Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014
Thử giải “Tây Du Ký”
“Tây Du Ký” từ khi ra đời đến nay vẫn luôn nhận được sự yêu mến của mọi người. Người ta không chỉ yêu thích các hình tượng nhân vật trong đó, tình tiết trong đó, mà cả tinh thần lạc quan hướng thiện thể hiện trong tác phẩm. Nhận thức của người Trung Quốc đối với tu luyện, Thần Phật, thế giới thiên quốc, yêu ma quỷ quái, rất nhiều đều có liên quan với “Tây Du Ký”. Về nội hàm và ý nghĩa chính của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau và phức tạp, khó có thể đưa ra được kết luận. Sau khi tu luyện, tôi đã có một tầng nhận thức tương đối sâu, hôm nay chỉnh lý lại, mong muốn chia sẻ cùng quý độc giả.
I. Quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không
1. Bản lai diện mục của Tôn Ngộ Không
Mở đầu Tây Du Ký là nói về xuất thân của Tôn Ngộ Không, do một tảng đá tiên hấp thụ linh khí của trời đất và tinh hoa của nhật nguyệt mà sinh ra, theo cách nói của Bồ Đề Lão Tổ thì là “Trời Đất sinh ra”. Mục đích tác giả viết về Thạch Hầu này cũng được nói rất rõ ràng, trong truyện có câu thơ như sau: “Tá noãn hóa hầu hoàn Đại Đạo, Giả tha danh tính phối đan thành.” Lại nói, “Lịch đại nhân nhân giai chúc thử, Xưng thánh xưng vương nhậm tung hoành.” Vậy nên từ góc độ này mà nói, tác giả viết về quá trình Thạch Hầu cầu Đạo và tu luyện, cũng là đang giảng giải về quá trình tu luyện của một người.
Mỹ Hầu Vương từ Đông Thắng Thần Châu, đi qua Nam Thiêm Bộ Châu, cuối cùng tìm được Tu Bồ Đề Tổ Sư ở Tây Ngưu Hạ Châu. Con đường xa xôi thế này dù sao cũng chỉ là quá trình một người cầu Đạo trải qua, nhưng cuối cùng tìm được Tổ Sư ở nơi nào? Trong truyện viết là, “Linh Đài Phương Thốn sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh động”. Ý hai câu này là nói về một chữ “tâm”, từ xưa người ta thường nói tâm thành “Linh Đài”, còn “Phương Thốn” cũng là để chỉ tâm, “Tà Nguyệt Tam Tinh động” lại càng dễ hiểu hơn, “Tam Tinh” (ba ngôi sao) chính là ba nét chấm của chữ “tâm” (心), “Tà Nguyệt” (vầng trăng khuyết) chính là nét móc nằm ngang. Mỹ Hầu Vương trải qua bao nhiêu gian khổ nguy hiểm, cuối cùng trong tâm của mình đã tìm được “chân Pháp” để tu luyện.
Câu nói này rất phù hợp với cách nói của Phật gia, chính là “Phật tại tâm trung”, tức “tâm là Phật”. Nhưng không phải nói rằng trong tâm có ông Phật, mà là nói phải hướng nội mà tu, hướng vào trong tâm của mình mà tu, thì mới tu thành Phật được. Bước đường Mỹ Hầu Vương dù đi qua được bao nhiêu, trải qua bao nhiêu năm tháng, cuối cùng tự trong tâm mình đã ngộ được chân Pháp chân Đạo. Vậy sư phụ Tu Bồ Đề Tổ Sư của Tôn Ngộ không là ai? Ông lẽ nào lại có thể ở trong tim của Mỹ Hầu Vương?
Trong truyện viết về Tôn Ngộ Không, có rất nhiều chỗ đều nhắc đến chữ “tâm viên” (tâm viên – ví một người nông nổi, tâm trí bất an như loài khỉ loài vượn luôn chạy nhảy). Hồi thứ 7 “Bát Quái lư trung đào đại thánh, Ngũ Hành sơn hạ định tâm viên” còn một câu tụng nữa: “Viên hầu đạo thể giả nhân tâm, Tâm tức viên hầu ý tứ thâm.” Vậy thì, Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của ai? Thực ra Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã, năm vị này hợp lại chính là một người. Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho cái tâm của Đường Tăng.
Xét về Tôn Ngộ Không không thể xét một cách đơn nhất riêng lẻ, Tôn Ngộ Không là những mảnh ghép tượng trưng cho nhiều hình tượng. Một mặt là thể hiện hình tượng hóa của cái tâm con người, mặt khác lại thể hiện ra một người trong tu luyện với ý chí và thân thể mạnh mẽ (cương dương), trong truyện dùng chữ “kim công” chính là để chỉ về Tôn Ngộ Không. “Kim công” là theo cách nói về ngũ hành đối ứng với ngũ tạng trong thân thể người; thỉnh thoảng còn dùng nó để nói về dục trong “lục dục”, ví dụ như, câu thơ mở đầu hồi thứ 17 viết: “Lục bàn thể tương lục bàn binh, Lục dạng hình hài lục dạng tình; Lục ác lục căn duyên lục dục, Lục môn lục đạo đổ thâu doanh”. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, và ba yêu ma khác chính là chỉ lục dục của con người. Khi Bồ Đề Lão Tổ đặt tên cho Tôn Ngộ Không, ông đã nói: “Tử giả, nhi nam dã; hệ giả, anh tế dã. Chính hợp anh nhân chi bổn luận. Giáo nhĩ tính ‘Tôn’ bãi”. Điều này xét từ góc độ khác có thể thấy rằng một người khi tu luyện đến một tầng thứ nhất định nào đó, thì nguyên anh được sinh ra tại đan điền. Đối với Hoa Quả sơn và Thủy Liêm động mà nói, đó chính là tượng trưng cho thân thể và trái tim của Tôn Ngộ Không. Thạch Hầu sau khi nhảy qua tấm màn bằng nước đã vào được trong Thủy Liêm động, Thủy Liêm được nhắc đến trong truyện, chính là, “Kiều hạ chi thủy, xung quán vu thạch khiếu chi gian, đảo quải lưu xuất khứ, già bế liễu kiều môn” (Nước dưới cây cầu, xông qua huyệt giữa núi đá, chảy ngược ra ngoài, che lấp đi cửa lên cầu), đây cũng là miêu tả hình tượng hóa chữ “tâm”. Tôn Ngộ Không sau khi ngộ Đạo và trong cuộc đại chiến với Thiên binh Thiên tướng, đã phong hai con Xích Khào Mã Hầu và hai con Thông Bối Viên Hầu làm kiện tướng, đó cũng là tứ chi của Tôn Ngộ Không. Cho nên trong khi đại chiến với các vị thần, 72 yêu vương đều có thể bị bắt đi, nhưng 4 kiện tướng này bao gồm cả bầy khỉ, không có một con nào bị bắt đi. Nhưng trước khi Tôn Ngộ Không bị bắt giữ, bốn kiện tướng và bầy khỉ đã bị làm cho phân tán rời rạc.
Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của Đường Tăng, Tu Bồ Đề lại ở trong tâm của Tôn Ngộ Không, vậy rốt cuộc Đường Tăng và Tu Bồ Đề có quan hệ thế nào? Trong “Tây Du Ký” nói rằng Đường Tăng là đồ đệ thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni – Kim Thiền Tử – chuyển sinh. Nhưng trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại không có người nào tên Kim Thiền Tử, điều này nói rõ rằng tác giả dùng cái tên “Kim Thiền Tử” không có thật chỉ là để lấy ý trong “Kim Thiền thoát xác”. Mà trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại đúng có vị tên là “Tu Bồ Đề”. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn khi đó là thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Từ khi Tôn Ngộ Không sinh ra đến khi sinh tâm học Đạo đã ở trong núi trải qua hơn 500 năm, rồi đến khi cầu Đạo học Đạo lại trải qua mấy chục năm, cứ tính như thế, thì Tôn Ngộ Không chính là sinh ra trong thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp. Từ một góc độ khác mà xét, Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm, cũng vừa khớp với thời gian Đường Tăng tu hành 9 kiếp trước. Lai lịch nguyên gốc của Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Tu Bồ Đề là cùng một thời đại, thông qua miêu tả như trong truyện, ba vị này cũng có thể xem là một người.
Bồ Đề Lão Tổ dùng thước đánh vào đầu Ngộ Không ba cái, Ngộ Không liền ngộ được rằng Tổ Sư muốn bảo mình rằng sau canh ba đi học nghệ. Thực ra chuyện này xuất phát từ điển cố “Lục Tổ đàn kinh”, Lục tổ Huệ Năng từng làm bài kệ, “Bồ Đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài; Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nặc trần ai?” (Bồ Đề vốn chẳng phải cây, Gương sáng cũng chẳng phải đài; Xưa nay không có vật gì, Nơi nào không dính bụi trần?) Sau khi Ngũ tổ thấy được Huệ Năng đã có thể ngộ được bản tính, ông sợ Huệ Năng bị người khác hại, nên đã xóa bài kệ đi. Hôm sau, Ngũ tổ lặng lẽ tìm đến Huệ Năng, thấy Huệ Năng đang giã gạo, Ngũ tổ nói vài lời xong, rồi dùng thiền trượng gõ vào cối đá ba cái, đoạn rời đi. Lúc đó Huệ Năng đã hiểu được ý của Ngũ tổ, nên đến canh ba nửa đêm, ông lặng lẽ đến chỗ của Ngũ tổ; Ngũ tổ dùng áo cà sa che ánh sáng của ngọn đèn trước cửa sổ, và giải thích kinh “Kim Cương” cho Huệ Năng. Huệ Năng cuối cùng đã ngộ được hết vạn pháp, không rời tự tính. “Tự tính” ở đây chính là chỉ bản tính của con người, trong “Kim Cương Kinh”, “tự tính” được gọi là “Bồ Đề”. Tâm Bồ Đề được nói đến trong Phật giáo chính là để chỉ bản tính tiên thiên thuần khiết của con người.
Mà “Kim Cương Kinh” chính là ghi lại lời đối thoại của Phật Thích Ca Mâu Ni với tôn giả Tu Bồ Đề. Tu Bồ Đề vốn là đệ tử thứ mười của Phật Thích Ca, được gọi là “Giải không đệ nhất”, Bồ Đề Tổ Sư đặt tên cho Ngộ Không là “Ngộ Không” cũng là điều dễ hiểu. Thực ra từ góc độ khác mà nói, đây cũng là Ngộ Không tự đặt tên cho mình mà thôi. Ngay cả Đường Tăng cũng khen Tôn Ngộ Không, nói rằng “tâm không” mà Tôn Ngộ Không giải được là “vô ngôn ngữ văn tự, nãi thị chân giải” (không có lời nói chữ viết, chính là giải được thật sự). Đương nhiên, Kim Thiền Tử và Tu Bồ Đề có phải là một người hay không, chúng ta không cần phải đưa ra kết luận này. Đúng cũng được mà không đúng cũng được, họ chỉ là có mối quan hệ như vậy, Phật gia giảng chính là một chữ “không”, là cái gọi là “vạn Pháp không tướng”. Kỳ thực tác giả sắp đặt như vậy, còn có dụng ý sâu xa hơn nữa, chúng ta hãy từ từ bàn luận.
2. Sự tu luyện của Tôn Ngộ Không
Mấu chốt của tu luyện chính là tu tâm. Khi Bồ Đề Tổ Sư hỏi Ngộ Không tên là gì, Ngộ Không nói: “Ngã vô danh, nhân nhược mạ ngã, ngã dã bất não, nhược đả ngã, ngã dã bất sân, chỉ thị bồi cá lễ nhi tựu bài liễu. Nhất sinh vô tính” (Con không có danh tính. Nếu người khác chửi con, con không thấy phiền não; nếu người khác đánh con, con cũng không tức giận; chỉ là lấy lễ đáp lại là được. Một đời không có tên.) Điều này xem ra giống như vô ý đổi chủ đề, nói về Ngộ Không trong quá trình cầu Đạo cũng đã là đang tu tâm rồi. Chính vì có tâm tính cao như vậy, nên Ngộ Không mới có thể nhanh chóng ngộ Đạo.
Bồ Để Lão Tổ truyền thụ cho Ngộ Không “Hiển mật viên thông chân diệu quyết”, từ tên gọi mà nói, chính là gộp mật quyết tu luyện của cả hiển giáo và mật giáo trong Phật giáo làm một. Nhưng nội dung trong đó lại hoàn toàn là nội dung tu luyện của Đạo gia. Trong đó: “Nguyệt tàng ngọc thố nhật tàng ô, tự hữu quy xà tương bàn kết. Tương bàn kết, tính mệnh kiên, tức năng hỏa lý chủng kim liên. Toàn thốc ngũ hành điên đảo dụng, công hoàn tùy tác Phật hòa Tiên.” Ở đây bao hàm các thuật ngữ và quy luật tu luyện của Đạo gia. “Nguyệt tàng ngọc thố, nhật tàng ô” có ý là, khi chu thiên vận hành thì nước ở bể thận dâng lên, khí ở tim giáng xuống, từ đó mà đạt được thủy hỏa hòa hợp, cũng chính là nói thủy hỏa ký tế (ký tế – một quẻ trong Bát Quái). Bởi vì thủy thuộc quẻ Khảm trong Bát Quái, nên dùng chữ “nguyệt” (mặt trăng) để hình dung. Hình quẻ của quẻ Khảm (☵) là một hào dương ở giữa hai hào âm, “ngọc thố” chính là chỉ một hào dương kia. Tim trong ngũ hành thuộc về hỏa, nên dùng “nhật” (mặt trời) để ví, hỏa là quẻ Ly (☲), hình quẻ Ly là một hào âm ở giữa hai hào dương, một hào âm kia cũng chính là “ô” (con quạ). Quy xà tương bàn kết, là chỉ âm dương hòa hợp. “Ngũ hành điên đảo dụng” là chỉ thủy thăng hỏa giáng, mộc chìm xuống, kim nổi lên, mà lại dùng thổ (đất) để điều hòa. Điều này cũng là phù hợp với thuyết “hậu thiên trở về tiên thiên” trong tu luyện của Đạo gia. Kết hợp với điều nói ở phần sau của “Tây Du Ký” là “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” thì có thể hiểu được ngay: Đạo gia cho rằng, con người trước khi sinh ra, thận tạng đối ứng với quẻ vị là Khôn (☷), tâm tạng đối ứng là Càn (☰), quẻ Khôn là ba hào âm tạo thành, quẻ Càn do ba hào dương tạo thành. Con người khi sinh ra, quẻ Khôn liền biến thành quẻ Khảm, quẻ Càn biến thành quẻ Ly. Từ đó quẻ Khảm lấy dương bổ sung vào trong quẻ Ly, quẻ Ly biến thành quẻ Càn. “Kim Ô huyết” trong cách nói “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” là chỉ hào âm trong quẻ Ly, đặt trong quẻ Khảm, liền biến thành quẻ Khôn. Đây chính là thuyết hậu thiên quay trở về tiên thiên, cũng chính là ý trật tự ngũ hành thay đổi.
Kỳ thực, sau khi Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ phương pháp tu luyện cho Tôn Ngộ Không, sư đồ Đường Tăng tu luyện trong khi đi thỉnh kinh, thì trên cơ bản chiểu theo phương pháp tu luyện này mà đi. Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ cho Tôn Ngộ Không cách tránh “tam tai” trong “thiên lôi, âm hỏa, bị phong”, trong đó toàn là thuật ngữ tu luyện của Đạo gia. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến Tôn Ngộ Không tu thành “Thái Ất tản tiên”.
Ngộ Không học Đạo trở về, việc làm đầu tiên chính là tiêu diệt “Hỗn thế ma vương”. Giới tu luyện giảng, con người có Phật tính, cũng có ma tính, tu luyện chính là quá trình trừ bỏ ma tính, củng cố Phật tính. Vậy Ngộ Không ngộ được bản tính, đương nhiên cần phải thanh trừ ma tính của chính mình. “Hỗn thế ma vương” này chính là tượng trưng cho ma tính của Ngộ Không. Thực ra từ chính mỗi người mà nói, ai mà không có tư tưởng và đặc trưng của hỗn thế (thế gian hỗn loạn). Trong truyện nói rằng Hỗn thế ma vương trú ở phía Bắc Hoa Quả sơn trong“Tam giới khảm nguyên sơn, Từ dưỡng ngũ hành thủy tạng động” thực ra chính là chỉ về bộ phận thận tạng. Thận tạng của thân thể con người trong ngũ hành là thuộc về tính thủy. Mà “Khảm” (☵) trong tám quẻ của Bát Quái lại là chỉ thủy, phương vị thuộc hướng Bắc. Từ chỗ này chúng ta có thể nhìn ra Hoa Quả sơn chính là tượng trưng cho thân thể của Tôn Ngộ Không. Tên hiệu của Hỗn thế ma vương kia và ma tính trong thân người cũng rất phù hợp với nhau. Cho nên, Ngộ Không tiêu diệt Hỗn thế ma vương cũng là một phương diện trong tu luyện của bản thân. Tiêu đề trong hồi này: “Ngộ triệt Bồ Đề chân diệu lý, Đoạn ma quy bản hợp nguyên thần”, chính là nói rõ về vấn đề này.
Quá trình Ngộ Không lấy của Long Vương cây Kim Cô bổng, miêu tả làm cho người ta cảm thấy như thân ở trong cảnh, kỳ thực đó cũng chỉ bất quá là tầng thứ tu luyện của Ngộ Không biểu hiện ra như ý mà thôi. Trong truyện nói Ngộ Không từ Thủy Liêm động dưới cầu Thiết Bản mà trực tiếp xuống đáy biển, dưới đáy biển nhìn thấy cây sắt “Định hải thần châm”, cũng gọi là “Như ý Kim Cô bổng”. Ở đây tác giả dùng một cách nói ẩn dụ, là chỉ về định lực và tầng thứ của Tôn Ngộ Không. Bình thường mà nói, thông thường gọi huyệt hội âm là đáy biển, Tôn Ngộ Không từ Thủy Liêm động nhảy trực tiếp xuống biển, đó là nói lên hình tượng hóa của Tôn Ngộ Không khi nhập định. Lại nói về cây sắt định hải thần châm, nó chính là định sự nông sâu của sông biển, làm binh khí cũng chính là thành gậy sắt như ý.
Tôn Ngộ Không được phong làm Bật Mã Ôn cũng là có dụng ý. Trong sách ví Tôn Ngộ Không là “tâm viên”, ví Bạch Long Mã thành “ý mã”, có câu thơ như thế này: “Mã viên hợp tác tâm hòa ý, Khẩn phược thuyên lao mạc ngoại tầm”. Trong câu tiêu đề khái quát nội dung của “Tây Du Ký” có câu, “Ý mã ức tâm viên”, cũng là đạo lý này. Tôn Ngộ Không ở trên trời trông nom thiên mã (ngựa trời), ý nghĩa chính là chỉ tâm của một người cần phải quản chắc cái ý của chính mình, không được để tâm mình suy nghĩ lung tung.
Sau khi Tôn Ngộ Không được phong làm Tề Thiên Đại Thánh, trong Tề Thiên Đại Thánh phủ còn thiết lập ra hai ti: một ti gọi là ‘An Tịnh ti’, một gọi là ‘Ninh Thần ti’. An tịnh và ninh thần chính là để cho Ngộ Không an tâm định thần. Từ một góc độ khác mà nói, Tôn Ngộ Không tự phong làm “Tề Thiên Đại Thánh” cũng có đạo lý. Đạo gia tu luyện coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sau khi người ta tu luyện đắc Đạo, chính từ tự thân mà nói, thì thọ mệnh của người đó sánh ngang với trời, hợp nhất với trời, gọi là Tề Thiên Đại Thánh cũng chính là chỉ ý này. Có điều “Tây Du Ký” là một tác phẩm văn học, là lấy hình thức văn nghệ để truyền tải nội dung, cho nên biểu hiện bề mặt viết rất hấp dẫn và phức tạp, thực chất biểu hiện ra lại là có dụng ý khác. Lại nói thêm, việc Tôn Ngộ Không tự đặt biệt hiệu cho mình, cũng là để cho bản tính kiêu ngạo được biểu hiện ra.
Tôn Ngộ Không sau khi bị bắt cho vào lò Bát Quái để luyện, đó cũng là biểu hiện của một loại hình thức tu luyện khác, Hỏa nhãn kim tinh (đôi mắt lửa sáng ánh kim), Đồng đầu thiết tý (đầu cứng như đồng, tay dẻo như thiếc), cũng là trải qua quá trình luyện trong lò Bát Quái mà thành.
Bảy hồi đầu của “Tây Du Ký” viết về xuất thân và quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không. Xem sự dũng mãnh và uy lực mạnh mẽ của Tôn Ngộ Không khi đại náo Thiên Cung, đó cũng là một hình thức biểu hiện của tu luyện. Trong toàn cuốn sách, phần này là hấp dẫn người đọc nhất, Thần tướng khắp trời mà không làm thế nào bắt được một con khỉ. Xem Tôn Ngộ Không học Đạo tiên, mượn binh khí, ăn đào tiên, uống ngự tửu, trộm tiên đan, đánh bại Na Tra, đại chiến Nhị Lang, trong lò Bát Quái luyện mắt vàng, chơi đùa hung dữ trong tay Phật Tổ, thật làm cho người ta hét lên khoái chí. Trong hình thức biểu hiện nhiều lần lặp lại tình huống, điều ẩn giấu chính là nội hàm của một người tu luyện.
Tu luyện Đạo gia coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sự tu luyện của Tôn Ngộ Không là hoàn thành chính trên thân thể mình. Thực ra, sự tu luyện của bất kỳ ai cũng là tu luyện thân và tâm của chính mình. Vậy Thiên Cung mà Tôn Ngộ Không đại náo nằm ở đâu? Đó chính là đầu của Tôn Ngộ Không, sau khi nhảy ra từ lò Bát Quái, Tôn Ngộ Không nói với Phật Như Lai rằng muốn ngồi ở Linh Tiêu Bảo Điện, thay thế Ngọc Hoàng Đại Đế. Linh Tiêu Bảo Điện nằm ở đâu? Chính là Nê Hoàn Cung của con người, chủ nguyên thần của người ta chính là ở đó. Tôn Ngộ Không muốn đuổi Ngọc Hoàng Đại Đế đi, làm sao được cơ chứ? Giống như một người, nếu không có chủ nguyên thần, thì những điều khác chẳng cần bàn tới nữa; chủ nguyên thần làm chủ và điều khiển hết thảy tâm và thân một người, sự ngông cuồng của Tôn Ngộ Không chính là tới mức không biết trời cao đất dày là gì, vậy thì đến lúc bị mắc kẹt dưới núi Ngũ Hành Sơn rồi.
3. Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không
Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không thật đáng để chúng ta bàn luận một chút. Tôn Ngộ Không xuất thân tại nước Ngạo Lai ở Đông Thắng Thần Châu, điều này nói rõ rằng Tôn Ngộ Không vốn sinh ra đã kiêu ngạo. Vào đến Thủy Liêm Động được bầy khỉ bái làm Vương. Bản thân là một con khỉ đá, lại tự xưng là “Mỹ Hầu Vương”. Trên Thiên Đình được phong làm Bật Mã Ôn, kiêm chức quan nhỏ, đại náo Thiên Cung, rồi tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh, cuối cùng cuồng vọng đến mức muốn đuổi cả Ngọc Hoàng Đại Đế đi, để ngồi thay vị trí của ông. Trong tay Phật Như Lai nhảy cân đẩu vân, cho rằng đã đến tận cuối trời, để lại ký hiệu cũng ghi là “Tề Thiên Đại Thánh đã đến nơi đây”, cái tâm ngạo mạn đã lộ rõ ra ngoài.
Thực ra cái tâm ngạo mạn của Tôn Ngộ Không cũng là ám chỉ và nhắc nhở con người thế gian. Con người sống ở thế gian, theo cách nói của tôn giáo thì đều là có “tội” cả. Nhưng mà, thế gian lại vốn là một không gian mê, con người lại không biết tất cả những gì của bản thân mình đều là do Thần Phật trông nom bảo hộ, một khi có được bản sự rồi, liền bắt đầu cho rằng mình là duy nhất. Đặc biệt trong tu luyện, sự ngạo mạn này chính là bất kính đối với Thần Phật. Với người tu luyện, tất cả mọi thứ của bản thân mình đều là do Thần Phật an bài, diễn hóa, chăm nom bảo hộ, cũng là nói bản thân mình chính là một sinh mệnh mà Thần Phật tạo ra. Một người có cái tâm kiêu ngạo rồi, lại không chỉ là kiêu ngạo đối với một sự việc nào đó thôi, mà là trong tất cả các hành vi của người đó đều thể hiện ra tâm ngạo mạn. Trong “Tây Du Ký” có nói, Đường Tăng là Kim Thiền Tử – đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ vì khinh mạn Phật Pháp mà bị đọa xuống hạ giới. Kim Thiền Tử vì sao khinh mạn Phật Pháp, đó chẳng phải là ông có tâm kiêu ngạo mới dẫn đến việc ông dám khinh mạn Phật Pháp hay sao? Kết cục cuối cùng là bị đày xuống hạ giới, tu hành lại từ đầu. Sự cuồng ngạo của Tôn Ngộ Không cũng rơi vào kết cục là bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn trong 500 năm.
II. Thỉnh kinh và tu luyện
“Tây Du Ký” là truyện kể về thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, đúng hơn thì đây là một câu chuyện về tu luyện. Khó khăn và sự ma luyện trên đường đi thỉnh kinh, chính là những ma nạn mà một người trong quá trình tu luyện ắt phải trải qua. Tại sao lại nói là ma nạn ắt phải gặp? Ví như thất tình lục dục của một người, đó là điều mà ai ai cũng có, như trong “Tây Du Ký” dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để hình dung về thất tình. Những ma nạn này, bề mặt thì thấy là những nhân tố bên ngoài, nhưng rốt cuộc đều có liên quan đến tự thân, cũng chính là ma nạn của bản thân mỗi người. Trong giới tu luyện gọi việc trừ bỏ ma tính của bản thân là “luyện ma”. Tiêu trừ ma tính, chính là dựa vào Phật tính của chính mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân ở bảy hồi đầu lại chú trong về miêu tả Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng.
1. Ngũ vị nhất thể, trong đó ẩn chứa nhân tố tu luyện
Năm vị, gồm thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, có thể coi như là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn về vấn đề này, trong đó bốn câu mở đầu là: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận.” “Nhất thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa tứ tướng”, là thuật ngữ trong tu luyện. Trong tu luyện của Đạo gia cổ xưa, thường lấy huyền vũ, chu tước, thanh long, bạch hổ để lần lượt chỉ thận, tim, gan, phổi. Trong ngũ hành chúng lần lượt thuộc thủy, hỏa, mộc, kim. Tương sinh trong ngũ hành, đó là mộc sinh hỏa, kim sinh thủy; trong “Tính Mệnh Khuê Chỉ” nói rằng, long mộc sinh hỏa, thuộc về tâm. Hổ kim sinh thủy, cùng một hệ với thân thể. Tâm không động, thì nguyên khí tụ lại; thân không động, thì tinh khí tụ lại. Tinh ngưng khí tụ, tức là chỉ kim mộc thủy hỏa trộn lẫn với nhau trong thổ (đất). “Hợp hòa tứ tướng” tức là chỉ về điều này.
Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ, hỏa. Trong truyện thường dùng “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉ Trư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có một hàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công” cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên “mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc và thủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất do thổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”. Cho nên quá trình đi thỉnh kinh trong “Tây Du Ký”, đều là do ba vị – Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng – trảm yêu trừ ma. Quá trình trảm yêu trừ ma cũng chính là quá trình tu luyện.
Sự đối ứng từ trong nội tạng cho đến thân thể của thầy trò Đường Tăng cũng không chỉ là máy móc như trên. Đường Tăng thuộc thủy, ứng với thận tạng. Nhưng Đường Tăng là chủ nguyên thần của người, nơi trú ngụ của chủ nguyên thần chính là trong Nê Hoàn Cung của con người. Trư Bát Giới làm mộc mẫu, cũng là chỉ về thủy, ở vị trí thận tạng. Trong “Tây Du Ký” có mượn lời của Trư Bát Giới để thuyết minh, nói Trư Bát Giới được “Noãn Nhị Thư” kén làm rể. Vị Noãn Nhị Thư này chính là ví như hai quả thận của người ta vậy. Bộ phận tì tạng (lá lách) chính là đối ứng của Sa Hòa Thượng. Bởi vì tác dụng của tì tạng là vận hóa thủy cốc (chuyển hóa thức ăn), vận chuyển phân bố và vận hành thủy dịch. Do đó nơi ở Lưu Sa Hà của Sa Hòa Thượng mới là “Nga mao phiêu bất khởi, Hồ hoa định để trầm”. Tôn Ngộ Không ở bộ vị tâm tạng thì không cần nói nữa, Bạch Long Mã cũng ứng với chỗ này (tâm), bởi vì mã thuộc về hỏa, đối ứng với nội tạng là tâm tạng, lại nói rằng tâm và ý là cùng một thể.
Trong “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới luôn tranh đấu, đố kỵ, châm chọc không dứt, đó chính là âm dương giao phối trong quá trình tu luyện. Trong đó Sa Hòa Thượng đóng vai trò điều hòa. Mãi đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến trạng thái điều hòa một cách hài hòa nhất trí. Trong truyện còn có câu thơ như sau: “Ngũ hành tứ phối hợp thiên chân, Nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỉ lập cơ vi diệu dụng, Biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, Bản khứ cầu tình cộng phục luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, Điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.”
Năm trăm năm trước Tôn Ngộ Không đã tu luyện thành Tiên, Đường Tăng cũng là người tu hành mười kiếp, vậy còn Bát Giới và Sa Tăng? Bát Giới từng kể với Ngộ Không về quà trình tu hành đời trước: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời xuyết. Thượng chí đỉnh môn Nê Hoàn Cung, Hạ chí cước bản dũng tuyền huyệt. Chu lưu thận thủy nhập hóa trì, Đan điền bổ đắc ôn ôn nhiệt. Anh nhi sá nữ phối âm dương, Duyên hống tương đầu phân nhật nguyệt. Ly long khảm hổ dụng điều hòa, Linh quy hấp tận kim ô huyết. Tam hoa tụ đỉnh đắc quy căn, Ngũ khí chiêu nguyên thông thấu triệt.” Sa Tăng cũng đã từng bộc bạch rằng: “Nhân thử tài đắc ngẫu Chân Nhân, Dẫn khai đạo kim quang lượng. Tiên tương anh nhi sá nữ thụ, Minh đường thận thủy nhập hoa trì. Trọng lâu can hỏa đầu tâm trạng, Tam thiên công mãn bái thiên nham, Chí tâm chiêu lễ minh hòa hướng.”
Còn một vấn đề nữa cần phải nói rõ, đó chính là tại sao năm vị này lại bị đọa xuống hạ giới? Đường Tăng, Ngộ Không đều là vì ngạo mạn; Trư Bát Giới vì trêu ghẹo Hằng Nga; Sa Hòa Thượng vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly; Tiểu Bạch Long vì phóng hỏa đốt viên minh châu. Những tội này tại góc độ con người thế gian mà xét, xem ra cũng chưa là gì, nhưng ở một cảnh giới cao hơn mà xét, đó là vì những sinh mệnh này đã trở nên bất thuần. Từ góc độ tu luyện mà xét thì con người cần phải tu luyện đến vô lậu mới có thể viên mãn. Thế nào là vô lậu? Đó chính là không còn có bất kỳ tâm chấp trước nào, từng suy nghĩ đều là thuần chính, thì mới có thể đắc đạo thành Tiên thành Phật được. Tương ứng như vậy, những vị Tiên gia tu luyện thành tựu tại các quả vị khác nhau, tư tưởng cảnh giới của họ cũng đều là thuần chính cả. Chỉ cần có một chút sai sót thì cũng không thể ở tại tầng thứ đó nữa. Tội của Sa Hoà Thượng xem thì giống như một chút tội nhỏ, nhưng mà một chút tội nhỏ này lại là điều căn bản mà tại cảnh giới đó không được xảy ra. Tại sao lại lỡ tay được đây? Đó chẳng phải là thất thần rồi hay sao? Chẳng phải là trong tâm có tạp niệm hay sao? Từ góc độ này mà nhìn về tu luyện, thấy là việc vô cùng nghiêm túc.
Quan hệ nội tại của sư đồ Đường Tăng trong truyện cũng có ám chỉ: Đường Tăng là người tu hành mười kiếp; Tôn Ngộ Không là đồ đệ đời thứ mười của Bồ Đề Tổ Sư; ngay cả vòng đeo ở cổ của Sa Tăng cũng là chín cái đầu lâu của người đi thỉnh kinh.
Từ khía canh khác mà nói, bốn thầy trò Đường Tăng lần lượt nói rõ chi tiết về những phương diện của người tu luyện. Đường Tăng bề ngoài nhìn thì không có chút năng lực gì, yếu đuối lại còn nhát gan, nhưng có một niềm tin đi thỉnh kinh vững như bàn thạch; Tôn Ngộ Không là tâm viên, hoạt bát, thông minh lanh lợi, không bị bó buộc, có thể phân biệt rõ thật giả, lại có khả năng trảm yêu trừ ma; Bát Giới thì rất giống lợn, hay ăn không hay làm, lại còn háo sắc, thích an nhàn, muốn chiếm phần hơn, đố kỵ với người giỏi hơn mình; Sa Hòa Thượng biểu hiện cần cù, chăm chỉ, biết thân biết phận, làm tròn bổn phận, thanh tịnh mà lại nhân hậu; Bạch Long Mã tuy không miêu tả nhiều, nhưng cũng lại là một hình tượng âm thầm lặng lẽ, chỉ tiến về phía trước, không ngại gian khổ nguy hiểm.
2. Ngũ Hành Sơn, Lưỡng Giới Sơn và sự hạn chế thần thông của Tôn Ngộ Không
Tôn Ngộ Không bị Phật Như Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn còn có một ẩn ý, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho sự tu luyện Đại Đạo cũng đã hoàn thành quá trình tu luyện của mình (cùng Bồ Đề Tổ Sư) rồi. Theo Phật gia giảng, thì Tôn Ngộ Không đã “minh tâm kiến tính rồi” (tâm đã sáng tỏ, đã thấy được bản tính thật sự của mình); đương nhiên, sau khi “minh tâm kiến tính” chính là “kiến tính thành Phật” (thấy rõ được bản tính của mình thì thành Phật), nhưng đây lại không chỉ đơn giản giống như hai câu nói này. Sau khi Tôn Ngộ Không ngộ Đạo, trở về Hoa Quả Sơn tại sao cần phải thanh trừ Hỗn thế ma vương? Tại sao lại phải đại náo Thiên Cung? Ở trong lò Bát Quái tại sao lại còn phải tu luyện thêm nữa? Cho nên mới nói, mặc dù quá trình tu Đạo của Tôn Ngộ Không đã hoàn thành, nhưng vẫn cần phải tiếp tục tu luyện, để ma tính của bản thân (ví như tâm tự kiêu) phải hoàn toàn ma luyện cho mất đi, thì mới có thể chính thức tu luyện thành công được. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn chính là để cho anh ta trải qua ma nạn.
Ngũ hành trong Ngũ Hành Sơn ý nói là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cũng là nói, trước đây Tôn Ngộ Không tượng trưng cho người tu luyện Đại Đạo, hoàn toàn là là từ góc độ của “tâm viên” mà biểu hiện ra quá trình tu luyện của một người. Mà khi cuồng ngạo rồi bị đè dưới Ngũ Hành Sơn rồi, Tôn Ngộ Không cũng giống như bị chôn vùi nơi trần thế. Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi Ngũ Hành Sơn, nhưng không không phải là Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi được nơi trần thế, mà là nói chủ thân thể đã bắt đầu tu luyện, tượng trưng cho cái tâm của Tôn Ngộ Không tự nhiên cũng hợp nhất với chủ nhân mà bắt đầu tu luyện. Trong đó vẫn còn một vấn đề nữa. Rất nhiều người tu Đạo đều hiểu rằng, trước khi một người tu luyện, nói không chừng đời trước của vị ấy, thậm chí đời đời kiếp kiếp vẫn còn đang trong tu luyện, đương nhiên người tu luyện kia, cũng giống với Tôn Ngộ Không ở bảy hồi trước đó, có thể có được những thần thông to lớn. Nhưng một khi người đó chuyển thế, thì ở đoạn thời gian không tu Đạo trước đó, người này giống như đang ngủ, hoàn toàn mê mờ trong người thường. Nếu như bắt đầu tu luyện, phía mặt bản tính của anh ta tỉnh ngộ, thì mới cố thể chân chính tu Đạo. Từ đó quay trở về, có người phải trải qua nhiều lần mới có thể tu luyện viên mãn được. Đường Tăng chính là người tu hành mười đời.
Đương nhiên, khi giới thiệu thế này, đã tiết lộ một vấn đề khác, đó là thần thông của Tôn Ngộ Không; tại sao trước khi đi thỉnh kinh cùng Đường Tăng, Thần tướng đầy khắp trời không làm được gì Tôn Ngộ Không, nhưng khi vừa đi cùng Đường Tăng, vì sao lại có nhiều việc không như ý. Đó chính là vì trước khi đi cùng Đường Tăng, biểu hiện của Tôn Ngộ Không hoàn toàn là tâm tính của một người tu luyện, do đó mới để cái tâm tu luyện biểu hiện ra hết, vậy đương nhiên có thể không có bất kỳ sự hạn chế nào trên trời dưới biển. Nhưng khi đi cùng Đường Tăng, cũng bằng như nhiều hơn một nhục thân, do đó thần thông của Tôn Ngộ Không cũng chịu sự hạn chế. Còn một vấn đề nữa, ma nạn trên đường đi thỉnh kinh, bề ngoài thì trông giống như nhắm vào Đường Tăng, nhưng trong tình huống tâm chấp trước của Đường Tăng chưa vứt bỏ, bản sự của Tôn Ngộ Không có lớn đến mấy cũng không thể thi triển ra được. Giống như trận chiến giữa Tôn Ngộ Không và Hồng Hài Nhi, Hồng Hài Nhi là tượng trưng cho tâm hỏa quá vượng của Đường Tăng, cũng có thuộc tính của tâm, thậm chí có thể nói là một bộ phận của tâm. Bởi vì Tôn Ngộ Không tượng trưng cho tâm nên làm sao một gậy có thể đánh chết được Hồng Hài Nhi? Bởi vậy phải đợi mời Bồ Tát đến, sau khi trừ bỏ tâm hỏa, thì tâm mới có thể quy chính được.
Ngũ Hành Sơn vì sao lại đổi thành Lưỡng Giới Sơn? Biểu hiện là giới tuyến quốc gia, nhưng thực chất là giới tuyến trước và sau của một người tu luyện.
3. Tám mươi mốt nạn từ đâu đến
Lúc đầu Đường Tăng đi thỉnh kinh, trên đường qua chùa Pháp Môn có nói: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt.” Điều thấy được là tất cả ma nạn đều từ tâm của Đường Tăng mà sinh ra. Cách nói này rất đúng. Chỉ cần có nhân tâm, liền sinh ra ma nạn tương ứng. Ví dụ khi Đường Thái Tông ban cho Đường Tăng hai tùy tùng và ngựa, Đường Tăng rất vui mừng. Điều này lộ rõ một loại tâm ỷ lại, do đó, mãi vẫn loay hoay không ra được biên giới quốc gia, hai người tùy tùng kia liền bị bò tinh, gấu tinh, và hổ tinh ăn thịt. Cần biết rằng, khi qua chùa Pháp Môn ông có nói, “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt”, khi ấy hai người tùy tùng liền cùng đi cùng Đường Tăng. Cũng chính là nói, một người nếu tu luyện sẽ có rất nhiều tâm về căn bản không ý thức được. Tu luyện vốn là việc cá nhân, chỉ có thể hướng nội mà tu cái tâm của bản thân, làm sao có thể ỷ lại vào người khác đây?
Bởi vì Đường Tăng bắt đầu tu luyện từ người thường, ông không giống với những đồ đệ của mình, dù cho Ngộ Không có nói với ông là ma đang cản trở, ông cũng không tin. Ma tính của người ta ẩn giấu rất sâu, có một số ma tính khi sinh ra đã có rồi; cũng chính là nói, chỉ cần làm người, trước khi tu luyện đắc Đạo, thì đều có các loại ma tính. Ví dụ, khi Tôn Ngộ Không giết Bạch Cốt Tinh, Bạch Cốt Tinh lần lượt biến thành mỹ nữ, bà lão, ông lão, Đường Tăng làm sao biết được? Tuy nhiên Bạch Cốt Tinh này thì trong mỗi người đều có, gọi là “thây ma”. Đạo gia cho rằng, mỗi người đều có ba cái thây ma, cho nên mới có việc Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh.
Trong hồi thứ 50, Tôn Ngộ Không đi xin đồ ăn chay, người ta không cho, Tôn Ngộ Không liền múc trộm một bát cơm. Mà ở bên này, Bát Giới, Sa Tăng trong một nơi người ta bỏ hoang nhìn thấy áo lót bằng bông, hai người lấy mỗi người một cái, kết quả dẫn đến ma nạn, con yêu ma này lại lấy trộm cái Kim Cương Trác của Thái Thượng Lão Quân xuống nhân gian tác quái.
Ví dụ tiếp là Ngưu Ma Vương, có vợ có con, có bạn có bè, những yêu ma này từ đâu mà đến? Tôn Ngộ Không nói rất rõ ràng: “Tự đáo Tây phương vô đối đầu, Ngưu Vương bản thị tâm viên biến. Kim phiên chính hảo hội nguyên lưu, Đoạn yếu tương trì tá ngọc phiến.” Ngưu Ma Vương sao lại là do tâm của Ngộ Không biến hóa? Điều này không thể lý giải ở bề mặt được, ý nghĩa là Đường Tăng có tâm chấp trước, trong tâm tự nhiên liền sinh ra một con yêu ma như vậy. Vậy thì, Thiết Phiến công chúa, Hồng Hài Nhi, Như Ý chân tiên chẳng phải là do sự biến hóa của tâm viên sao?
Có tâm chấp trước nào thì chiêu mời ma nạn đúng như thế. Đường Tăng làm sư phụ, đây là một cái tâm. Tại nước Ô Kê, Sư Tử lông xanh bị dồn ép đến nỗi rất lo lắng, cũng biến thành một Đường Tăng. Ở huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng mỗi người nhận một hoàng tử để truyền thụ võ nghệ, kết quả cái tâm thích làm sư phụ của người khác lại dẫn họ đến một hang của Sư Tử.
Có những tâm chấp trước ẩn giấu rất sâu, người tu luyện thật không dễ mà phát giác được. Ví dụ, thầy trò Đường Tăng đi đến nước Thiên Trúc, Đường Tăng nghe nói công chúa nước Thiên Trúc đang ném tú cầu kén phò mã, liền nói với Ngộ Không: “Ta nghĩ người mẹ tục gia của ta cũng là nhờ ném tú cầu kén chồng mà gặp được duyên cũ, kết thành vợ chồng.” Điều này giống như một câu nói vô tình nhưng cũng là một chấp trước, kết quả đã chiêu mời ma nạn đến.
Đương nhiên những nạn này là tất nhiên phải xảy ra, cũng có thể nói là định sẵn rồi. Phần cuối “Tây Du Ký” viết về ba con tê giác tinh sau khi bắt Đường Tăng đi, Tôn Ngộ Không từng nói với vị hòa thượng, “sư phụ ta phải có những nạn này”. Hồi thứ 97, bốn thầy trò bị hiểu lầm nhốt vào trong ngục, Tôn Ngộ Không nghĩ: “Sư phụ phải có nạn một đêm trong tù này, cho nên lão Tôn không mở miệng tranh biện, không dùng pháp lực, bịt tai này lại không nghe nữa. Nay đã qua hết canh tư, tai nạn sắp hết, ta phải đi chuẩn bị, trời sáng còn ra khỏi nhà lao nữa.”
Đường đi Tây Thiên ma nạn trùng trùng, cớ sao thầy trò Đường Tăng không chọn đi con đường khác? Khi gặp Hỏa Diệm Sơn cản đường đi của Đường Tăng, Bát Giới từng oán trách nói muốn quay trở về nhà vợ cho rồi. Nhưng Thổ Địa lại nói: “Dù có chuyển hướng đi, thì cũng phải vào cửa bên cạnh.” Lại nói, “Sư phụ ngài ngồi ngay ở đường chính, nóng lòng mong chờ các ngài thành công trở lại!”
Bao gồm cả nạn bổ sung thứ 81, trở về đi qua sông Thông Thiên, lão rùa hỏi Đường Tăng về việc ông nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai đến khi nào ông mới đắc được thân người, Đường Tăng “không biết nói thế nào, lại không dám lừa dối, trầm ngâm một hồi không đáp lời”, kết quả bị lão rùa hất rơi xuống nước. Trong nạn này, biểu hiện của Đường Tăng chính là cái tâm hư danh đang nổi lên. Việc này cùng với lời nói của Đường Tăng khi qua sông Thông Thiên năm xưa, “Việc thế gian duy có danh lợi là coi trong nhất. Tựa như một người vì lợi, quên cả sống chết, đệ tử của tôi phụng chỉ toàn trung, cũng chỉ là vì danh, thì có khác gì với người kia chứ!” lại hoàn toàn khớp.
Tại sao lại có biết bao nhiêu yêu ma muốn ăn thịt Đường Tăng? Từ đây chúng ta có thể nhìn ra, bản thân sự tồn tại của yêu ma, khi một người không tu luyện, nó nằm ở trong thân thể người đó, sau khi người đó chết đi, nó liền rời khỏi thi thể người đó. Những ma này chính là khởi tác dụng này. Cho nên, “bệnh” cũng là ma, “chết” cũng là ma, ma tính của chính bản thân chính là ma. Tuy nhiên khi người ta muốn tu luyện một cách chân chính, thì cần phải trừ bỏ những ma chướng này, đương nhiên ma sẽ không chịu để nó bị tiêu trừ. Nó cũng biết, con người nếu tu luyện thành Thần Phật, thì thân thể người đó sẽ vĩnh viễn là thân thể bất hoại. Trong quá trình nhục thân của người thường chuyển hóa thành thân thể của Thần Phật thì bản thân ma tính cũng không chịu để yên, cho nên nó liều mạng ngăn cản người ta tu luyện. Khi thân thể con người chuyển hóa như vậy, những yêu ma kia lại không thật sự nghĩ để cho thân thể người chuyển hóa thành thân thể của Thần rồi mới ăn hay sao? Chúng ăn không được, bởi vì sau khi chuyển hóa xong thì đã là thân thể kim cương bất hoại rồi, yêu ma không thể động tới được, đây cũng là nguyên nhân Đường Tăng không bị ăn thịt. Thân thể trước lúc tu luyện chỉ là thân thể người thường, đó cũng là nơi mà yêu ma sống nhờ; thân thể sau khi tu luyện tốt đã được phong kín lại rồi. Đây là hiểu biết thông thường trong giới tu luyện.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét