Chương 14
MẠN ĐÀM VỀ THIỀN
Cách đây
ít lâu tôi có soạn một bài khảo luận nhan đề Suy tư về Thiền. Bữa
nay muốn hầu chuyện cùng quý vị về Thiền, thoạt đầu tôi muốn đem bài đó
trình bày cùng quý vị, nhưng suy đi nghĩ lại, tôi thấy nó không thích
hợp, nên tôi soạn thảo lại một bài khác lấy tên là Mạn đàm về Thiền.
Sở dĩ
tôi dùng bốn chữ Mạn đàm về Thiền, là cốt làm sao trình bày vấn
đề cùng quý vị một cách hồn nhiên, giản dị, tránh hết những gì có vẻ
trường ốc, kiểu điệu, khảo cứu. Chính vì vậy mà hôm nay, quý vị cũng
đừng nên kỳ vọng nhiều ở nơi tôi, và miễn thứ cho những gì nông cạn,
những gì thô sơ, những gì thiển cận trong bài nói chuyện hôm nay.
Tôi sẽ
lần lượt trình bầy:
1. Bộ mặt đa dạng của Thiền.
2. Kinh nghiệm bản thân về Thiền.
3. Ba bản kinh căn bản của Thiền.
4. Sơ phác về lịch sử Thiền tông.
5. Cốt tủy của Thiền.
6. Kết luận.
1. BỘ MẶT ĐA DẠNG CỦA
THIỀN
Thiền quả là một cái gì đa dạng. Cao thì
hết sức cao, thấp thì cũng hết sức thấp. Khi cao thôi vẫy vùng trong bản
thể vũ trụ và Bản thể con người, chỉ bàn về Chân tâm, Vọng tâm, chỉ bàn
về Bản thể và Hiện tượng, chỉ bàn về Giác ngộ, Siêu thoát. Khi thấp thời
một ngu phu, ngu phụ cũng có thể thực hành được lập tức. Đó là ngồi cho
ngay ngắn và thở cho điều hòa.
Chữ Thiền trong thời đại này trở nên hết
sức quyến rũ. Nó gắn liền với công phu tu trì. Đối với quần chúng, ai
không ngồi Thiền không tập thở, thì người ấy chưa tu.
Thiền cũng có thể là liều thuốc chữa bách
bệnh. Người ta thường khoe ngồi Thiền là giảm áp huyết. Ngồi thiền làm
cho cơ thể khoan giãn, tâm tư tĩnh định, nên có khả năng chữa được bệnh
lo âu, phiền não, do đời sống vật chất, văn minh căng thẳng gây nên.
Chính vì vậy mà ở Mỹ này có rất nhiều Thiền đường.
Thiền cũng có thể là một nghệ thuật sống.
Sống đơn sơ, sống tự nhiên, sống hài hòa với thiên nhiên.
Thiền cũng đã gợi hứng cho cả một nền văn
học, nghệ thuật: ta có thơ Thiền, trà đạo (trà thiền), kiếm đạo, cung
đạo, võ đạo như ta đã thấy nhất là ở Nhật Bản,
Nhiều người còn quảng cáo Thiền như là một
phương cách giúp ta xuất hồn đi chu du khắp nơi mà không mất tiền mua vé
máy bay, vé xe lửa, đằng vân như Tề thiên Đại thánh, đi khắp muôn
phương, lên các cõi trời, và có thể gập tiên, gập Phật; có thể được ăn
đào tiên, có thể được nghe thuyết pháp v.v...
Dầu sao thì thế lực của Thiền cũng đã có
thời lớn mạnh đến nỗi làm lu mờ các tông phái Phật giáo khác. Ở Việt Nam
hai chữ Cửa Thiền tức là Cửa Phật, tức là Chùa Chiền.
Ngày nay, ảnh hưởng Ấn giáo, Phật giáo
đang thấm thấu vào Mỹ qua ngả Thiền. Ví dụ những thiền viện của các giáo
phái The Self Realization Fellowship do Yogananda sáng lập, có đại bản
doanh tại Los Angeles, hay phong trào The Transcendental Meditation
Movement của Maharashi Mahesh, hay Thiền phái Liên Hoa của Nhật, tức
phái Soka Gakkai v.v...
Tôi không phủ nhận một khía cạnh nào nói
trên của Thiền. Trong buổi nói chuyện hôm nay, tôi không muốn đi sâu vào
kỹ thuật Thiền, mà chỉ muốn trình bày cốt tủy của Thiền, đúng như các vị
Tổ đã dậy. Thế là tôi muốn đưa quý vị lên tới Nguồn Thiền, bàn về tinh
hoa của Thiền, để xem khi Thiền sơ phát, thì các Tổ Thiền muốn dậy gì,
và bộ mặt thực của Thiền ra sao.
Thế là:
«Muốn tắm mát, thời lên ngọn cái con
sông đào,
Muốn ăn sim chín thời vào rừng xanh.»
Khi đã
đạt rõ mục đích, chúng ta mới có thể bàn về vấn đề một cách chính xác và
khoa học được.
Tôi rất
ngại khi phải đưa ra một định nghĩa về bất kỳ một vấn đề gì, vì một khi
đã đem từ ngữ, đem tượng hình để cùm xiềng điều mình muốn quan sát, lập
tức nó trở nên tù túng, mất tự nhiên, trở thành hữu hạn, trở thành vụng
về. Dưới đây, tôi mượn lời thiền sư Suzuki, đưa ra một khái niệm tổng
quát về Thiền như sau:
«Thiền
cốt yếu là nghệ thuật kiến chiếu vào Thể tánh của chúng ta; nó chỉ con
đường từ phiền trược đến giải thoát; đưa ta đến uyên nguyên của cuộc
sống, uống ngụm nước đầu nguồn. Thiền cốt bỏ tất cả những gì ràng buộc
chúng ta, những sinh linh hữu hạn, luôn luôn quằn quại dưới ách khổ lụy
trong thế gian này. Ta có thể nói Thiền khai phóng tất cả những năng lực
nội tại và tự nhiên tích tập trong mổi người chúng ta, nguồn năng lực
ấy, trong hoàn cảnh thường, bị co rút lại, và vặn tréo đi, đến không
vùng thoát đâu được.»
Tôi sẽ lần lượt khai triển định nghĩa về
Thiền nói trên trong buổi nói chuyện hôm nay.
2. KINH NGHIỆM BẢN THÂN
TÔI VỀ THIỀN
Thiền trước hết là nghệ thuật kiến chiếu
vào Thể tánh của chúng ta.
Để hiểu những lời lẽ then chốt trên, tôi
xin phép quý vị được đề cập đến một kinh nghiệm bản thân của tôi.
Tôi đã có duyên may tìm ra Thể tánh của
mình, một cách ngẫu nhiên hết sức bất ngờ. Số là năm 1956, nhân có phong
trào chấn hưng Khổng học, tôi được hội Cổ học Đà Nẵng mời làm Phó hội
trưởng và yêu cầu tôi làm một bài thuyết trình về Khổng Giáo. Lúc ấy,
tôi mới bắt đầu nghiên cứu đạo Khổng. Khi suy cứu về Trung dung, một hôm
tôi mới trực giác rằng mình có Thiên tính, trực giác rằng mọi người phần
xác, phần hồn ra còn có phần Thần, phần Thiền, và tôi bắt đầu tìm lại
được học thuyết Tam Tài về con người. Tôi thấy rằng con người có ba
phần:
Phần xác tức là phần địa, sống bằng giác
quan.
Phần hồn tức là phần nhân, sống bằng tâm
tư, trí lự.
Phần Thiền sống bằng linh tri, linh giác,
huệ giác, lương năng.
Phần xác, phần hồn thời sống trong vòng
sinh tử, lệ thuộc không gian thời gian.
Phần
Thần, phần Thiền thời sống siêu không gian thời gian, trường sinh bất
tử, hạnh phúc miên trường.
Khi ấy,
lập tức tôi tìm ra được điểm tương đồng giữa các đạo giáo, và chủ trương
tương đồng giữa các đạo giáo:
Phần hồn, phần nhân tương ứng với:
- Nhân tâm, nhân dục trong Nho giáo.
- Tâm hay Nhân tâm trong Lão giáo.
- Vọng
tâm, Vọng ngã, Tiểu ngã trong Ấn giáo và Phật giáo.
Phần Thần, phần Thiên tương ứng với:
- Thiên tâm trong Khổng giáo.
- Đạo hay Thần trong Lão giáo.
- Atman, hay Đại ngã trong Ấn giáo.
- Đại
ngã, Chân ngã, Chân tâm trong Phật giáo.
Tôi lại
thấy rằng:
Chân đạo là đi vào nội tâm để tìm cho ra
cái Bản thể siêu tuyệt của con người, và phần hồn chỉ là phần tạm bợ.
Một lúc nào đó, nó cần phải chết đi, cần phải tiêu tan đi, thì cái Thần
mới biểu dương được.
Bây giờ tôi mới hiểu tại sao
- Khổng giáo nói: Nhân dục tận, Thiên lý
hiện.
- Đạo Lão nói: Tâm tử, Thần hoạt.
- Đạo Phật dậy diệt ngã, tức là diệt tiểu
ngã, tượng trưng bằng Tham, Sân, Si.
- Đạo Bà la Môn nói: Tat tvam Asi: Con
chính là Cái đó. Con chính là Atman vô thượng.
Và khi đọc lại Phúc Âm, tôi thấy Chúa
Jesus, cũng luôn luôn nhấn mạnh: Phải bỏ bình (Mat. 16:24; Luke
9:23), Không được cứu hồn mình, mà phải bỏ hồn mình (Mat. 10: 37;
16: 24; Luke 9: 23- 24; Like 17- 33; John, 12:25); Mà phải sinh lại
bằng Thần (Spirit) mới vào được nước Trời, nước Chúa (John.
3:4- 5).
Bản Kinh Thánh Vulgata, bằng tiếng La Tinh
nhất luật dùng chữ Anima (Hồn) trong các câu then chốt trên. Các bản
dịch Anh, Pháp sau này nhất luật dùng chữ Vie, chữ Life (sự sống) để
dịch. Theo tôi các bản dịch Anh Pháp đã làm hư nguyên nghĩa. Thực hết
sức tai hại.
Nếu dịch Anima là Hồn, lập tức Đông Tây sẽ
gặp gỡ.
Sau khi đã tìm ra được phần Thiên, trong
con người tôi thấy tầm nhìn, lối nghĩ của tôi trước đó thật là nông cạn,
phù phiếm, sốc nổi.
Từ khi tìm ra được phần Thiên trong con
người, tôi vào các đạo giáo thiên hạ một cách hết sức dễ dàng.
Và sau này, khi đi giảng dậy Triết học
Đông phương tại Việt Nam hay tại Mỹ, tôi luôn luôn thôi thúc mọi người
hãy cố bỏ lối sống phiến diện, phù phiếm, mà cố tìm cho ra một đời sống
thâm trầm, phong phú hơn, sống động hơn. Nói cách khác, tôi đã cố gắng
đem phần Thần trả lại cho con người.
Và để nhấn mạnh hai phần nông sâu trong
con người, tôi thường kể chuyện sau:
Trước
đây ở Việt Nam, thường có chuyện người Tầu để của. Một hôm có cặp vợ
chồng người Trung hoa đến một làng Việt, gặp các kỳ lão, và cho biết cha
ông xưa đã để của tại một địa điểm gần làng đó. Họ xin phép được đào
lên, trước sự chứng kiến của dân làng. Đào được bao nhiêu họ sẽ chia
đôi: họ một nửa, dân làng một nửa. Đến khi đào lên, quả tình moi lên
được mấy cái chum, nhưng trong chum chỉ có toàn nước lã. Hai vợ chồng
người Trung Hoa vật mình than khóc, cho rằng mình vô phúc, nên vàng chôn
đã biến thành nước. Dân làng thấy vậy bỏ về. Từ ấy hai vợ chồng người
Trung Hoa sống dở điên dở cuồng, và sống lây lất ở một miếu hoang gần
đó. Dân làng hoàn toàn nghĩ rằng họ tiếc của nên phát điên, và không còn
ai để ý đến họ nữa. Nhưng vào một đêm tối trời, hai vợ chồng đó ra chỗ
để vàng đào lại, và đào sâu hơn. Quả nhiên bấy giờ họ đào được vàng, và
trốn đi không phải chia xẻ cho ai.
Tôi nhân chuyện đó đã khuyên mọi người hãy
cố đi sâu vào tâm khảm của mình, và sẽ tìm ra được Nguồn sinh lực, Nguồn
hạnh phúc vô biên, địa vị sang cả tuyệt luân của mình.
Và tôi dã dùng hình vẽ đơn giản sau đây,
để phân giới hạn giữa Hồn và Thần, để minh định địa vị của Hồn và Thần.
Tôi dùng hình Mặt Trời để tượng trưng cho
phần Thần, phần Thiên, cho Bản tính hằng cửu, phần Chân Ngã, Đại Ngã,
Chân Như.
Tôi dùng hình Mặt Trăng để tượng trưng cho
phần Hồn, phần Nhân, phần Vọng Tâm, Vọng Ngã. Mặt Trời hay hình tròn
tượng trưng cho cái gì hằng cửu, sáng láng, viên mãn.
Mặt Trăng hay hình Bán nguyệt, tượng trưng
cho cái gì Biến thiên, sinh diệt, khi tỏ khi mờ, khi đầy khi vơi, khi
vui khi buồn, khi sướng khi khổ.
Giữa hai hình, là một vùng đen sậm, tượng
trưng cho bức màn vô minh, cho mây mù nhân dục, che lấp mất Nguồn gốc
sáng láng, vĩnh cửu.
Nhìn vào đồ hình này, ta sẽ hiểu khẩu
quyết của Thiền:
Giáo ngoại biệt
truyền, 敎 外 別 傳
Bất lập văn
tự, 不 立 文 字
Trực chỉ nhân
tâm, 直 指 人 心
Kiến Tính thành
Phật. 見 性 成 佛
Dịch:
Truyền nhau Đạo cả huyền vi
Chẳng nề kinh sách, tâm đi thẳng vào
Minh Tâm, kiến Tánh mới hào
Ấy là «thành Phật» tiêu hao gót đầu
Tóm lại
muốn thành Phật, điều kiện tiên quyết là phải cảm nghiệm được một cách
mãnh liệt rằng mình có Phật tính, mình có Thiên Tính. Và khi cảm nghiệm
được như vậy, con người sẽ giác ngộ.
Trong
quyển Đạt Ma Huyết Mạch Luận có đoạn: «Muốn tìm Phật, cần thấy tánh, vì
tánh là Phật. Nếu chẳng thấy tánh, thì niệm Phật tụnh kinh, chay lạt,
giữ giới, nào có ích gì.» (Thiền Luận, Bộ Thượng, tr. 372).
Sự giác ngộ nói trên có thể đến một cách
bất thình lình, có khi đến sau một thời gian lâu lai tiềm tàng suy cứu:
Bách Trượng (709- 788) giác ngộ khi bị
thầy là Mã Tổ (709- 788) vặn mũi (Ib. tr. 382)
Hương Nghiêm (724- 814) giác ngộ khi đang
chặt cây quét lá, bỗng nghe tiếng một viên sỏi đụng vào khóm tre (Ib.
tr. 386)
Diên Thọ
(904–975) nghe có tiếng bó củi rơi mà giác ngộ (Ib. tr. 399)
Cao
Phong (1238–1285) giác ngộ sau khi tiềm tâm suy cứu nhiều ngày về mấy
công án: Muôn vật trở về Một, Một trở về cái gì? và Ai mang
cho ông cái thân vô tri giác ấy? (Ib. tr. 405)
Bạch An
Huệ Hải (1683–1768) giác ngộ sau nhiều ngày miệt mài suy tư về chữ Vô
của Triệu Châu (Ib. tr. 407).
Từ trên sắp xuống, tôi chỉ muốn trình bày
một vấn đề then chốt của Thiền đó là:
Con người có Phật tính, có Chân Tâm hằng
cửu khuất lấp sau lớp Vọng tâm, Vọng ngã.
Thiền có mục đích giúp con người đi sâu
vào đáy lòng để tìm cho ra Chân bản thể ấy của mình, đồng thời cũng là
bộ mặt thật của mình, là Bản Lai Diện Mục của mình.
3. BA BẢN KINH CĂN BẢN
CỦA THIỀN
Thiền tuy nói là không chấp trước vào một
kinh sách nào, nhưng vẫn có ba kinh làm nền tảng. Thoạt kỳ thủy, Đạt Ma
tổ sư (?- 528) khuyến khích đọc kinh Lăng Già.
Đến thời Hoằng Nhẫn (601–674), Huệ Năng
(638–713) lại sùng thượng kinh Kim Cương.
Sau thời Huệ Năng, ta có kinh Pháp Bảo
Đàn của Huệ Năng.
Ba kinh nói trên có liên quan gì đến
Thiền? Dĩ nhiên là có!
Chúng ta sẽ bàn sơ về ba kinh trên.
a) Kinh Lăng Già
Kinh Lăng Già được dịch ra tiếng
Trung Hoa đời Lưu Tống (424–454). Nó là một bản kinh tương đối khó đọc,
khó hiểu.
Nó được Sư bà Diệu Không dịch và in năm
1971, và Thượng tọa Thích Thanh Từ dịch năm 1975. Lăng Già là tên một
ngọn núi ở biển Nam. Núi này cao chót vót nhìn xuống biển cả, không có
đường vào. Vua Dạ Xoa La Bà Na và Bồ Tát Ma Đế đến thỉnh Như Lai lên núi
để giảng kinh. Toàn kinh là một cuộc đối thoại giữa Như Lai và Bồ tát
Đại Huệ.
Kinh giảng về đề mục chính là Như Lai
Tạng.
Như Lai Tạng chính là Chân Như Bản Thể của
con người. Trong kinh còn dùng nhiều danh từ khác tương đương để gọi Như
Lai Tạng, như Chân Như, Chân Tánh, Niết Bàn Tâm, Tâm, Không, Vô Diệt,
Thường, Nhất Thiết Trí, Giải Thoát, Bình Đẳng, Bất Nhị v.v...
Như Lai Tạng, cái Bản Thể Chân Thường,
hằng cửu, siêu việt ấy của con người, còn được gọi là Thánh đế đệ nhất
nghĩa.
Kinh Lăng Già khuyên chúng ta phải
tự tu, tự chứng lấy Chân Lý tuyệt diệu ấy ở nơi mình.
Muốn tới núi Lăng Già, biển phải lặng, gió
phải yên. Muốn lên tới đỉnh Lăng Già, con người phải có bản lĩnh phi
thường. Cũng một nhẽ, muốn chứng nghiệm được Như Lai Tạng nơi mình, lòng
con người cần phải vắng lặng dục tình; con người cần phải vượt lên trên
phạm vi ngôn ngữ, suy luận thông thường, phải dùng tuệ giác mới chứng
nghiệm được Như Lai Tạng, cái Căn Phật đó ở nơi mình. Kinh gọi Tuệ Giác
là Thánh trí tự giác của Như Lai, hay Giác, hay Bồ Đề...
b) Kinh Kim Cương
Kinh Kim Cương đã được đại sư Cưu
Ma La Thập, người xứ Dao Tần, sang Tầu khoảng năm 392, dịch ra tiếng
Trung Hoa. Kinh Kim Cương rất phổ thông ở Việt Nam, và hiện nay có nhiều
bản dịch ra tiếng Việt. Hiện ta có những bản dịch của Đoàn Trung Còn,
Thích Tuệ Hải, Thích Thanh Từ v.v... Kinh Kim Cương được phổ biến quảng
đại trong quần chúng, có lẽ vì nó ngắn gọn. Có nhiều câu hầu như đã trở
thành sáo ngữ, như: Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.
應 無 所 住 而 生 其 心 (Không nên nương
dựa vào đâu mà sinh tâm) (Kim Cương, 10).
Hay:
«Nhất thiết hữu vi pháp,
一 切 有 爲 法
Như mộng huyễn bào ảnh,
如 夢 幻 泡 影
Như lộ diệc như điện,
如 露 亦 如 電
Ưng tác như thị quán.»
應 作 如 是 觀
Năm 1965 tôi đã dịch đoạn trên như sau:
«Hãy nhớ kỹ hình hài sắc tướng
Đều một tuồng mộng tưởng mau qua
Đều là bào ảnh quang hoa,
Sương vương ngọn cỏ, chớp lòa chân
mây... »
Hoặc:
«Nhược dĩ sắc kiến Ngã,
若 以 色 見 我
Dĩ âm thanh cầu Ngã,
以 音 聲 求 我
Thị nhân hành tà đạo,
是 人 行 邪 道
Bất năng kiến Như Lai.»
不 能 見 如 來
Dịch:
Đừng dùng thanh sắc cầu Ta,
Như Lai vô tướng đâu là sắc thanh.
Nếu là thanh sắc liệng vành
Như Lai mơ thấy, âu đành công toi.
Và tôi đã tóm đại ý kinh Kim Cương bằng
mấy vần thơ sau:
Hãy rũ bỏ phù vân sắc tướng,
Hãy cố tìm Vô Thượng Bồ Đề.
Niết Bàn muốn rõ nẻo về,
Đừng nên chấp trước đam mê lụy trần.
Con đường giải thoát nội tâm,
Cố suy cố nghĩ, cố tầm cho ra
Vọng tâm cố vén mây mù,
Băng qua hình tướng vào tòa Như Lai
Nơi vô trụ là nơi an lạc
Pháp vô vi là pháp thánh hiền
Chớ đừng dính líu sự duyên,
Đừng đem thanh sắc mà phiền Như Lai
Hãy nhớ kỹ hình hài, sắc tướng,
Đều một tuồng mộng tưởng mau qua,
Đều là bào ảnh quang hoa,
Sương vương ngọn cỏ, chớp lòa chân mây
Như Lai chẳng ở đây ở đó,
Chẳng đi đâu, chẳng có đến đâu,
Như Lai ở sẵn lòng sâu,
Vào sâu tâm khảm mà cầu Như Lai
Mục đích kinh Kim Cương hết sức giản dị.
Làm sao tìm ra được Kim Cương Thân bất hủy
hoại trong cái sắc thân, cái vọng tâm biến thiên hủy hoại này?
Lăng Già Kinh gọi Kim Cương Thân đó
là Như Lai Tạng, còn Kim Cương Kinh gọi thân đó là Tâm Vô Thượng Chính
Đẳng Chính Giác, hay Tâm Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Tóm lại, muốn hiểu kinh Kim Cương hay kinh
Lăng Già nói riêng, các Kinh Đại thừa nói chung; muốn hiểu Thiền, muốn
tu Thiền cho thấu triệt, cho rốt ráo, chúng ta phải phân biệt nơi con
người chúng ta hai thứ Tâm, hai thứ con người, hai bộ mặt:
1/ Con người vĩnh cửu, tức là Chân Tâm Như
Lai, tức Bản Lai Diện Mục siêu xuất không gian, thời gian, siêu xuất
hình danh sắc tướng, không trụ trước vào hình danh, sắc tướng, «phi
thân», «phi tướng», vô biên tế, siêu xuất sinh tử.
2/ Con người biến thiên, sinh tử, cái vọng
tâm kết cấu bởi nhân duyên, bởi ngũ uẩn, lục trần, trụ trước vào hình
danh sắc tướng; cái vọng tâm có quá khứ, hiện tại, tương lai; cái vọng
ngã luôn bị tam độc tham sân si lũng đoạn; cái phàm tâm si mê, bị vô
minh ô trược phủ lên trên những tấm màn âm u trùng điệp; cái phàm ngã
thương đau, bị cuốn lôi trong cơn gió lốc luân hồi, chẳng khác gì những
chiếc lá khô vô tri giác; cái bộ mặt hóa trang nhem nhuốc, bị trần ai
ngoại cảnh thoa lên trên những lớp phấn son giả tạo, những lớp bùn nhơ
của trần ai tục lụy, trơ trẽn đóng những vai trò đời ngớ nga ngớ ngẩn,
như những con rối vong thân trên muôn ngả đường đời.
Bao lâu còn ôm ấp vọng tâm, vọng ngã,
tưởng đó là mình, thì bấy lâu còn là những phàm phu, tục tử, còn là
chúng sinh, còn chịu định luật quả kiếp, luân hồi.
Khi nào chứng ngộ được rằng mình có Chân
tâm thuờng trụ nơi mình, tức là phát được Tâm chính đẳng chính giác, là
vào được cõi Phật, và Niết Bàn lập tức hiện ra trong sát na...
Kinh Lăng Nghiêm nơi Chương 3 viết:
«Tại sao, từ hồi nào đến giờ, các ông cứ nhận cái vọng thân tứ đại giả
hợp này cho là thật thân mình; cái vọng tưởng sinh diệt này cho là thật
«cảnh» của mình, mà lại bỏ cái Chân Tâm thường còn bất sinh, bất diệt
của mình sẵn có kia đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều kiếp sinh tử luân
hồi, thật rất là oan uổng.»
c) Pháp Bảo Đàn Kinh
Kinh này mô tả cuộc đời của Lục Tổ Huệ
Năng từ một cư sĩ vô danh xay lúa, giã gạo bổ củi trong chùa, cho đến
khi giác ngộ được truyền y bát, cho đến khi thành Lục Tổ hoằng dương
Thiền học, uy nghi, trang trọng.
Vì các đại thiền sư sau này như Mã Tổ,
Bách Trượng, Triệu Châu, Đơn Hà, Thạch Đầu, Hương Nghiêm, Qui Sơn v.v...
xa gần, trước sau, đều là các đệ tử nhiều đời của Ngài, và Ngũ Tông
Thất Phái Thiền Trung Hoa sau này như Tào Động, Lâm Tế, Vi Ngưỡng, Vân
Môn, Pháp Nhãn, và hai phái của Lâm Tế là Huỳnh Long, và Dương Kỳ, đều
phát nguồn từ Thiền Huệ Năng, nên theo tôi, muốn tu thiền, chỉ việc thâm
cứu một quyển Pháp Bảo Đàn Kinh là đã đủ.
Ai đọc Pháp Bảo Đàn Kinh cũng phải chú tâm
đến hai bài kệ của Thần Tú và của Huệ Năng làm, nhân dịp Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn muốn truyền y bát.
Thần Tú là một người học vấn uyên thâm,
văn chương lỗi lạc, hiện đang cầm đầu 500 tăng chúng, dưới quyền lãnh
đạo của Hoằng Nhẫn. Huệ Năng là một người làm, xay thóc giã gạo trong
bếp của chùa, chưa được quy y, thụ giới, lại không hề biết đọc, biết
viết.
Bài kệ của Thần Tú:
Thân thị bồ đề thụ,
身
是
菩
提
樹
Tâm như minh kính đài,
心
如
明
鏡
臺
Thời thời cần phất thức,
時
時
勤
拂
拭
Vật
sử nhạ trần ai.
勿
使
惹
塵
埃
Chuyển dịch:
Thần là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Thường ngày hằng chau chuốt
Chớ cho bám trần ai.
Huệ Năng nhờ người đọc cho nghe bài kệ của
Thần Tú. Nghe xong liền chê là bài kệ chưa đạt tới bản tính, và lập tức
nhờ người viết bài kệ của ông như sau:
Bồ đề bản vô thụ
菩
提
本
無
樹
Minh kính diệc phi đài
明
鏡
亦
非
臺
Bản lai vô nhất vật
本
來
無
一
物
Hà xứ nhạ trần ai?
何
處
惹
塵
埃
Chuyển dịch:
Bồ đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Nơi nào bám trần ai?
Trong khi Thần Tú còn lo ôm ấp, chùi rửa
vọng tâm, thì Huệ Năng một vút đã đạt tới Chân tâm. Hoằng Nhẫn trước
công chúng thì khen kệ của Thần Tú, và lấy giầy xóa kệ của Huệ Năng đi.
Nhưng Ngài gọi riêng Thần Tú vào chê rằng: Ngươi làm bài kệ này, chưa
thấy được bản tính; mới ở ngoài cổng, chưa vào được trong nhà. Với cái
nhìn, cái biết ấy, làm sao đạt được Vô Thượng Bồ Đề. Mặt khác, Ngài đi
xuống bếp gập Huệ Năng ngầm hẹn canh ba đêm đó vào gập Ngài. Cũng trong
đêm đó, Ngài truyền dậy Huệ Năng những vi ý của Kinh Kim Cương.
Huệ Năng sau khi đọc xong câu Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm của kinh Kim Cương, liền giác ngộ và ứng khẩu
đọc rằng:
Hà kỳ tự tính bản tự thanh
tịnh, 何 其
自 性 本 自 清 凈
Hà kỳ tự tính bản bất sinh
diệt, 何
其 自 性 本 不 生 滅
Hà kỳ tự tính bản tự cụ
túc,
何 其 自 性 本 自 具 足
Hà kỳ tự tính bản vô động dao,
何 其 自 性 本 無 動 搖
Hà kỳ tự tính năng sinh vạn pháp...
何 其 自 性 能 生 萬 法
Dịch:
Nào hay Tự Tánh sạch trong
Nào hay Tự Tánh vô cùng khinh phiêu
Nào hay gồm đủ mọi điều
Nào bay bất biến muôn chiều chẳng lay,
Nào hay muôn vật xưa nay
Đều do Tự Tánh phơi bầy hiển dương...
Khẩu khí Huệ Năng chứng tỏ ông đã đạt tới
Chân tâm thường trụ của đất trời. Ngũ Tổ nói: «Nếu không biết được Bản
tâm, thời học pháp vô ích. Nếu biết được Bản tâm, thấy được Bản tâm, tức
gọi là Trượng phu, là Thiên Nhân Sư Phật.»
Sau đó đem y bát truyền trao cho Huệ Năng,
tôn xưng là Lục Tổ.
Mới hay các tổ Thiền chỉ truyền cho nhau
Chân Tâm. Truyền Chân tâm tức là truyền Tâm ấn.
4. SƠ PHÁC LỊCH SỬ
THIỀN TÔNG
Đối với Thiền tông, Tổ Thiền dĩ nhiên là
Đức Phật Như Lai.
A) Ấn Độ có tất cả 28 vị tổ sư Thiền.
Trong đó ta biết ít là 6 vị. Đó là:
1/ Thích Ca.
2/ Ma Ha Ca Diếp.
3/Anan.
12/ Mã Minh
14/ Long Thọ.
28/ Đạt Ma.
B) Trung Hoa có 6 tổ:
1/ Đạt Ma tổ sư (528).
2/ Huệ Khả.
3/ Tăng Xán.
4/ Đạo Tín.
5/ Hoằng Nhẫn (601- 674).
6/ Huệ Năng (638- 713).
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có hai đại đệ tử:
Một là Huệ Năng, sáng lập ra Thiền Nam
Tông còn gọi là Thiền Đốn Ngộ.
Hai là Thần Tú, sáng lập ra Thiền Bắc Tông
hay Thiền Tiệm Tu.
Bắc Tông không chia ra môn phái.
Nam Tông, hậu duệ của Huệ Năng hết sức
thịnh vượng, dần dà chia thành 5 nhà, hay 5 phái (Ngũ gia, ngũ phái):
1/ Lâm Tế.
2/ Vi Ngưỡng.
3/ Tào Động
4/ Vân Môn
5/ Pháp Nhẫn.
Phái Lâm Tế thịnh nhất, sau lại chia thành
hai:
Hoàng Long và Dương Kỳ.
Vì thế người Trung Hoa sau này gọi gộp Nam
Tông là Ngũ Gia, Thất Tông.
C) Thiền Việt Nam. Tất cả có 8 phái:
1/ Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(594) là học trò Tam Tổ Tăng Xán, sang Việt Nam đời vua Lý Phật Tử.)
2/ Phái Vô Ngôn Thông [Thiền sư Vô Ngôn
Thông (?- 826), đồng thời với Quy Sơn (771- 853) và Huỳnh Bá (586), sang
Việt Nam năm 850, đời Đường Tuyên Thông. Lúc ấy Việt Nam đang bị Bắc
thuộc lần thứ 5].
3/ Phái Thảo Đường [Thiền sư Thảo Đường bị
vua Lý Thánh Tông bắt từ Chiêm Thành về năm 1069. Thiền sư là người
Trung Hoa thuộc phái Vân Môn, và là học trò Vân Môn (949).]
4/ Phái Trúc Lâm Yên Tử, do vua Trần Nhân
Tông (1258-1308) sáng lập.
5/ Phái Tào Động [phái này truyền sang
miền Nam (Đàng Ngoài) do Thiền sư Tri Giáo Nhất Cú, đời pháp 27 Tào
Động, khoảng thế kỷ XVII. Các chùa Hòa Giai, Hàm Long, Trấn Quốc ngày
nay thuộc Tào Động.]
6/ Phái Lân Giác (1696) ở Bạch Mai (Bắc
Việt) thuộc dòng Lâm Tế, truyền sang Việt Nam đời vua Lê Hi Tông.
7/ Phái Nguyên Thiều thuộc dòng Lâm Tế, do
Thiền sư Nguyên Thiều truyền vào Trung Việt Huế, năm 1712, đời Lê Dụ
Tông.
8/ Phái Thiệt Diệu Liễu Quán, do Thiền sư
Liễu Quán (- 1743) người Việt Nam thuộc dòng Lâm Tế, sáng lập. Thiền Lâm
Tế dần dần truyền xuống miền Nam.
5. CỐT TỦY CỦA THIỀN
- Mục đích của Thiền là làm Phật, làm Tổ,
chứ không phải là làm tăng hay làm Phật tử.
- Thiền là quán chiếu nội tâm, để tìm cho
ra Phật tính bên trong, chứ không phải là van vái, cúng quải, lễ bái bên
ngoài.
- Thiền không cầu Phật bên ngoài, không
quy y với Phật bên ngoài, mà cầu Phật nơi tâm, quy y Phật nơi tâm.
- Thiền đề cao giá trị con người, muốn
khai phóng, triển dương những năng lực còn tiềm ẩn nơi con người.
- Thiền giúp chúng ta phá vỡ vòng tù túng
của các khuôn sáo, phép tắc giả tạo bên ngoài, để sống một đời sống thực
sự tự do, hồn nhiên, khinh khoát.
- Thiền muốn chúng ta vươn vượt lên trên
các phạm trù ngôn ngữ, lý luận thông thường, để cảm nghiệm thấy cái Bản
thể chân thường, viên dung, toàn mãn bất khả tư nghị của vũ trụ và của
con người.
- Chúng ta có thể dùng đời sống hoặc lời
lẽ các thiền sư danh tiếng để chứng minh những điều trên.
Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 ở Ấn Độ, và là
sư tổ khi Đông độ. Ngài vào Trung Quốc năm 520 đời Lương Vũ Đế, và đã
được vua vời vào bệ kiến tại kinh đô lúc ấy là Kiến Khang.
Phật giáo truyền bá vào nước Tầu, vào
khoảng năm Vĩnh Bình thứ 10, đời Minh đế nhà Đông Hán, tức là năm 67 Tây
lịch.
Tính đến đời Lương Vũ Đế, Phật giáo đã có
500 năm lịch sử. Đạo Phật lúc đó đã biến thành một đạo giáo quần chúng,
chỉ lo xây chùa đúc tượng, cầu Phật, cúng tăng bên ngoài, chứ không biết
gì về bí quyết tìm Phật nơi tâm, tìm Niết bàn nơi tâm.
Lương Vũ Đế khi gặp Đạt Ma đã hãnh diện
khoe rằng đã cho xây nhiều chùa, cho chép nhiều kinh, độ nhiều tăng, và
hỏi Đạt Ma như vậy công đức của vua ra sao? Đạt Ma thưa không có gì!
Dưới đây là lời đối thoại giữa Lương Vũ Đế và Đạt Ma:
Lương Vũ Đế hỏi: Từ ngày tức vị đến
nay, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể, có
công đức gì không?
Sư đáp: Đều không có công đức.
Đế nói: Sao không có công đức?
Sư nói: Đó chỉ là nhân hữu vi, chỉ đem
đến quả nhỏ trong cõi trời người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không
thực.
Đế hỏi: Vậy công đức chân thực là gì?
Sư nói: Trí phải thanh tịnh, thể phải lắng
không. Đó là chân công đức. Công đức ấy không thể lấy việc thế gian mà
cầu được.
Lương Vũ Đế hỏi: Chân lý cùng tột của đạo
thánh là gì?
Sư đáp: Khuếch nhiên vô thánh, nghĩa là
trống rỗng hồn nhiên không có gì là thánh.
Đế hỏi: Trước mặt trẫm là ai?
Sư đáp: Không biết.
Tôi cô đọng ý Đạt Ma trong cuộc đối thoại
trên thành mấy vần thơ sau:
Xây chùa, đúc tượng, chép kinh,
Độ tăng, niệm Phật, công lênh đáng gì!
Trí thanh, tâm tịnh huyền vi
Chân Tâm thể nhập diệu kỳ biết bao!
Vào nơi Vô Tướng mới hào,
Thánh phàm như nhất, nhẽ nào biện phân.
Sá chi vọng ngã phàm trần,
Nay còn mai mất, bận tâm làm gì!
Lương Vũ Đế với Đạt Ma là hai thái
cực. Lương Vũ Đế, một con người còn ôm ấp cái tâm phan duyên, cái vọng
tâm sinh diệt, luôn luôn chạy theo sắc tướng phù phiếm bên ngoài, thì
làm sao có thể hiểu được Đạt Ma, một người đã đạt tới Chân Tâm minh linh
huyền diệu của vũ trụ, và của con người?
Như trên đã nói, mục đích Thiền là làm
Phật, là thực hiện Phật tính nơi tâm, chứ không phải là lậy Phật, lễ
Phật bên ngoài.
Các tổ Thiền chỉ truyền thụ cho nhau Chân
Lý duy nhất này. Các kinh Lăng Già, Kim Cương, Pháp Bảo Đàn chỉ xiển
minh chân lý duy nhất này:
Trong kinh Lăng Già Tâm Ấn, Thích Thanh Từ
dịch, Phật Học Viện Quốc Tế phát hành năm 1982, nơi đầu phần II, trang
134, Bồ tát Đại Huệ đã xác quyết với Phật rằng chư Phật xưa nay đã đồng
thanh dậy rằng trong thân mọi chúng sinh, dưới lớp xống áo nhơ bẩn của
tham dục, sân si, vọng tưởng và các thứ trần lao, đều đã có sẵn Như Lai
Tạng với 32 tướng của Phật, chẵng khác nào như một viên ngọc vô giá đã
bị buộc vào một chiếc áo dơ bẩn.
Nguyên văn như sau:
«Khi ấy Bồ tát Đại Huệ bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Trong kinh Phật nói Như Lai Tạng, Tự Tính thanh tịnh
chuyển 32 tướng vào trong thân tất cả chúng sinh, như hạt châu rất quý
cột trong chéo áo nhơ. Như Lai Tạng thường trú không biến đổi cũng thế,
cột trong chiếc áo nhơ ấm giới và tham dục, sân si, vọng tưởng chẳng
thật, các thứ trần lao làm ô uế. Đây là lời diễn nói của chư Phật...
»
Đẹp đẽ thay lời tuyên xưng của Kinh Lăng
Già về con người!
Khi đọc kinh Kim Cương do cụ Đoàn Trung
Còn chú thích, tôi cũng thấy đầy dẫy những lời chú thích hết sức là cao
siêu về thân thế và giá trị tuyệt luân của con người.
Nơi trang 21, chú 3, cụ viết: Cái thân
hình xác thịt người ta, ví dầu có to lớn lắm, thì cũng bằng núi Tu Di là
cùng. Đó chỉ tạm gọi là to lớn mà thôi. Còn cái không phải thân (phi
thân), cái Pháp thân, cái Phật tánh, cái Như Lai Tánh, mới thật to lớn,
vì Nó bao gồm vũ trụ, vạn vật. Nó tỉ như không gian vô tận.
Nơi trang 51, chú 1, cụ viết: «Người
tu Đại thừa nên nhận thấy Đức Chân Phật là Chân Ngã, Như Lai Tạng hay
Như Lai Tánh, Chân Như có đủ bốn đức Vô Lượng: Từ bi, Hỉ xả, Chân Phật
ấy Chân Ngã ấy tức là Đức Thích Ca Mâu Ni, và cũng là một người chân
thật của chúng ta vậy. Đức Chân Phật ấy, Chân Ngã ấy, xưa nay vẫn ở
trong chúng ta, nhưng chúng ta không nhìn thấy, vì bị các phiền não che
ngăn vậy.»
Thế thật là:
Lơ thơ chùa rách giữa đàng
Ai hay lại có Phật vàng ở trong
Trong thân xác tướng long đong
Ai hay lại có chủ ông đất trời!
Riêng tôi, mỗi khi tôi nghe những lời thơ
bi quan, như:
Bể thảm mênh mông sóng ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Dù ai ngược gió ai xuôi gió
Xem lại cũng trong bể thảm thôi
Tôi thấy lòng xìu lại như uống phải liều
thuốc ngủ. Còn khi nghe thấy những câu kinh, câu chú hùng tráng tuyên
xưng giá trị con người, tôi vui mừng đến như muốn nhẩy múa lên.
Và tôi rất lấy làm lạ là con người vô cùng
cao cả như vậy, mà lại trở thành những thứ bình vôi già cũ, như cụ Phan
Khôi đã đề cập tới, lòng càng ngày càng teo lại, càng thắt lại, vì những
vôi hòn, vôi cục học thuyết này, chủ nghĩa nọ, mà người ta cứ tống mãi
vào lòng mình, trong khi trên phương diện thực tế, mỗi khi mở đôi mắt ra
là có thể thâu cả vũ trụ vào trong, mỗi khi suy tư mường tượng là có thể
gom dĩ vãng, tương lai nhân quần vào nằm gọn trong tâm thần, trí lự. Hay
tệ hơn nữa, con người luôn xưng mình là những kẻ phàm hèn, tội lệ, những
hạng ăn mày ăn xin... Tôi cho rằng thái độ ấy là một thứ thái độ bao
che, những lời nói giả vờ không thực, cốt che dấu sự thực, che dấu thân
phận sang cả của mình, để cho đất trời khỏi ghen ghét mình, cũng y như
các bà nhà quê, đẻ con ra đặt hết tên Cún, tên Vàng, lại đến tên Vện,
tên Mực, không dám đặt cho con mình những tên đẹp, không muốn ai khen
con mình kháu khỉnh, bầu bĩnh, dễ thương...
Tuy nhiên, nếu không biết mình có căn
Phật, cốt Phật, thì không sao hiểu Thiền.
Lâm Tế thiền sư, khi không hét, cũng nói
được những câu sâu sắc.
Ngày kia Ngài nói: «Trên đống thịt đỏ lòm,
có một vị chân nhân thường ra vào theo lới cửa mở trên mặt các người.
Thầy nào sơ tâm, chưa chứng được thì nhìn đây.»
Có một thầy bước ra hỏi: «Vô vị chân
nhân ấy là gì?» Lâm Tế bước xuống Thiền sàng, nắm cứng thầy ta, hét
lớn: «Nói đi! Nói đi!» Thầy ta đang lính quýnh thì Tổ buông ra,
trề môi nói: «Vô vị chân nhân, ồ chỉ là một cái cọc phân khô.»
Rồi đi thẳng vào phương trượng. (Thiền Luận, quyển Thượng, tr.24)
Thế tức là:
Biết ra: tức Phật, tức Trời,
Vô minh, ngu muội, muôn đời phàm phu!
Trong Thiền Luận quyển 1, nơi trang 555,
có bài Bạch Ẩn tọa thiền ca. Tôi tóm thâu lại thành mấy vần thơ
sau đây:
Chúng sinh là Phật bổn lai,
Như băng với nước, rằng hai nhẽ nào.
Nước không băng khởi nơi nao?
Chúng sinh không có, Phật đào đâu ra?
Đạo Trời kề sát bên ta
Kiếm đôn, kiếm đáo, càng xa đạo Trời.
Vẫy vùng trong nước kìa ai,
Mà gào nước uống, xin hoài thương sao!
Kìa ai, con một phú hào,
Lộn sòng cùng tử, ra vào truân chiên!
Luân hồi sáu cõi triền miên
Kìa ai chìm đắm giữa miền vô minh!
Hãy nhìn cho tỏ Tánh mình
Rồi ra sẽ thoát khỏi vành nhiễu nhương.
Vui trong «Bất Dị» miên trường
Trăng «từ» rải sáng muôn phương rạng
ngời.
Pháp Thân tỏa rạng muôn nơi,
Liên hoa đua nờ, khắp trời liên hoa..
Một khi đã biết Phật tức Tâm, Tâm tức
Phật, thời những chuyện cầu Phật, niệm Phật, lễ Phật bên ngoài đối với
nhiều vị Thiền sư đã trở nên không còn cần thiết:
Có một thầy tăng đến kiếm Triệu Châu hỏi:
«Tôi sẽ hành cước về phương Nam, Thầy có vui lòng khuyên bảo điều gì
không?» Châu nói: «Nếu ông sang phương Nam, nơi nào có Phật, ông cứ lặng
lẽ đi qua, nơi nào không có Phật, cũng đừng ở lại.»
Một thầy tăng hỏi Kim Sơn Đạt Quán: «Thầy
có niệm Phật không?» Sư đáp: «Không hề.» «Tại sao không?» «Vì e dơ
miệng.» (Thiền Luận, quyển Trung, chú thích 2 & 3, tr. 80).
Thiền sư Đơn Hà, trong một đêm đông đã chẻ
tượng Phật, đem đốt để sưởi.
Indra đời Nguyên đã vẽ thành tranh và Sở
Thạch (1296-1397) đã đề bút vào tranh như sau:
Cổ tự
thiên hàn độ nhất tiêu,
古
寺
天
寒
度
一
宵
Bất câm
phong lãnh, tuyết phiêu phiêu.
不
禁
風
冷
雪
飄
飄
Hiện vô
thiện lợi hà kỳ đặc,
現
無
善
利
何
奇
特
Đán thủ
đường trung mộc phật thiêu.
旦
取
堂
中
木
佛
燒
Dịch:
Đêm đông chùa cổ ngủ nhờ đêm
Gió thổi, tuyết rơi, lạnh khắp miền
Nay thấy tượng kia không ích lợi
Chi bằng bổ đốt sưởi ấm thêm.
Thiền sư Thích Thanh Từ bình về tích này
một cách hết sức sâu sắc như sau: «Quên tâm mình chạy theo hình thức bên
ngoài, càng tu càng xa đạo. Không có sự giác ngộ nào ngoài tâm mà có.
Phật là giác, nếu chúng ta cầu Phật mà quên tâm, thử hỏi có bao giờ thấy
Phật. Những hình tượng Phật, Bồ Tát thờ bên ngoài, chỉ là phương tiện
gợi lại cho chúng ta nhớ bản tâm. Nếu chúng ta không chịu nhớ bản tâm,
cứ cầu cạnh nơi hình tượng bên ngoài, thật là một việc trái đạo. Vì thề
thiền sư Đơn Hà đã bạo dạn đem thiêu tượng phật gỗ. Viện chủ Hướng nóng
lòng hỏi: «Tại sao thiêu tượng Phật của tôi?» Sư đáp: «Thiêu tìm xá
lợi.» Thật là một câu đáp bất hủ. Vậy mà Viện chủ còn ngây thơ hỏi:
«Phật gỗ làm gì có xá lợi.» Sư bảo: «Thỉnh thêm hai vị nữa thiêu.» Quả
nhiên một tiếng sấm sét mang tai, làm sao Viện trưởng không tỉnh ngộ
được. Do đó người sau nói: «Đơn Hà thiêu Phật gỗ, Viện chủ rụng lông
mày.» (Đơn Hà thiêu mộc Phật, Viện chủ lạc mi mao). Hành động táo bạo
của Đơn Hà là một sức mạnh phi thường, đánh thức được người đang chìm
trong giấc mê hình thức... » (Thích Thanh Từ, Trung Hoa chư Thiền đức
hành trạng, Tập Một, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1988. Lời dẫn
đầu.)
Tôi càng ngày càng nhìn nhận thấy rằng:
Dưới lớp lang biến ảo của hình hài, thể xác, trí lự, tâm tư, còn có cái
Vô Cùng. Cái Vô Cùng trong tôi, trong quý vị chính cũng là cái Vô Cùng
nơi chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tiên Thánh muôn đời. Đó chính là Chân Tâm,
là Đại Ngã, là Niết Bàn.
Cái Vô Cùng đó chính là «Chánh Pháp Nhãn
Tàng», «Niết Bàn Diệu Tâm», «Thực Tướng Vô Tướng», «Vi Diệu Pháp Môn» mà
Đức Phật truyền cho Ca Diếp, mà các Tổ Thiền Trung Hoa và Việt Nam
truyền thụ cho nhau, dưới hình thức Tâm Ấn.
Giác Ngộ chính là lúc con người vượt lên
trên được cái bức màn vô minh của ngoại cảnh, của hình hài, của tâm
thức, mà thể nhập vào cảnh giới vô cùng, vô biên, vô ngại đã ở sẵn trong
tâm khảm mình, mà cũng chính là Bản Thể mình.
Nói nôm na, thì Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết
Bàn Diệu Tâm, Chân Như Bản Thể chẳng qua chỉ là Lương Tâm nơi tôi và quý
vị.
Vương Dương Minh có làm 7 bài Tứ Tuyệt
vịnh Lương Tâm mà ông gọi là Lương Tri; tôi xin phỏng dịch để cống hiến
quý vị:
Thân anh, ai nấy có Thiên Chân
Khỏi phải cầu nhân, phải vấn nhân
Hãy dựa Lương Tri tu đức nghiệp
Giấy cũ đọc chi, phí tinh thần
Lương tri thấy được lúc độc tri,
Ngoài biết ấy ra há biết gì?
Ai ai cũng có Lương Tri sẵn,
Hồ dễ mấy ai biết Lương Tri.
Hồ dễ mấy ai biết Lương Tri,
Mình ngứa, mình đau, tự mình ghi.
Đem cái ngứa đau cùng người hỏi,
Ngứa đau hồ dễ với người chia?
Trong tâm ai cũng có Trọng Ni,
Kiến văn trùm lấp mới u mê,
Nay ta đem chỉ chân «đầu diện»,
Chính thực Lương Tri chớ khả nghi.
Sao anh suốt buổi chạy Tây, Đông,
Trong vòng phiền não uổng dụng công,
Đừng nói Thánh Môn không khẩu quyết,
Lương Tri hai chữ ấy Tham Đồng.
Trong ta ai cũng sẵn nam châm,
Căn Nguyên vạn hữu sẵn nơi tâm,
Nực cười ta trước nhìn lộn ngược,
Ngoại cảnh chi li vất vả tầm.
Vô thanh vô xú lúc độc tri,
Áy thực Kiền, Khôn, vạn hữu ki.
Vứt bỏ cửa nhà, kho vô tận,
Từng cửa xin ăn, thực thảm thê...
Bài thơ của Vương Dương Minh cũng chính
là chủ trương đi vào tâm mà tìm Phật của Đạt Ma và của các thiền sư.
Muốn đạt tới đạo Thiền, phải có đủ Giới,
Định, Tuệ, và thực hiện Chân Tâm. Giới hạnh là da, thiền định là thịt,
trí huệ là xương, Chân Tâm mới là tủy.
[1]
Một thiền sinh, khi chưa giác ngộ, thường
bị các thiền sư xỉ vả, đánh đập. Mỗi khi vào
«tham thiền»,
tức là vào phòng thầy, để trình bày những suy tư của mình về một vấn đề,
phải lậy bên ngoài cửa mấy lậy; khi vào phòng rồi lại phải lậy mấy lậy,
hết sức là cung kính thầy. Nhưng khi đã giác ngộ có thể đánh lại thầy,
có thể cuốn chiếu không thèm nghe thầy dậy nữa. Làm như thế mà thầy
không giận, trái lại còn mừng rỡ, vì trò mình đã nhận thấy chân giá trị
siêu việt của nó. Đó là trường hợp của Bách Trượng và Lâm Tế. Một hôm,
nhân cùng nhau đối thoại về bầy le bay trên trời, Bách Trượng bị Mã Tổ
vặn mũi đau chết điếng, và ông giác ngộ.
Sau đó, Bách Trượng phát huy bản lãnh, đã
cuốn chiếu, không thèm nghe thầy giảng, đẩy lui thầy vào hậu trường, dọc
ngang như một chúa tể.
Lâm Tế trước khi giác ngộ, đã nhiều lần
cắn răng để cho thầy là Huỳnh Bá đánh, đánh mỗi lần mấy chục hèo, chỉ vì
tội dám hỏi thầy về đạo. Khi đã giác ngộ đã dám đánh Đại Ngu thiền sư,
bạn thầy mình, và đánh lại cả thầy mình là Huỳnh Bá.
Nói cách khác, khi chưa giác ngộ, khi còn
là chúng sinh, một thiền sinh, theo lời Suzuki, «thực
chẳng khác nào một con chó quèn, lang thang đầu đường, xó chợ, nguẩy
đuôi ăn mày đầu tôm, xương cá và tình thương, bị trẻ con đánh đuổi không
tiếc, giờ đây biến thành sư tử lông gáy vàng, một khi rống lên, là khiếp
đảm tất cả các tâm hồn hèn yếu... »
[2]
Tóm lại, khi chưa giác ngộ, khi chưa biết
mình có Pháp thân Như Lai, viên mãn, trường tồn, vĩnh cửu trong thần,
thì là chúng sinh mê lạc, sống trong cảnh phù du hư ảo của các hiện
tượng biến thiên, sinh tử luân hồi bên ngoài. Lúc ấy cần phải hướng
ngoại, cần trông vào tha lực, cần phải cầu cạnh, van vái cúng quải, trì
trai, niệm Phật. Sau khi đã giác ngộ được Tự Tính, được Pháp Thân tự
tại, vô ngại nơi mình, thì tất cả những chuyện tụng niệm, van vái cúng
quải bên ngoài đều trở nên vô ý nghĩa. Như vậy ta mới hiểu tại sao Đức
Sơn không hề bao giờ cầu nguyện, sám hối; Kim Đạt Quán không hề bao giờ
niệm Phật; Đơn Hà đốt tượng, Huệ Năng xé kinh. Tất cả đều chỉ muốn nói
lên sự cần phải phá vỡ các khuôn khổ ước lệ của gian trần, thì mới đạt
được nguồn sống khinh phiêu hào sảng vô cùng tận của trời đất nơi mình.
Lúc ấy, hạnh phúc của thiên nhiên, bên
trong thì từ tâm khảm, từ linh đài con người, bên ngoài thì từ muôn
phương, muôn vật tỏa tung ra. Con người lúc ấy trở về với cái Sơ tâm,
cái tâm nhất quán, cái tâm vị loạn, vị phân của thuở ban đầu; trở về với
cái trạng thái hồn nhiên, vô tư, vô cầu, như như, tự tại; trở về với cái
Bản Lai diện mục của mình, nên luôn luôn hồn nhiên, luôn luôn vui
sống... Vẻ đẹp của đất trời lúc ấy như ngưng đọng lại trong cái Hiện
Tại miên trường vô cùng tận, và người với cảnh tạo nên một khúc hòa ca
không còn biết đâu là chủ khách.
Trong buổi nói chuyện này tôi chỉ muốn nói
về cốt tủy của Thiền, tinh hoa của Thiền, với hoài bão là đánh thức cái
Căn Trời, Cốt Phật đang còn ngây ngất, đang còn ngủ vùi nơi quý vị.
Chính vì vậy, mà tôi đã không đề cập đến các cách ngồi thiền, các cách
hít thở, các cách chỉ quán thông thường. Quý vị nào muốn khảo những vấn
đề trên, xin đọc:
- Các chương 61, 62 trong kinh Trung A
Hàm, có ghi các lời Phật dậy cho con mình là Đại Đức La Hầu La về
phương pháp hành thiền, phương pháp chú niệm vào hơi thở, các đề tài chỉ
quán như Từ, Bi, Hỉ, Xả v.v..
-Pháp Môn Tọa Thiền của Hòa Thượng
Thích Giác Nhiên, thuộc Tịnh Xá Minh Đăng Quang.
-Pháp Hành Thiền trong Phật Giáo,
bản dịch Phạm Kim Khánh, do chùa Pháp Vân, Pomona ấn tống.
-Từng bước nở hoa sen, của Thượng
Tọa Nhất Hạnh, gồm 47 bài thi kệ nhật tụng cho các người tập thiền.
Tôi cũng không muốn làm điên đầu quý vị
với những công án, với những thoại đầu. Tôi cũng không muốn kể lại những
lời lẽ kỳ bí, những hành vi kỳ quái của một số vị tổ sau này.
Tôi hiện có quyển Minh tâm kiến tính
thoại Thiền tông, bằng chữ Hán, do Bồ Đề Học Xá tại Hồng Kông biên
soạn, trong đó có cho chúng ta một số chìa khóa để hiểu các công án.
Thượng Tọa Thích Thanh Từ trong bộ
Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trang, nơi «Lời nói đầu», cũng cho
chúng ta một số chìa khóa:
Ví dụ:
- Người tu Thiền tông cốt nhận được Bản
tâm, thấy được Bản tính của mình.
Như vậy nó là của báu nơi chính mình,
không thể cầu nó nơi ai được
Khái niệm này giúp ta hiểu tại sao khi Huệ
Hải đến cầu Phật pháp nơi Mã Tổ, đã bị Mã Tổ quở rằng: Kho báu nhà
mình chẳng đoái hoài, lại bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?
- Thiền tôn lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu
hành của Thiền sư là sống trỡ lại với ông chủ của mình trong mọi hành
động, mọi thời gian. Tất cả hình thức bên ngoài, đối với thiền sư không
có gì là quan trọng. Dù ngồi thiền suốt ngày, dưới con mắt các Ngài, vẫn
thấy chưa phải là tinh tấn.
- Huống nữa, quên tâm
mình, chạy theo hình thức bên ngoài càng tu càng xa đạo.
Thượng tọa Thích Thanh Từ đã dùng những
lời trên để giải thích chuyện Đơn Hà đốt tượng Phật, và kết quả là đã
khai ngộ cho vị viện trưởng trụ trì...
Chân tâm là chỗ bặt suy nghĩ, càng suy
nghĩ càng xa. Thiền tông xưa nay truyền trao chỉ có một chân tâm không
gì khác. Người tu thiền vừa nóng lòng tìm chân tâm, thì không bao giờ
thấy nó... Vì thế Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền vừa hỏi: «Thế nào là Phật
pháp?» liền bị Thiền Sư Hoàng Bá đập cho một gậy, ba phen hỏ, đều bị ăn
ba gậy...
Lâm Tế hận, bỏ đi, đến hỏi Đại Ngu tại sao
mình bị đánh vô cớ. Đại Ngu giảng giải, Lâm Tế Nghĩa Huyền mới đại ngộ.
- Chân tâm hằng lộ liễu trong mọi hành
động của ta. Nếu ta trực nhận là thấy, bằng không trực nhận tìm hoài
suốt kiếp cũng chẳng gập. Người học đạo không chịu ngay nơi hành động
của mình trực nhận chân tâm, mải cầu thiện tri thức chỉ dậy cho thể hội.
Nhưng làm sao chỉ dậy được, vừa nói ra là đã sai rồi.
Vì thế Sư Sùng Tín theo hầu Thiền sư Đạo
Ngộ mấy năm mà chưa được thầy chỉ dậy. Nóng lòng, sư hỏi: «Con theo hầu
thầy mấy năm nay mà chưa được thầy chỉ dậy tâm yếu». Đạo Ngộ bảo: «Ta đã
từng chỉ dậy tâm yếu cho ngươi rồi.» «Thày dậy con lúc nào?» «Khi ngươi
bưng cơm lên thì ta nhận, khi người dâng trà lên thì ta tiếp, ngươi xả
lui ra thì ta gật đầu, đâu ta không dậy tâm yếu cho ngươi». Nhân câu nói
này sư Sùng Tín tỉnh ngộ.
6. KẾT LUẬN
Hòa thượng Dược Sơn một hôm được viện chủ
thỉnh sư cho tăng chúng nghe một thời pháp. Sư bảo: «Được, đánh trống
lên.» Tăng chúng hội họp lại chờ nghe. Sư bỏ vào phương trượng. Viện
chủ theo vào hỏi: «Hòa thượng hứa nói pháp sao không nói tiếng nào?»
Sư đáp: «Pháp (kinh) thì đã có pháp sư chuyên môn giảng luận thì đã
có luận sư chuyên môn giảng. Ông trách tôi nỗi gì?»
Hòa thượng Pháp Diễn ngày kia thượng
đường, câm lặng. Sư hết nhìn bên trái, lại nhìn bên mặt, rốt cùng giơ
cao cây gậy lên nói: «Chỉ dài một thước mộc.» Rồi sư hạ đường,
không giảng giải gì thêm.
Lão Tử, Đạo Đức Kinh có câu: «Trí giả
bất ngôn, ngôn giả bất trí.» (Người biết thì không nói, người nói
thì không biết).
Các vị thiền sư xưa kia vì biết quá nhiều
về Thiền, nên khi giảng về Thiền lại lặng thinh.
Ngày nay, tôi chẳng phải thiền sư, cũng
không phải Phật tử mà lại dám nói về Thiền trước mặt nhiều Phật tử,
nhiều học giả rất rành về Thiền, trong một giờ vừa qua. Như vậy ắt là
lầm sai vô số. Tôi chỉ còn biết xin quý vị lượng thứ.
Sau hết vì mục đích của Thiền là liễu đạt
chân tâm, nên để kết luận tôi xin cống hiến quý vị bài thơ của Ức Sơn
chủ làm khi cưỡi lừa qua cầu nhỏ, bị té, và sau đó giác ngộ Chân tâm.
Bài thơ đó như sau:
Ngã hữu
thần châu nhất lõa,
我 有 神 珠 一 顆
Cửu
bị trần lao cơ tỏa.
久 被 塵 勞 羈 鎖
Kim
triêu trần tận, quang sinh,
今 朝 塵 盡 光 生
Chiếu
kiến sơn hà vạn đóa.
照 見 山 河 萬 朶
Chuyển dịch:
Thần châu sẵn có nơi mình,
Bấy lâu bụi lấp ra tình âm u.
Sáng nay, bụi sạch trơn tru,
CHÚ
THÍCH
[1] Thiền
Luận, quyển Thượng, tr. 300, chú *.
[2] Thiền
Luận, bản dịch Trúc Thiên, quyển Thượng, tr. 392.
[3] Thiền
luận, quyển Trung, tr. 300.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét