám món này mang luôn bên mình. Đây là hai kỳ hành đầu đà trong mỗi năm: Từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, và từ rằm tháng tám đến rằng tháng mười. Trong hai kỳ hành đầu đà, luôn mang theo 18 món ấy như chim có hai cánh. 
  
Nếu đến ngày bố tát, hàng tân học Phật tử, mỗi nửa tháng luôn bố tát, tụng mười giới trọng và bốn tám giới khinh. 
  
Lúc tụng ở trước tượng Phật và Bồ Tát mà tụng. Chỉ có một người bố tát thời một người tụng, nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm ngàn người cũng một người tụng, còn bao nhiêu thời lắng nghe. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều và năm điều. Trong lúc kiết hạ an cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc. 
  
Lúc hành đầu đà chớ đi đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có sư tử, cọp, sói,… cùng bão lụt, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít,… Tất cả nơi hiểm nạn ấy đều không được đến. Chẳng những lúc hành đầu đà, mà lúc kiết hạ an cư cũng không được vào chỗ hiểm nạn ấy. 
  
Nếu cố vào những nơi ấy, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Giới này và giới ở trên nói “bố thí cho sư tử, sói, lang,…” thì nghịch với nhau. 
  
Ý của Phật trong giới Bồ Tát là muốn độ chúng sanh, khi cần bỏ thân mạng để độ chúng sanh thì nên bỏ. Lúc việc không có giá trị thì phải giữ thân mạng này. Điều này bảo mình phải giữ thân mạng, chỗ nguy hiểm không nên đến, cũng không nên kiết hạ ở chỗ đó. 
  
Trong này nói “hành đầu đà”, các nước Đại thừa không còn thói quen này, chỉ các nước Tiểu thừa mới còn. Hành khổ hạnh (hành đầu đà) vào mùa đông và mùa hạ, phải đem theo 18 món cần dùng cho mình. Ở Việt Nam không có thầy nào hành cước như vậy. 
  
Tụng giới, kiểm thảo, truyền giới và làm việc đều ở trong ngày bố tát. Bố tát phải kiểm thảo trong nửa tháng qua mình có lỗi nên tự mình phát lồ sám trước đại chúng. Nếu có tội mà không phát lồ sám hối, đại chúng biết thì cử tội người ấy ra kiểm điểm. Nếu bạn mình biết mà ngăn che thì bạn mình cũng bị tội. 
  
Bây giờ, thường tụng giới để nghe thôi. Một người tụng nhiều người nghe, một người tụng thì một người nghe. Theo thứ tự, người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp, đều phải mặc áo đắp y đàng hoàng. 
  
Ở đoạn sau nói “chỗ có nguy hiểm không được đến, như nước lửa gió cùng là cướp tặc, sư tử, hổ, lang, rắn độc,…”. Nếu đi đến chỗ nguy hiểm như thế thì phạm điều giới khinh này.
38- GIỚI TRÁI THỨ TỰ TÔN TY
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, phải theo thứ tự đúng pháp mà ngồi: Người thọ giới trước thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau; không luận già, trẻ, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Người sang như Quốc vương, Hoàng tử, nhẫn đến kẻ hèn như huỳnh môn, tôi tớ,… tất cả đều nên theo thứ tự mà ngồi. Người thọ giới trước thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau. 
  
Không được như hàng ngoại đạo, si mê, hoặc già hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn xộn không có thứ tự, không khác nào kẻ binh nô. Trong Phật pháp của ta, hễ thọ giới trước thời ngồi trước, còn người thọ giới sau thời ngồi sau. 
  
Nếu Phật tử không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Trong Tăng đoàn gồm có 7 chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa, Sa Di, Sa Di Ni (5 chúng này thuộc xuất gia), nam cư sĩ và nữ cư sĩ (2 chúng này tại gia), phải theo thứ tự mà ngồi. Tuổi của Tỳ Kheo tính theo hạ lạp, cứ 1 năm thì Tỳ Kheo tính là 1 hạ; tuổi hạ nhiều thì cao, tuổi hạ ít thì thấp. Theo trong giới luật từ 1 hạ đến 9 hạ, gọi là Hạ tọa; từ 10 tuổi hạ đến 19 tuổi hạ, gọi là Trung tọa; từ 20 tuổi hạ đến 29 tuổi hạ, gọi là Thượng tọa; từ 30 tuổi hạ trờ lên, gọi là Trưỡng lão. Nhưng bây giờ không có ai gọi là Hạ tọa, Trung tọa, Thượng tọa nữa. 
  
Theo thói quen của Việt Nam tính từ dưới lên là Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng. Sự thật, mới xuất gia có thể làm Hòa thượng, 50 tuổi hạ mới làm Thượng tọa. Tỳ Kheo 10 tuổi hạ thì được xa thầy bổn sư, làm thầy cho người khác; tức là có quyền thu nhận đệ tử xuất gia, còn dưới 10 hạ thì phải ở với thầy bổn sư học kinh luật cho thông suốt. 
  
Hòa thượng là thân giáo sư hay là giáo giới sư (bổn sư), vì Hòa thượng thâu đệ tử xuất gia, truyền giới Sa Di, giới Tỳ Kheo và giới Bồ Tát. Thường lệ bây giờ, bổn sư chỉ có cạo đầu, còn truyền giới để cho giới đàn. Tỳ Kheo Ni phải 12 tuổi hạ mới được xa rời thầy bổn sư.
Khi bố tát phải có trật tự, nếu không như vậy thì phạm điều giới khinh này.
39- GIỚI KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ 
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, thường phải khuyến hóa mọi người kiến tạo tăng phường nơi núi rừng, vườn ruộng, xây dựng Phật pháp, chỗ an cư, tọa thiền trong mùa đông  mùa hạ, tất cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo. 
  
Người Phật tử phải giảng thuyết kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sanh. Lúc tật bệnh, nước có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa thượng A xà lê khuất tịch, và mỗi tuần thất, nhẫn đến 7 tuần thất, cũng nên giảng kinh luật Đại thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi có tai nạn lụt, bão, hỏa hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông hồ biển lớn, gặp quỷ la sát,… đều cũng đọc tụng kinh luật Đại thừa. Nhẫn đến tất cả tội báo, tam ác, bát nạn, thất nghịch gông cùm xiền xích trói buộc tay chân, hoặc người dâm, nhiều sân, nhiều ngu, nhiều tật bệnh, đều nên giảng kinh luật Đại thừa này. 
  
Nếu hàng tân học Phật tử không thật hành như trên đây, thời phạm “khinh cấu tội”. 
  
Chín giới này như thế cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm “Phạm Đàn”có giải rộng.
Giảng giải: 
  
Bây giờ Phật Giáo theo thói quen, cầu an cầu siêu là tụng kinh lễ sám, Phật Giáo ngày xưa không phải vậy. Phật dạy trong kinh Phạm Võng: “Cầu an, cầu siêu nên mời Pháp sư thuyết pháp kinh Đại thừa” mới đúng, chứ không dạy mình lễ sám tụng kinh. 
  
Trong này bậc xuất gia thọ giới Bồ Tát  có trách nhiệm giáo chúng sanh. Kỳ thật, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cũng có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh. Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni là giới Tiểu thừa chuyên tự lợi, ít lợi tha. Giới Bồ Tát là giới Đại thừa chuyên lợi tha. Muốn độ chúng sanh phải có chỗ thuyết pháp, chỗ tu hành, nên phải sáng lập chùa, đạo tràng. Nhưng hiện nay chùa thì nhiều, mà hành đạo lại ít. 
  
Theo điều này Bồ Tát phải độ chúng sanh, nên giảng thuyết kinh Đại thừa. Bất cứ có bệnh, nước nhà bị tai nạn, cha mẹ anh em mất, Hòa thượng A xà lê qua đời, đều phải thỉnh Pháp sư giảng kinh luật Đại thừa; cho đến trai hội cầu nguyện, lửa thiêu, nước trôi, gió dữ, thổi chìm ghe tàu nơi sông hồ biển lớn, cũng đều giảng kinh luật Đại thừa; nhẫn đến tội báo trong ba đường tám nạn, bảy nghịch gông cùm xiềng xích trói buộc thân thể, hoặc thường lòng mống dâm giận ngu si nhiều tật bệnh, đều phải giảng kinh luật Đại thừa này. 
  
Bây giờ, hành đạo không theo lời Phật dạy mà thực hành, lại tụng kinh bái sám. Muốn y theo lời của Phật để cầu an cầu siêu, thì đem kinh luật Đại thừa mà thuyết. Nếu không như vậy, phạm điều giới khinh này.
40- GIỚI KHÔNG BÌNH ĐẲNG TRUYỀN GIỚI
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, lúc cho người thọ giới không được lựa chọn. Tất cả hàng quốc vương, hoàng tử, các quan, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, tín nam, tín nữ, dâm nam, dâm nữ, phạm thiên trong 16 cõi sắc, thiên tử trong 6 cõi dục, người thiếu căn, hai căn, huỳnh môn, tôi tớ và tất cả quỷ thần đều được thọ giới. Tất cả y phục ngọa cụ nên bảo phải hòa màu: Xanh, đỏ, đen, tím nhuộm thành hoại sắc cho hiệp với đạo. 
  
Trong cả quốc độ, theo y phục của người trong nước mặc, y phục của thầy Tỳ Kheo phải khác y phục của người thế tục. 
  
Khi ai muốn thọ giới Bồ Tát, vị sư phải hỏi rằng: Trong đời này ngươi có phạm tội thất nghịch chăng? Bồ Tát Pháp sư không được cho người phạm tội thất nghịch thọ giới trong đời này. 
  
Đây là tội thất nghịch:  Aùc tâm làm thân Phật chảy máu, hại bực thánh nhân, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá yết ma Tăng chuyển pháp luân. 
  
Nếu phạm tội thất nghịch, thời hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất cả người đều được thọ giới. 
  
Theo pháp của người thế gian, không lạy quốc vương, cha mẹ, lục thân và quỷ thần. 
  
Phàm hễ ai nhận hiểu lời Pháp sư đều được thọ giới. Mà có người trăm dặm ngàn dặm đến cầu pháp, nếu Bồ Tát Pháp sư vì ác tâm, sân tâm, mà không mau mắn truyền giới Bồ Tát cho người ấy, thời phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Nếu Pháp sư thấu suốt kinh luật, mà lựa chọn vua, quan, thái tử để truyền giới, còn người khác không được truyền giới thì Pháp sư này không làm đúng giới luật. Trong kinh Phạm Võng nói “tất cả chúng sanh loài nào nghe hiểu lời Pháp sư thì được Pháp sư truyền giới”. 
  
Theo giới Thanh Văn thì phải đúng người mới được thọ giới, còn không phải người thì không được thọ giới; như người nam phải đúng người nam, người nữ phải đúng người nữ. Vô căn là không phải nam không phải nữ, hay là một người có nam căn và nữ căn, cũng không được thọ giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. 
  
Huỳnh môn là quan chức của Thái giám, đầy tớ cho vua trong hoàng cung, nên bị mất đi nam căn, để khỏi quan hệ bậy bạ với các Tỳ nữ. Cho nên, huỳnh môn không được thọ giới Tỳ Kheo, cho đến chư thiên, ma quỷ, súc sanh không được thọ. 
  
Nói “mặc y cho hoại sắc”, chánh sắc là: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Hoại sắc là nhiều màu lộn xộn với nhau, không được đẹp. Người xuất gia phải mặc y áo, tọa cụ nhuộm cho hoại sắc, cho khác với người thế tục. Bất cứ nước nào cũng vậy, tuy nước này nước kia y phục có khác nhau, nhưng người xuất gia và người tại gia, quần áo phải khác biệt, để cho người ta biết được người tại gia hay người xuất gia. 
  
Những ai nghe hiểu được lời Pháp sư thì được thọ giới, nhưng có phạm tội thất nghịch thì không được thọ. Tội thất nghịch là gì? Là làm cho Phật ra máu, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng thân giáo sư, giết Thượng sư (thầy truyền giới là tam sư thất chứng), phá yết ma chuyển pháp luân Tăng (Tăng đoàn làm chủ 100%). 
  
Nếu Tăng đoàn có 100 người mà thiếu 1 người thì yết ma không hợp pháp. Cho nên, trong giới luật nếu có người bệnh nặng, hay có việc gì bận, phải ủy nhiệm cho Tỳ Kheo khác để báo cáo cho đại hội, lý do gì không đến, được sự đồng ý của mọi người. Người được uỷ nhiệm nói năng rõ ràng. Tăng đoàn có việc lớn nhỏ đều phải qua yết ma làm việc. 
  
Nếu có 4 vị Tăng lập một Tăng đoàn nhỏ, làm yết ma để phản đối pháp yết ma của Tăng đoàn lớn, gọi là phá yết ma chuyển pháp luân Tăng. Nhưng bây giờ Tăng đoàn không có làm sao phá được? Dĩ nhiên, điều này không ai phạm. Phật đã nhập Niết Bàn lâu rồi, cũng không thể làm cho Phật ra máu được, nên không thể phạm điều này. Giết thánh nhân tức là giết những người có chứng quả A La Hán, Bích Chi Phật và các vị từ Sơ Địa đến Thập Địa rồi đến Phật. 
  
Nếu phạm 1 trong 7 điều này thì không cho thọ 5 giới, 10 giới, 250 giới cho đến Bồ Tát. Khi truyền giới, lúc làm yết ma, hỏi giới tử có phạm tội thất nghịch không? Nếu giới tử có phạm tội thất nghịch mà che dấu, có thọ rồi cũng không được đắc giới, còn không phạm thì được thọ. 
  
Theo pháp của Phật, người xuất gia không được lạy vua quan, cha mẹ, lục thân và quỷ thần. Trước xuất gia phải lạy cha mẹ lần cuối rồi xuất gia. Trong lục đạo, cõi trời là cấp thứ nhất, loài người là cấp thứ hai, a tu la là cấp thứ ba, súc sanh là cấp thứ tư, quỷ thần là cấp thứ năm. Dù quỷ thần làm quan ở loài quỷ cũng là quỷ, như người làm quan ở loài người vẫn là người, làm quan gọi là thần. 
  
Nghiệp quỷ thần có chút thần thông, loài người tu hành cũng có thần thông, nếu không có tu hành thì không có thần thông. Tuy loài người không tu hành vẫn là cấp thứ hai, hơn quỷ thần tới 3 cấp. Đáng lẽ, quỷ thần lễ bái loài người; trái lại, loài người lễ bái quỷ thần là việc vô lý! Vì họ cho quỷ thần có thần thông, nếu vậy thì cũng lễ bái con chim, vì con chim biết bay, còn con người không biết bay. 
  
Tất cả chúng sanh hiểu được lời Pháp sư thì được thọ giới. Nếu có người từ trăm ngàn dặm đến cầu pháp xin thọ giới. Pháp sư có ác tâm khinh khi không truyền giới cho người này thì Pháp sư ấy phạm điều giới khinh.
41- GIỚI VÌ LỢI LÀM THẦY
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, giáo hóa người sanh lòng tin tưởng pháp Đại thừa, Bồ Tát làm Pháp sư giáo hóa cho người. Lúc thấy người muốn thọ giới Bồ Tát, nên bảo người ấy thỉnh hai đại sư: Hòa thượng và A xà lê. 
  
Phải hỏi người ấy có phạm tội thất nghịch không? Nếu người ấy hiện đời có phạm tội thất nghịch, thời Pháp sư không được cho người ấy thọ giới. Như không phạm thất nghịch thời cho thọ giới. Nếu có phạm trong mười giới trọng, phải bảo người ấy sám hối; đối trước tượng Phật và Bồ Tát, ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ Tát, tha thiết đảnh lễ cho được thấy hảo tướng. Sám hối như thế trong bảy ngày, mười bốn ngày, hai mốt ngày, nhẫn đến trọn một năm, mãi đến chừng nào thấy được hảo tướng. 
  
Đây là hảo tướng: Thấy Phật đến xoa đầu, thấy quang minh, thấy hoa báu,… các thứ cảnh tượng lạ. Thấy được những hảo tướng ấy là triệu chứng tội đã tiêu diệt. Nếu không được thấy hảo tướng, dầu có sám hối cũng vô ích. Người này hiện đời cũng không đắc giới. 
  
Nếu là người phạm bốn mươi tám điều giới khinh, đối thú sám hối, thời tội tiêu diệt, không phải tội thất nghịch. 
  
Vị Pháp sư giáo giới ở trong những pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu kinh luật Đại thừa, những giới khinh, giới trọng, hành tướng phải, chẳng phải; không hiểu đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, tánh chủng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh. Những quán hạnh đa, thiểu, xuất, nhập của trong các pháp đó, cùng mười thiền chi, tất cả pháp hạnh, mỗi mỗi điều không hiểu. Phật tử vì tài lợi, vì danh tiếng, cầu quấy, cầu nhiều, tham đệ tử đông nên giả tuồng là mình hiểu biết tất cả kinh luật để được cúng dường, đó là dối mình mà cũng khi dối người khác. Nếu cố làm giới sư truyền giới cho người, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Điều này nói: Muốn thọ giới Bồ Tát phải thỉnh 2 vị Hòa thượng và A xà lê. Kỳ thật thỉnh 1 vị cũng được. Vì thọ giới Bồ Tát khác với giới Thanh Văn. 
  
Giới Thanh Văn, khi truyền 10 giới cần có 4 vị Tăng để truyền, vì 4 vị Tăng mới thành Tăng đoàn. Truyền giới Tỳ Kheo phải có 10 vị Tăng, truyền giới Tỳ Kheo Ni phải có 10 vị Tỳ Kheo và 10 vị Tỳ Kheo Ni. 
  
Còn thọ giới Bồ Tát là thọ giới suốt đời, thọ giới Thanh Văn chỉ được trong 1 đời. Thọ giới Bồ Tát nếu thân có mất, nhưng giới Bồ Tát không mất. Cho nên, Pháp sư truyền giới chỉ thay cho Phật và Bồ Tát  để truyền. Tăng không được làm Hòa thượng đắc giới, như vậy chỉ cần một thầy truyền giới; nhưng phải thỉnh Phật Thích Ca làm Hòa thượng đắc giới, Bồ Tát Văn Thù làm Hòa thượng yết ma, Bồ Tát Di Lặc làm Hòa thượng giáo thọ và mười phương chư Phật làm tôn chứng. 
  
Hiện nay, cho Hòa thượng là cao nhất, dưới là Thượng tọa, kế nữa là Đại đức. Trong giới Bồ Tát có thỉnh Phật Thích Ca, xưng là Đại đức Thích Ca Mâu Ni, Đại đức Văn Thù, Đại đức Di Lặc. Vậy, 2 chữ ‘Đại đức’ đâu phải thấp! Cho nên, một thầy hay hai thầy thay mặt cho Tam bảo để truyền giới, chứ không phải làm yết ma hay giáo thọ. 
  
Khi truyền giới, phải hỏi giới tử có phạm tội thất nghịch không? Nếu có phạm không được thọ giới, còn không phạm thì được thọ. Thọ giới rồi, nếu có phạm 10 giới trọng thì phải sám hối. Nhưng trong này nói “Ở trước tượng Phật và tượng Bồ Tát mà sám hối”, tôi (Duy Lực) nghi chỗ này không đúng, người sau này có thể thêm vào. Kinh luật của Phật cũng có người có ý mình thêm vô, có người làm tài khôn chú thích, rồi in đoạn này thành chánh văn. 
  
Giới luật ở trong đại tạng, việc sám hối phải đối với người. Theo lý này mình cũng biết như vậy, không được trước tượng Phật và tượng Bồ Tát mà sám hối. Nếu có sám hối, vậy ai chứng minh? Vì tượng Phật và tượng Bồ Tát là tượng trưng thôi, đâu có ai biết! Còn sám hối phải có người chứng minh thì người phạm tội mới sợ, rồi quyết tâm giữ giới. 
  
Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni phạm giới ba la di thì không được sám hối, nên bị tử hình. Có kinh nói cho sám hối, tức là lúc phạm xong, liền báo cáo Tăng đoàn xin sám hối, Tăng đoàn chấp thuận: 
  
-Tỳ Kheo phạm giới ba la di phải phụng sự 20 vị Tỳ Kheo trong thời gian nửa tháng, làm những việc rót nước, bới cơm, giặt giũ,… 20 vị Tỳ Kheo này thấy Tỳ Kheo phạm giới có lòng chân thật sám hối, mới làm pháp yết ma cho sám hối. Sám hối là hết tội địa ngục, nhưng giới Tỳ Kheo phải mất, chỉ được làm Sa Di. Nếu có 1 trong 20 vị Tỳ Kheo không đồng ý thì không được sám hối. 
  
-Tỳ Kheo Ni phạm giới ba la di phải phụng sự 20 Tỳ Kheo và 20 Tỳ Kheo Ni nửa tháng. Nếu 1 người trong 40 người không đồng ý, thì Tỳ Kheo Ni ấy không được sám hối. 
  
Tội cấp 2 phụng sự 7 người, tội cấp 3 phụng sự 4 người, cho đến cấp 4 cấp 5 thì chỉ đối thú 1 người, tức là nói với người ấy chứng minh cho mình lần sau không tái phạm nữa. 
  
Tỳ Kheo sám hối với Tỳ Kheo, Sa Di sám hối với Sa Di, cấp nhỏ sám hối với cấp lớn, như Sa Di sám hối với Tỳ Kheo, Tỳ Kheo không được sám hối với Sa Di. Người có thọ 5 giới thì sám hối với người có thọ 5 giới, Sa Di, Tỳ Kheo; nhưng không được sám hối với người chưa thọ giới, vì họ không biết giới. 
  
Trong này, nói thấy hảo tướng, các pháp môn khác thì khó thấy hảo tướng, chứ tham Tổ Sư thiền dễ thấy hảo tướng; nhưng tham Tổ Sư thiền thấy hảo tướng cũng cần quét bỏ, nếu chấp hảo tướng là thiền bệnh. Chỗ này không đúng với ý Phật trong kinh luật. Trong kinh luật đối với người mà sám hối.
42- GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, không được vì tài lợi mà đem đại giới của chư Phật đây nói với người chưa thọ giới Bồ Tát, hoặc với hàng ngoại đạo, những người tà kiến,… trừ quốc vương, ngoài ra không được nói tất cả những hạng người ấy. Những hạng người ấy chẳng thọ giới của Phật, gọi là súc sanh; đời đời sanh không gặp ngôi Tam bảo, như cây đá, không có tâm thức;  gọi là ngoại đạo, bọn tà kiến, nào khác cây cối. Với những hạng người tà ác ấy, nếu Phật tử giảng nói giới pháp của chư Phật, thời phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Đối với những người có thành tâm muốn thọ giới của Bồ Tát thì mình giảng cho họ biết. Người có ác tâm muốn nghe để hủy báng thì không nên giảng. Nếu mình giảng cho những người có ác tâm nghe thì phạm điều giới khinh này.
43- GIỚI MỐNG TÂM PHẠM GIỚI
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, do đức tin mà xuất gia, thọ chánh giới của Phật, lại cố mống tâm hủy phạm giới pháp, thời không được thọ lãnh đồ cúng dường của tất cả Đàn việt, cũng không được đi trên đất nước của quốc dân, không được uống nước của quốc dân. Năm nghìn đại quỷ luôn luôn đứng án trước mặt người đó mà gọi là “gả bợm giặc”. Nếu khi vào trong nhà thành ấp, các quỷ thường theo chà quét dấu chân của người ấy. Tất cả người đời đều mắng người ấy là kẻ giặc trong Phật pháp. Hết thảy chúng sanh đều không muốn nhìn ngó người ấy. Người phạm giới, khác nào loài súc sanh, cây cỏ. Nếu cố hủy phá giới pháp của Phật, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Điều này giống như điều trên nói “chẳng thà thọ khổ, chứ không đem tâm phá giới để thọ sự cúng dường của mười phương Thí chủ”. Mình phải biết hổ thẹn, nếu không có tư cách thì không thọ nhận cúng dường của mười phương Thí chủ. Mình ăn cơm, mặc áo, đi lại,… đều của mười phương Thí chủ; mình phải hổ thẹn giữ gìn giới luật, y theo chánh pháp tu hành, để tự giác và giác tha. Nếu không như vậy thì phạm điều giới khinh này.
44- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, phải thường nhất tâm thọ trì đọc tụng kinh luật Đại thừa, dùng giấy, vải, hàng, lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc cùng hoa hương vô giá và tất cả châu báu làm hộp, rương, đựng những quyển kinh luật. 
  
Nếu không y theo pháp cúng dường kinh luật, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Kinh luật thuộc về Pháp bảo, nhưng thọ giới Bồ Tát thì Phật bảo và Pháp bảo, mình cũng phải cúng dường kính trọng. Theo văn ở đây, ý muốn tận sức mà làm. Như ngày đêm tham thiền là đã làm theo hết ý ở đây rồi, vì đã theo kinh thực hành là rất kính trọng Pháp bảo.
Tam bảo có 2 thứ: Thường trụ Tam bảo và Tự tánh Tam bảo.
-Quy y là quy y Thường trụ Tam bảo. Lấy tượng Phật để tượng trưng cho Phật bảo. Kinh luật là tượng cho Pháp bảo. Chư Tăng Ni tượng trưng cho Tăng bảo. Muốn Tam bảo thường trụ ở thế gian, phải có tượng Phật và kinh luật để cho người ta thấy.
-Phải nhờ Thường trụ Tam bảo giáo hóa ngộ nhập Tự tánh Tam bảo, tức là thành Phật được tự do tự tại, giải thoát tất cả khổ.
Phật muốn mình đạt đến tự do tự tại, nên dạy cách thực hành; có 84.000 pháp môn, quy lại có 4 loại (tham thiền, niệm Phật, trì chú, quán tưởng), tùy theo căn cơ thích hợp chọn 1 trong 4 loại này mà thực hành; tức là thực hành theo Pháp bảo, đưa mình đến địa vị Phật.
Người hành đạo Bồ Tát phải cúng dường kinh luật. Nếu không cúng dường kinh luật, thì Phật tử thọ giới Bồ Tát phạm điều giới khinh này.
45- GIỚI KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH 
Chánh văn:
Nếu Phật tử, nên có lòng đại bi, khi vào trong tất cả nhà cửa thành ấp, thấy những loài chúng sanh phải xướng lên rằng: “Các ngươi đều nên thọ tam quy và thập giới”. Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê,… nên tâm nghĩ miệng nói: “Các ngươi là súc sanh phải phát bồ đề tâm”. Khi Phật tử đi đến núi, rừng, sông, ruộng cùng tất cả chỗ, đều là cho hết thảy chúng sanh phát bồ đề tâm. Nếu Phật tử không phát tâm giáo hóa chúng sanh, thời phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải: 
  
Điều này dễ làm, nhưng ít thấy người ta làm. Thọ giớ Bồ Tát là để giáo hóa chúng sanh, không những giáo hóa người mà còn giáo hóa súc sanh; tuy súc sanh không biết tiếng người, nhưng phải có tâm nghĩ tưởng nói “các ngươi là súc sanh hãy phát tâm bồ đề”. 
  
Kinh Hoa Nghiêm có kệ: 
   
Nhược nhân dục kiễu tri,  
Tam thế nhất thiết Phật. 
Ưng quán pháp giới tánh,  
Nhất thiết duy tâm tạo. 
  
Dịch nghĩa: 
   
Nếu người muốn biết rõ, 
Hết thảy Phật ba đời. 
Đều quán tánh pháp giới,  
Tất cả do tâm tạo.

Tất cả pháp đều do tâm tạo, khi tâm tạo rồi thì có nhân, phải có quả. Như giữa đường mình gặp con chó, phải phát tâm miệng nói “các ngươi là súc sanh hãy phát tâm bồ đề”; tuy nó có nghe hay không, nhưng đã có kết duyên với nó rồi. Sau này, con chó đầu thai thành người thì mình có cơ hội độ nó, vì mình có phát tâm độ nó tức là mình có tạo rồi.
Dù Phật có thần thông biến hóa vô lượng vô biên, nhưng không độ được những chúng sanh không có duyên. Hành đạo Bồ Tát, việc này dễ làm, làm có ích chứ không có hại. Nếu mình không làm thì phạm điều giới khinh này.
46- GIỚI THUYẾT PHÁP KHÔNG ĐÚNG PHÁP
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, thường nên có lòng đại bi phát tâm giáo hóa. Lúc vào nhà Đàn việt sang giàu, cùng trong tất cả chúng hội, không được đứng thuyết pháp cho hàng bạch y, phải ngồi trên tòa cao trước chúng bạch y. 
  
Vị Pháp sư Tỳ Kheo không được đứng thuyết pháp cho tứ chúng. Khi thuyết pháp vị Pháp sư ngồi tòa cao, dùng hoa hương cúng dường, còn tứ chúng, hàng thính giả thời ngồi dưới. Đối với Pháp sư phải như là hiếu thuận cha mẹ, kính thuận sư trưởng như Bà La Môn thờ lửa. Nếu Phật tử thuyết pháp mà không đúng như pháp, thời phạm “khinh cấu tội”.

Giảng giải: 
  
Giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni có nói mười mấy điều về vấn đề này, là muốn tất cả người nghe pháp phải kính trọng pháp, cũng là kính trọng Pháp sư thuyết pháp. Pháp sư thuyết pháp không phải muốn người kính trọng mình. Vì muốn người trọng Pháp bảo, nên dạy người nghe pháp kính trọng lễ bái Pháp sư. Pháp sư phải ngồi cao, người nghe phải ngồi thấp. 
  
Điều này muốn tứ chúng kính trọng Pháp sư, kính trọng Pháp bảo. Nếu không kính trọng Pháp sư, không kính trọng Pháp bảo thì Phật tử thọ giới Bồ Tát phạm điều giới khinh này.

47- GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc quốc vương, hoàng tử, các quan, bốn bộ đệ tử ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới luật pháp, lập ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật, không cho xuất gia hành đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ Tát, cùng tháp và kinh luật. Lại đặt ra chức quan đổng lý hạn chế tứ chúng và lập bộ sổ ghi số Tăng. Tỳ Kheo Bồ Tát đứng dưới đất, còn bạch y ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi pháp như binh nô thờ chủ. Hàng Bồ Tát này chính nên được mọi người cúng dường, mà trở lại bắt làm tay sai của các quan chức, thế là phi pháp phi luật. 
  
Nếu quốc vương và các quan có lòng tốt thọ giới của Phật, chớ làm tội phá Tam bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm khinh cấu tội.

Giảng giải: 
  
Điều này đối với người chuyên có nắm quyền, có quyền thế của vua quan. Ở trên có một điều khuyên những người có quyền thế nên thọ giới Bồ Tát. Đã thọ giới Bồ Tát thì phải kính trọng Tam bảo, giúp cho Phật pháp hoằng dương ở thế gian, để cho tất cả chúng sanh giải thoát tất cả khổ. Nếu ỷ quyền thế của mình hạn chế việc hoằng pháp thì Phật tử thọ giới Bồ Tát phạm điều giới khinh này.

48- GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
Chánh văn: 
  
Nếu Phật tử do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng và tài lợi, giảng thuyết giới của Phật cho quốc vương và các quan, làm những sự gông trói các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, người thọ giới Bồ Tát như cách ngục tù và binh nô. Như trùng trong thân thân sư tử ăn thịt sư tử, chớ chẳng phải trùng ở ngoài đến ăn. Cũng thế, các Phật tử tự phá Phật pháp, không phải ngoại đạo hay thiên ma phá được! 
  
Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới luật của Phật như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá. 
  
Người Phật tử khi nghe ngoại đạo, người ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phật, thời đau đớn không khác nào cả ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả nghìn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự cam vào ở địa ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy báng giới pháp của Phật do bọn người ác. Huống là không lòng hiếu thuận, tự mình hủy phá giới của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy phá. Nếu cố phá giới pháp, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”. 
   
Chín giới như vậy, cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì.

Giảng giải: 
  
Đã thọ giới Bồ Tát thì cứu độ chúng sanh, mình vì lợi dưỡng, danh dự mà ở trước vua quan, do sự vui thích của vua quan mà nói những điều cho vua quan trói buộc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni và hàng Phật tử. Phật tử đó như trùng ở trong thân sư tử, tiêu diệt Phật pháp không phải ngoại đạo. 
  
Mặc dầu, con sư tử đã chết, nhưng các con vật khác như: Cọp, beo, sói, chó,… thấy đều phải sợ, không dám đến gần. Nhưng chỉ con trùng ở trong thân sư tử, ăn thịt nó. 
  
Phật nói “Phật pháp tiêu diệt là do đệ tử của Phật, tự phá Phật pháp, chứ không phải thiên ma nào phá nổi”. Cho nên, mình đã thọ giới Bồ Tát coi Phật pháp như con độc nhất của mình, như phụng sự cha mẹ của mình. Vậy, mình không được hủy báng phá hoại Phật pháp. 
  
Thấy người khác hủy báng phá hoại Phật pháp, giống như đem dao đâm vào tim của mình; thà chịu vào địa ngục trăm kiếp, chứ không nghe người ác hủy báng Phật pháp. Trái lại, mình phá hoại Phật pháp, nói cho vua quan và người khác phá hoại Phật pháp, thì Phật tử thọ giới Bồ Tát phạm điều giới khinh này. 
  
Kỳ thật, mỗi điều tội khinh đều có tội nặng, không phải hoàn toàn tội khinh, cũng tùy theo tình trạng có tội nặng.
Hỏi: 
  
Trong điều 31 nói “nếu gặp người ác bán hình tượng Phật, Bồ Tát, mình phải mua chuộc”. Vậy, có phải tạo nhân duyên cho họ ăn cắp thêm, vì có người mua nên họ kiếm thêm để bán?
Đáp: 
  
Giống như phóng sanh, nếu phóng sanh thì người ta đi bắt. Nhưng vì Phật pháp đều do tâm tạo, nên mình phải phát tâm mua chuộc. Những kẻ có tâm trộm cắp, không trộm cái này thì cũng trộm cái khác, không vì người mua mà nó trộm cắp. Khi nó trộm cắp đem đi bán, bán cao không được thì bán thấp giá, bán thấp giá không được thì liệng bỏ; tức là khinh rẻ Thường trụ Tam bảo. Cho nên, mình phải mua để kính trọng Phật bảo.
-TỔNG KẾT 
  
Đức Phật dạy: Các Phật tử! Đó là bốn mươi tám điều khinh, các ngươi phải thọ trì. Chư Bồ Tát quá khứ đã tụng, chư Bồ Tát vị lai sẽ tụng, chư Bồ Tát hiện tại đương tụng. 
  
Các Phật tử lóng nghe! Mười giới trọng, bốn tám giới khinh đây, chư Phật trong ba thuở đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng. Nay ta cũng tụng như vậy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét