Chương 8
LUÂN HỒI, CHUYỂN KIẾP
Đối với người Á Đông, luân hồi chuyển kiếp
là một chuyện dĩ nhiên. Nhưng đối với Âu Mỹ, thì vấn đề đó ngày nay dần
dần mới được đem ra bàn cãi và nghiên cứu một cách đứng đắn khoa học.
Tại Mỹ, trào lưu tin vào luân hồi được
khởi xướng vào khoảng giữa thế kỷ 19 với nhóm Transcendentalists gồm
những nhân vật như Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Bronson
Alcott; với nhóm Thông thiên học gồm những người như bà H.B. Blavatsky,
đại tá H.S.Olcott, bà Annie Besant v.v...
Hiện nay phái Scientology, mà giáo chủ là
L. Ron Hubard, cũng chủ trương luân hồi.
Người khảo sát về luân hồi, nổi tiếng quốc
tế hiện nay là Bác Sĩ Ian Stevenson. Ông sinh tại Montréal, Canada ngày
31 tháng 10 năm 1918. Sau khi tốt nghiệp y khoa tại đại học McGill, ông
chuyên về các bệnh tâm thần. Năm 1957 ông làm khoa trưởng khoa Thần kinh
học và Tâm thần học tại Đại Học Virginia trong vòng 10 năm. Sau đó
chuyên giảng về Tâm Thần học tại đó. Ông dần dần trở thành chuyên gia
khảo về luân hồi. Hiện nay ông đã thu thập được hơn 1000 trường hợp luân
hồi trên thế giới. Quyển sách Twenty Cases Suggestive of
Reincarnation, của ông, xuất bản năm 1966, hiện nay được coi là một
trong những quyển sách chứng minh về luân hồi đứng đắn nhất.
Joseph Head và S. L. Cranston từ khoảng
1960 cũng đã ra một loạt sách về luân hồi, mỗi quyển đều dày khoảng 5, 6
trăm trang. Tôi đã đọc qua 2 quyển của các ông nhan đề là:
Reincarnation, Causeway Books, New
York 1967.
Reincarnation, The Phoenix Fire
Mystery, Julian Press New York, 1977.
Sách viết rất công phu; tài liệu hết sức
phong phú.
Hiện nay, tại đại học Virginia, Khoa Siêu
Tâm Lý Học (Department of Parapsychology) có tàng trữ tất cả các hồ sơ
về luân hồi. Bác Sĩ Pratt báo cáo rằng tới tháng 7, năm 1974, viện đã có
1,339 hồ sơ luân hồi, trong đó Mỹ có 324 chuyện, Miến Điện có 139
chuyện, Ấn Độ có 135, Thổ Nhĩ Kỳ 114, Anh có 111.
[1]
Âu Mỹ hiện nay liên kết Luân Hồi mà họ gọi
là Tái Sinh (Reincarnation) với Thuyết Tiền Kiếp (Pre–existence) của
Plato. Họ cho rằng những trẻ thơ mới ba, bốn tuổi mà đã biết nhiều sinh
ngữ, mà giỏi toán vượt mức, chính là vì chúng nhớ lại được
(Reminiscence) những gì đã biết trong tiền kiếp. «Cái cảm giác như là
đã từng thấy qua, nhìn qua một cảnh nào, một nơi nào.» (sentiment du
déjà–vu; feelings of déjà–vu) cũng được cắt nghĩa bằng Tiền Kiếp. Tướng
Patton, khi tới thành phố Langres, ở Pháp, một thành phố còn có nhiều cổ
tích từ thời La Mã chiếm đóng xứ Gaul xưa, tùy viên quân sự người Pháp
xin làm hướng đạo. Ông nói không cần, vì đã biết rõ khu này, mặc dầu ông
tới đây lần đầu tiên. Tướng Patton xác tín rằng xưa kia ông đã từng theo
chiến đoàn Corsar sang chiếm Pháp.[2]
Song song với công trình khảo sát về
«Tái sinh»
và «Đầu Thai»,
nhiều khoa học gia còn khảo sát xem sau khi xác đã chết, hồn có còn sống
hay không. Có nhiều Bác sĩ, như bà Elizabeth Kubler-Ross, chỉ chuyên
khảo về những ngươì đã chết đi sống lại ở trong các bệnh viện. Quyển
sách của bà, nhan đề là On Death and Dying, nổi tiếng thế giới,
xuất bản năm 1969, đã chứng minh điều đó.
Chứng minh một cách hết sức vô tư và khoa
học rằng hồn con người sau khi lìa xác có thể sống riêng rẽ, và hồn con
người sau khi chết thực sự có đầu thai, các nhà khoa học ngày nay cố làm
cho mọi người thấy rằng luân hồi là chuyện có thật. Nếu họ làm được
chuyện này, thì trong một tương lai rất gần, phía trời Âu Mỹ sẽ có những
chuyển mình hết sức là lớn lao.
Ngày nay, mặc dầu cả Công Giáo lẫn Tin
Lành đều không dạy Tái Sinh, nhưng theo một cuộc thăm dò của Gallup Poll
tổ chức trong 12 nước Âu Mỹ – là những nước mà đa số dân chúng theo Công
Giáo hay Tin Lành – vào tháng 2, 1969, đã cho thấy kết quả như sau:
Tỉ số người tin có luân hồi:
– Áo (Austria): 20%.
– Gia Nã Đại: 26%.
– Pháp: 23%.
– Anh: 18%.
– Hi Lạp: 22%.
– Na Uy: 14%.
– Thụy Điển: 12%.
– Mỹ: 20%.
– Tây Đức: 25%.
– Hòa Lan (The Netherlands): 10%.
Chắc ngày nay thăm dò lại sẽ thấy đông đảo
hơn, nhất là về phía giới trẻ.[3]
Sau đây, tôi sẽ bàn lần lượt về các đề mục
sau:
1. Luân Hồi là gì.
2. Vấn đề Luân Hồi trong các tôn giáo, và
lịch sử hoàn cầu.
3. Vấn đề Luân Hồi trước mắt một số danh
nhân hiện đại.
4. Ít nhiều chuyện về Luân Hồi.
5. Đóng góp của tôi về Luân Hồi.
1. LUÂN HỒI LÀ GÌ?
Luân Hồi thường được hiểu là một sự chuyển
kiếp từ kiếp này sang kiếp khác. Phật Giáo, Ấn Giáo hiểu Luân Hồi là sự
chuyển kiếp. Nó được gắn liên với thuyết Nhân quả, Nghiệp quả. Luân Hồi
chính là Samsara; Nghiệp quả chính là Karma. Theo Phật giáo, tùy nhân
duyên mà con người sẽ luân hồi trong sáu cõi (Lục đạo) sau:
– Thiên
– Thần
– Người
– Súc sinh (súc vật, sâu bọ).
– Ngạ quỉ
– Địa ngục.
Ba cõi sau cũng còn được kêu là Tam đồ (ba
con đường) (tam ác đạo):
– Cõi Súc sinh là Huyết đồ, vì dễ bị giết,
bị ăn thịt.
– Ngạ quỉ là Đao đồ, vì ma đói vừa bị đói
khát, vừa bị hành hạ.
– Địa ngục là Hỏa đồ, vì hồn ở trong đó bị
lửa thiêu đốt.
Hi Lạp xưa hiểu Luân Hồi cũng là chuyển
kiếp như lối Á Đông và dùng chữ Metempsychosis để chỉ luân hồi (Metem:
biến thiên. Psyche: Hồn), ý nói khi luân hồi, thì thể xác thay, mà hồn
chẳng thay).
Âu Mỹ ngày nay, chấp nhận luân hồi, nhưng
không chịu rằng người lại có thể đầu thai làm thú vật, nên họ thích chữ
Reincarnation hơn, vì Reincarnation là
«Tái nhập xác».
Đôi khi còn thấy dùng những chữ như Palingenesis: Tái sinh; hay
Transmigration: chuyển kiếp.
Vì nói đến Luân Hồi là nói tới Kiếp trước,
Kiếp sau, nên những chữ như Pre-existence (tiền kiếp, tiền thân) cũng ám
chỉ luân hồi.
– Vòng Luân Hồi vì biến thiên nên cũng
được gọi là Vòng biến thiên, hay Vòng Dịch (Wheel of change).
– Nó lệ thuộc vào thời gian nên cũng được
gọi là Bánh xe Thời gian hay Vòng Thời gian (Wheel of Time).
– Chúng sinh bám trên vòng đó, chịu định
luật nhân quả, nên Vòng Luân Hồi còn được gọi là Vòng Nhân Duyên (Wheel
of Causation), hay Vòng Số Mệnh (Wheel of Fortune).
– Hi Lạp, nhất là môn phái Orpheus còn gọi
Vòng Luân Hồi là Vòng Thai sinh (Wheel of Birth). Thánh Thư thánh James
có đề cập đến vòng Thai sinh.
(Trong bản Thánh Thư James (James
3:6), Vulgata đã dùng chữ Rotam nativitatis nostrae, còn Linh Mục
Nguyễn Thế Thuấn, trong bản dịch Kinh Thánh của ông, ông đã dùng
ngay chữ Vòng Luân Hồi).
Người xưa khi lấy bánh xe tượng trưng cho
vòng Luân Hồi còn có một vi ý hết sức là sâu sắc.
Thực vậy Bánh Xe có hai phần:
1. Vòng bánh bên ngoài luôn luôn quay
tròn, thăng trầm, biến hóa, cho nên tượng trưng cho Luân Hồi.
2. Trục chính giữa vành xe, không biến
thiên, nên tượng trưng cho hằng cửu, cho Giải thoát.
Tu mà vào được giữa trục biến thiên sẽ trở
thành Chuyển Luân Pháp Vương...
Ta sẽ trở lại vấn đề này sau.
Thuyết Luân Hồi gắn liền với Thuyết Nghiệp
quả (Karma)
Đại khái rằng ở đời nếu ta hành động hay
sẽ được kết quả hay; hành động dở sẽ gặp kết quả dở. Kiếp này không
thấy, kiếp sau sẽ thấy ứng nghiệm.
2. VẤN ĐỀ LUÂN HỒI TRONG CÁC TÔN GIÁO VÀ LỊCH SỬ HOÀN CẦU
Khảo các đạo giáo cổ kim, và lịch sử nhân
quần, thì thấy vấn đề Luân Hồi dân nào cũng tin, thời nào cũng có.
Các sắc dân bán khai ở Phi, ở Úc, ở các
quần đảo Thái Bình Dương, những người Da Đỏ ở Mỹ, các bộ lạc xưa ở âu
Châu như bộ tộc Celts, Teutonics, Letts, hay Lombards đều tin có Luân
Hồi.
Người dân đảo Okinawa chẳng hạn tin rằng
sau khi chết đi, vong hồn người quá cố luẩn quẩn ở trong nhà 49 ngày.
Sau đó sẽ xuống âm Ti, Địa Phủ, và trong vòng 7 đời, tức là trong vòng
từ 1 đến 210 năm sau sẽ đầu thai lại. Nhưng cũng có những người sẽ ở lại
Địa Phủ không đi đầu thai.
[4]
Dân Aztecs ở Mễ Tây Cơ xưa, khi gặp những
người Tây Ban Nha sang chiếm nước, cứ tưởng là những vị thần xưa tái thế
để đòi lại đất đai, chính vì vậy mà sinh nản chí, chịu đầu hàng mau
chóng.
Trong Hồi Giáo cũng có nhiều người tin vào
luân hồi. Họ tin rằng:
– Thỉnh thoảng lại có thần thánh giáng
phàm. Họ gọi hiện tượng này là Hulul.
– Các bậc lãnh đạo tinh thần cũng có thể
tái sinh (Rij'at).
– Người thường sẽ đầu thai lại (Tanasukh).
Trong Kinh Koran cũng có nhiều đoạn ám chỉ
đến Luân Hồi (Koran, đoạn 8 – Sura Iraf-Meccan các câu 6 – 6 – 13. Chương
25 – Sura Zakhraf-Meccan, câu 5 – 10 – 60. Chương 14 – Sura Nahel – câu 2 –
12 – 80).
Tôi thích nhất câu này:
«Bạn đã chết, và Ngài đã cho
bạn sống lại. Ngài sẽ làm cho bạn chết đi, và sẽ lại cho tái sinh, và
lúc chung cuộc sẽ gom bạn về với Ngài.»
(Sura 1:28).
Nơi đây tôi không bàn nhiều về Luân Hồi
trong đạo Bà La Môn và Phật giáo. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điểm hết
sức quan trọng này là sau khi đọc kỹ kinh sách của Bà La Môn như
Upanishads, Bhagavah Gita, và Phật Giáo Tiểu thừa như Pháp Cú,
và các bộ kinh Đại Thừa như Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết
Bàn, và sách vở do các đại Thiền sư viết, tôi toát lược mấy điểm
trọng yếu sau:
– Phải phân biệt Đại Ngã và Tiểu Ngã.
– Đại Ngã thời thường hằng, siêu xuất sinh
tử.
– Tiểu Ngã thời luẩn quẩn trong vòng luân
hồi.
– Bao lâu chúng sinh còn ôm ấp cái vọng
tâm, vọng ngã, cái tiểu ngã biến thiên, sinh tử của mình, thì bấy lâu
còn phải luân hồi.
Luân hồi để học dần cho ra bài học Đại
Ngã, để biết diệt tiểu ngã mà trở về với Đại Ngã.
Bà La Môn gọi Đại Ngã là Atman. Phật giáo
gọi Đại Ngã là Bản lai diện mục hay Pháp tính Chân Như.
Nhiều người theo đạo Phật chỉ biết được
cái Vô Thường, Vô Ngã, cái Sinh Tử, Biến thiên, mà không biết được bốn
chữ THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH, thật uổng phí thay.
Bà Rhys Davids, một học giả lỗi lạc về
Tiểu Thừa, và thông thạo tiếng Pali, đã chứng minh rằng đức Phật không
bao giờ dạy rằng Chân Ngã, là hư ảo; hay Atman là hư ảo, mà chỉ dạy rằng
không thể tìm thấy được Chân Thường hằng cửu, hay Chân tâm Chân Ngã,
trong cái thân phiến diện, kết cấu bởi Tứ Đại giả hợp; trong cái phàm
tâm kết cấu bởi ngũ uẩn.
Bà Rhys Davids và ông Humphreys đã chứng
minh rằng trong Tạng Kinh viết bằng tiếng Pali, nhất là Pháp Cú Kinh
(Dhammapada), Đức Phật đã dạy con người có 2 thứ Ngã: Đại Ngã và Tiểu
Ngã, và không hề dạy rằng Đại Ngã hay A man là hư ảo. Bà Rhys Davids và
ông Humphreys cho rằng thuyết An-atta (không có Ngã = Not-Self) là do
môt sự hiểu lầm của nhiều người theo Tiểu Thừa (Theravada).
[5]
Đại thiền sư Nhật bản là Bassui Tokusho
(1327–1387) đã bàn về Luân Hồi và Giải Thoát như sau:
«Nếu bạn muốn thoát vòng sinh tử luân hồi,
bạn phải biết con đường thành Phật thẳng nhất, ngắn nhất.
«Mà con đường ấy không ngoài sự thực hiện
được Bản Tâm mình. Bản Tâm hay Chân Tâm của mình, chính là Bản thể chân
thực của quần sinh, có từ trước khi cha mẹ sinh ra ta, và luôn luôn,
hiện hữu, trường tồn. Đó chính là BẢN LAI DIỆN MỤC của chúng ta... Cái
Bản Lai Diện Mục ấy, khi chúng ta sinh ra, chẳng có phải tạo ra thêm;
sau khi ta chết đi, nó vẫn còn y nguyên đó. Nó không có nam, có nữ; nó
siêu xuất trên thiện ác. Không một cái gì có thể so sánh được với Nó, vì
thế Nó được gọi là Phật tính...» [6]
Tất cả Upanishads, Bhagavad Gita của Bà La
Môn giáo, bằng cách này hay cách nọ, cũng chỉ dạy có MỘT CHÂN LÝ VĨNH
CỬU ĐÓ. Nghĩa là nếu ôm ấp cái tiểu ngã mình, thời luân hồi muôn kiếp...
Nếu nhận ra Đại Ngã, ra Atman, nếu rũ bỏ được vọng tâm vọng niệm, nếu
kết hợp nhất như được với Đại Ngã, đó là Giải thoát. Đọc các Thánh Thư
Ấn Giáo nói trên, mà có những tư tưởng trên đây dẫn đạo, thì sẽ thấy
toàn bộ kinh sáng láng như ánh dương quang. Nếu không, sẽ như đi lạc
trong một đêm ba mươi, đã không trăng sao, lại còn vân vũ mù mịt.
Giữa lòng biến thiên của cuộc đời tang
thương vân cẩu, giữa những trận cuồng phong ác vũ của hồng trần, người
thấu thị luôn luôn nhìn thấy Đại Ngã sáng chói trong lòng mình, nhờ vậy
mà sẽ được hạnh phúc, sẽ được bình an, sẽ được giải thoát.
Mới hay:
Toàn Tri bất diệt, bất sinh,
Không nơi, không chốn; quần sinh khác
vời.
Ngoài vòng sinh tử, thảnh thơi,
Xác thân dẫu nát, Ngài thời vẫn nguyên.
Nhỏ thì nhỏ nhít thua kim,
Lớn thời vũ trụ muôn miền vẫn thua.
Ẩn trong tâm khảm, lặng tờ,
Trong lòng muôn vật, mờ mờ ẩn thân.
Thấy Ngài, phải dụng mắt thần,
Mắt thần vừa mở, Chân Thần hiển dương.
Thấy Ngài bất biến trường tồn,
Không hình, không ảnh trong muôn hình
hài,
Ai mà biết thế mới tài,
Thoát vòng sinh tử, muôn đời trường
sinh...
[7]
Tóm lại bao lâu, con người nghĩ mình sống
tách rời Chân Thể, Đại Thể, bấy lâu sẽ còn luân hồi. Bao giờ thấy mình
với Đại Ngã, Đại Thể là một, sẽ siêu thoát.
[8]
Đạo Lão cũng có cái nhìn y thức như vậy.
Khẩu quyết đắc Đạo, thoát Luân Hồi đã được ghi trong quyển Thái
Thượng Bảo Phiệt như sau:
«Tâm dữ
Đạo hợp, tắc tạo Bồng Lai, Tam Đảo,
Tâm dữ
Đạo ly, tắc tạo lục đạo tam đồ.»
Dịch:
Lòng Người hợp với Lòng Trời,
Bồng Lai, Tam Đảo tức thời hiện ra,
Lòng người lòng Đạo lìa xa,
Tam đồ, lục đạo phôi pha, khốn nàn.
Đạo Cao Đài cũng hoàn toàn tin có luân
hồi.
Về phía Công giáo, thì ta có thể nói chắc
chắn rằng từ Công đồng Constantinople họp vào năm 543 trở đi, thì Giáo
hội nghiêm cấm không cho tin có luân hồi. Ai tin như vậy sẽ bị vạ tuyệt
thông. Trước đó hơn ba trăm năm có Giáo phụ lừng danh là Origen (A.D. c.
185– c. 254) đã chủ xướng luân hồi, nhưng Công đồng Constantinople khi
họp cũng phi bác thuyết trên của Giáo phụ. Sau này qua nhiều thế kỷ, vì
sợ những hình phạt kinh khủng mà các Tòa Hình Án (Inquisitions) dành cho
những giáo dân dám suy nghĩ khác với những điều Giáo hội dạy, nên không
còn ai dám chủ trương Luân Hồi và do đó thuyết Luân Hồi hầu như bị tiêu
diệt tại Âu Châu cho đến thế kỷ 19.
Ngay bây giờ, người Công giáo bắt buộc vẫn
phải tin rằng con người chỉ sống có một kiếp. Sau đó sẽ lên thiên đàng
lĩnh thưởng, hoặc xuống địa ngục chịu phạt đời đời kiếp kiếp. Ngoài ra
Công giáo còn dạy tin có Luyện ngục, một nơi đền tội tạm thời, trước khi
lên Thiên Đàng. Đến ngày tận thế, xác loài người đều sẽ sống lại, hợp
với hồn để lên trời lĩnh thưởng hay xuống địa ngục chịu phạt đời đời.
Các học giả ngày nay khi so sánh hai cái
nhìn về lai sinh, một của Công Giáo, một của Ấn Giáo, Phật giáo nói
trên, thì đều có nhận định rằng:
Thuyết Luân hồi nghiệp báo, dù sao cũng
công bằng hơn, từ bi hơn, hữu lý hơn.
Ngày nay nhiều người thấy khó chấp nhận
rằng con người có thể bị đốt trong lửa hỏa ngục đời đời, vì tội mình làm
nơi gian trần này, nhất là khi bị ghép là đã phạm trọng tội, nhưng thực
ra chỉ là khinh lỗi.
Ta hãy tưởng tượng một người phạm một lỗi
lầm hết sức nhỏ mọn, như ăn một miếng thịt ngày Thứ sáu, hay bỏ không đi
xem lễ ngày Chủ nhật, vì lười biếng chẳng hạn, rồi nhỡ bất ưng chết đi,
không kịp ăn năn thống hối, mà phải xuống hỏa ngục chịu phạt đời đời,
thì thật là phi lý. Rồi ta lại tưởng tượng một tên gian ác, giết vô số
mạng người, trước khi lên ghế điện, được linh mục hay mục sư đến giải
tội cho; hắn thật lòng thống hối, và thề quyết không giết người nữa.
Chịu tử hình xong, chàng ta có rất nhiều hi vọng lên thiên đàng hưởng
phúc đời đời. Và còn trăm nghìn trường hợp lôi thôi,
«tréo cẳng ngỗng»
như vậy. Tất cả những thực tế phũ phàng ấy không thể nào thích hợp với
quan niệm Chúa từ bi vô cùng, công bằng vô cùng được.
Các triết gia lớn như Origen, như các tác
giả Dịch Kinh đều cho rằng «Thiên
địa tuần hoàn chung nhi phục thủy»,
nghĩa là tới lúc chung cuộc, tất cả sẽ nhập vào lại Bản Thể của trời
đất, vào Thái Cực.
Lão tử cũng viết:
Phù vật
vân vân,
夫 物 芸 芸
Các qui
kỳ căn.
各 歸 其 根
Qui căn
viết tĩnh,
歸 根 曰 靜
Tĩnh
viết phục mệnh,
靜 曰 復 命
Phục
mệnh viết thường.
復 命 曰 常
(Đạo đức kinh, chương 16).
Dịch:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản nguyên an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
Hiện tượng ấy được gọi là Apocatastasis,
hay Restitution of all things. Luke có nhắc tới quan niệm này trong
Actes 2:21, nhưng ngày nay không còn mấy ai hiểu được vấn đề này. Ngược
lại, nếu theo đúng như chủ trương của Giáo hội, thì lúc tận thế vẫn còn
có hằng triệu tỉ người bị phạt đời đời trong hỏa ngục. Nếu đúng vậy, thì
thực là một sự ô danh muôn đời cho Chúa, một đấng thông minh vô cùng,
toàn năng vô cùng, lân tuất vô cùng, và cho thấy Ngài đã hoàn toàn thất
bại trong công trình đại tạo của Ngài...
Ông David Lloyd George (1863–1945) viết
trong nhật ký của ông, đề ngày 3, tháng 9, 1919, một đoạn rất là dí dủm
như sau:
«Khi còn tấm bé, mỗi khi nghĩ tới thiên
đàng, tôi lại sợ hơn khi nghĩ tới hỏa ngục. Tôi tưởng tượng Thiên đàng,
là một nơi có những ngày Chủ Nhật vô tận, và những lễ vô tận, mà ai cũng
phải dự, không cách nào trốn thoát, bởi vì Chúa Toàn năng, và các đạo
binh thiên thần của Ngài luôn để ý xem có ai trốn ra ngoài không. Thật
là một cơn ác mộng. Cái trời qui ước với các thiên thần luôn luôn ca hát
v.v... làm tôi tưởng chừng phát điên lên, và làm tôi trở thành vô thần
mất 10 năm. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ đầu thai... và lai sinh, chúng ta
sẽ sướng hay khổ tùy theo hành động của ta ở đời này. Ví dụ, một người
chủ chuyên làm cho thợ toát mồ hôi, thì sau sẽ bị sợ toát mồ hôi.»
[9]
Có một điều lạ là nếu ta đọc Phúc âm một
cách vô tư, thì ta thấy chính Chúa Jesus cũng tin có Luân Hồi vì Ngài
tuyên bố rằng John the Baptist, đấng Tiền Hô Ngài, chính là Elijah tái
sinh. (Mat. 17:9–13. Mat. 11:7, 10–11, 14–15).
Các Tông đồ cũng cho biết rằng dân chúng
tưởng Chúa Jesus là John the Baptist, hay Elias, hay Jeremias, hay một
tiên tri khác. (Mat. 16:13–14).
Chữ «Vòng
Luân Hồi» (Vòng sinh của
Orpheus) cũng đã thấy nhắc đến trong Thánh Thư James. Linh Mục Nguyễn
Thế Thuấn khi dịch đoạn này cũng đã dùng trúng chữ: BÁNH XE LUÂN HỒI (James
3:6). (Xem KINH THÁNH, Nguyển Thế Thuấn dịch).
Bản VULGATA dùng chữ ROTAM NATIVITATIS
NOSTRAE. Đó chính là chữ mà xưa Môn Phái Orpheus, Hi Lạp dùng để chỉ
vòng Luân Hồi.
Nhiều bản dịch Anh, Pháp có ý dịch tránh
đi.
Holy Bible (Red Letter edition)
dịch: The Course of Nature.
Bible de Jerusalem dịch: le Cycle
de la création và chú thêm rằng Vulgate dịch là LE CYCLE DE NOTRE
EXISTENCE.
Nếu dùng đúng chữ như Bible de
Jerusalem đã chú, thì LE CYCLE DE NOTRE EXISTENCE chẳng phải là Vòng
Luân Hồi thì là cái gì?
Chúng ta sẽ hết sức thiếu sót, nếu khi ta
bàn về Luân Hồi, mà không nhắc đến những tên các đại triết gia, hay các
danh nhân, danh sĩ sau đây:
– Các triết gia Hi Lạp: Pythagoras
(583–507 B.C.); Heraclitus Ephesus (c. 540–480 B.C.); Socrates (469?–
399 B.C.); Plato (427?–347 B.C.); Aristotle (384–322)...
– Các triết gia, văn gia La Mã: Cicero
(106–43 B.C.); Vergil (70–19 B.C.); Ovid (43 B.C. – A.D. 17)...
– Các triết gia thuộc môn phái Tân Bá Lạp
Đồ (Neoplatonists): Plotinus (A.D. 205–270); Porphyry (A.D. 233– c.
304); Iamblichus (A.D. c. 250– c. 330); Macrobius (thế kỷ 4–5)...
– Danh nhân, danh sĩ thuộc phái
Gnosticism: Basilide; Valentinus; Marcion...
– Các danh nhân thời Trung cổ: Leonardo da
Vinci (1452–1519); Paracelsus (1493–1541); Giordano Bruno (1548–1600);
Leibniz (1646–1716)...
– Danh nhân danh sĩ Hồi giáo: Mansur
Al-Hallaj (thế kỷ thứ 10); Jalalu L-Din Rumi (1207–1273)...
– Danh nhân danh sĩ thuộc môn phái Kabala
(Mật tông Do Thái): Rabbi Isaac Luria (1534–1572); Rabbi Manasseh Ben
Israel (1604–1657)...
– Các danh nhân thế kỷ 18: Voltaire
(1694–1778); Benjamin Franklin (1706–1790); Immanuel Kant (1712–
1786)...
– Các danh nhân thế kỷ 19: J. W. Von
Goethe (1749–1832); William Blake (1757–1827); Napoleon Bonaparte
(1769–1821); G. W. F. Hegel (1770–1831); Arthur Schopenhauer
(1788–1860); Honoré de Balzac (1799–1850); Victor Hugo (1802–1885)...
– Nhóm Transcendentalists Mỹ: Charles C.
Emerson (1808–1836); Henri David Thoreau; (1817–1862); Walt Whitman
(1819–1892); Edgar Allan Poe (1809–1849)...
– Nhóm Thông Thiên (Theosophists): Bà H.B.
Blavatsky (1831–91); Henry Steel Olcott (1830–1907); Annie Besant
(1847–1933)...
– Các danh nhân thế kỷ 20 như: William
James (1842–1950); Carl G. Jung (1875–1961); Thomas Edison
(1847–1931)...
Ấy là tôi chỉ mới kể sơ phác, và cho một
danh sách tối thiểu. Mới hay: Tiên thánh, hậu thánh kỳ quĩ nhất dã (Mạnh
tử)...
Quí vị nào muốn tìm kiếm thêm xem các bậc
tiền bối kể trên đã nói gì nghĩ gì về Luân Hồi, xin đọc cuốn
Reincarnation, The Phoenix Fire Mystery của Joseph Head và S.L.
Cranston.
Thần học gia Công Giáo Hans Kung, tác giả
quyển Le Christianisme et les Religions du Monde, (Editions du
Seuil, Paris 1984), đã nhận định về vấn đề Luân Hồi đại khái như sau:
«Vấn đề này thường không được các nhà thần
học Thiên Chúa Giáo coi trọng. Sống hơn một kiếp – Tái sinh
(reincarnation), hay Luân hồi (metempsychosis) – phải chăng đó là những
tư tưởng kỳ quặc, ngộ nghĩnh; hay chẳng qua là mê tín dị đoan có thế
thôi? Phán đoán như vậy, người ta đã quên mất hai điều:
1. Người Ấn Độ không phải là dân duy nhất
tin vào luân hồi, mà từ nhiều ngàn năm nay, một phần lớn nhân loại cũng
đã tin như họ.
Không phải chỉ có vô số những dân tộc cổ
sơ, những dân tin vào vật hồn (animism) hay vật tổ (totemism) mới tin có
luân hồi. Mà còn tin có luân hồi 600 triệu dân Ấn, 300 triệu Phật tử ở
Trung Hoa, Nhật Bản và Đông Nam Á. Có thể niềm tín ngưỡng của AÁn Độ nói
trên về Luân Hồi đã ảnh hưởng sang tới Hi Lạp, và Tiểu Á. Nhưng có điều
chắc chắn là từ thế kỷ thứ sáu trước kỷ nguyên, Pherecydes of Syros là
người đầu tiên đã truyền bá thuyết luân hồi tại Âu Châu, và sau đó môn
phái Orpheus cũng chủ trương như vậy. Rồi đến Pythagoras, Empedocles,
Plato, Plotinus, những triết gia thuộc phái Neo– Platonism, và những thi
sĩ La Mã như Vergil. Ảnh hưởng của họ lan rộng cho tới những người thuộc
môn phái Gnosticism, Manicheism, và giáo phái Cathari thời Trung Cổ sau
này..
2. Ở Âu Châu và Hoa Kỳ, ngày nay, rất
nhiều người tin có luân hồi: Trước hết là những người tin vào thần linh,
thần bí (spiritualists, spiritists); sau đó còn có những người theo
Thông Thiên của bà Blavatsky và Annie Besant; những người theo phái Nhân
Linh Học (anthroposophy) của Rudolf Steiner. Họ còn nại ra vô số các văn
gia, triết gia người Đức cũng chủ trương như họ. Đó là Kant, Lessing,
Lichtenberg, Lavater, Herder, Goethe và Schopenhauer... Có lẽ nào mà
chúng ta không thấy rằng nhiều người âu Châu đã nhờ tin vào thuyết luân
hồi, mà lòng bớt trống rỗng... Cho nên thay vì gán ghép cho Thuyết Luân
Hồi chiêu đề mê tín dị đoan, tưởng cũng nên cân nhắc trọng khinh lại cho
đứng đắn...» (Xem sách trích dẫn, tr. 319–321).
3. VẤN ĐỀ LUÂN HỒI TRƯỚC MẮT MỘT SỐ DANH NHÂN HIỆN ĐẠI
– Henri Ford (1863–1947) đã trả lời như
sau trong một cuộc phỏng vấn: «Tôi chấp nhận thuyết luân hồi năm tôi 26
tuổi... Làm công kia việc nọ cũng vô nghĩa, nếu ta không dùng được kinh
nghiệm của ta trong kiếp này cho kiếp sau. Khi tôi tìm ra được thuyết
Luân Hồi, tôi như tìm ra được một chương trình tổng quát. Tôi thấy tôi
có cơ hội để thực hành ý nghĩ tôi. Thời gian không còn bị giới hạn. Tôi
không còn là nô lệ của những cây kim đồng hồ... Thiên tài là do kinh
nghiệm... Tìm ra được Luân hồi làm tôi thảnh thơi, thoải mái. Nếu bạn
ghi lại cuộc đàm thoại này, thì xin hãy viết ra để người khác cũng thấy
thoải mái. Tôi muốn chia sẻ cùng người khác sự thanh thản khi nhận ra
rằng chúng ta có thể có những thời gian dài để mà sống... (Libro citato,
p. 355–356).
– Albert Schweitzer (1875–1965) vừa là bác
sĩ, vừa là mục sư, vừa là nhạc sĩ. Năm 1959 được mời sang Mỹ công du.
Khi cập bến, ông cúi đầu chào mọi người, và dùng tiếng Pháp, tuyên bố
với những người ra đón mừng ông như sau: «Thưa quí Bà, quí ông, khi
còn trẻ tôi thật là ngu. Tôi đã học tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng La
Tinh, tiếng Hi Lạp, tiếng Do Thái, nhưng không học tiếng Anh. Kiếp sau,
tôi sẽ chọn tiếng Anh là tiếng ưu tiên nhất.» (libro citato, tr.
182.)
– Ông Wincenty Lutoslaski đã viết trong
quyển sách ông nhan đề Tiền kiếp và Tái sinh (Pre-existence and
Reincarnation), như sau:
Nếu ai muốn biết thái độ của Giáo Hội La
Mã với vấn đề tái sinh ra sao xin hãy đọc quyển sách nhan đề:
Monsignor Arcivescovo L. Puecher Passavalli, (tác giả là Attilio
Begey e Allessandro Favero). Tác giả cho thấy rằng sau khi khảo sát đời
sống và đọc các thư tín của Đức Tổng Giám Mục nói trên đã cho thấy Ngài
bắt đầu tin có luân hồi năm Ngài 64 tuổi, sau khi đã nghe các môn đệ của
một nhà thấu thị Ba Lan là ông Towianski thuyết giảng cho nghe về Tiền
kiếp và Tái sinh. Đức Tổng Giám Mục cho rằng thuyết luân hồi không trái
với lời giảng giáo của Giáo hội, và không bị Giáo Hội cấm đoán. Ngài
sống tới 77 tuổi, và tin chắc rằng ngài đã sống nhiều kiếp ở trần gian,
và sẽ còn tái sinh lại. (Ngài làm tổng giám mục cho tới khi chết.)
(libro citato, p. 179).
– Đức Dalai Lama thứ 14 (1935– ), tức Đức
Phật sống Tây Tạng hiện thời cho rằng Luân hồi sẽ sinh ra tình bác ái
phổ quát, vì mọi người sẽ nhận ra rằng chẳng kiếp này thì kiếp khác đã
từng là bà con, họ hàng với nhau... (libro citato, tr.100).
Thực ra đó cũng là tư tưởng hay...
– Gandhi nói: «Sau khi đã quẳng gươm đi,
tôi chỉ còn có chén tình thương để tặng cho những người chống đối tôi.
Tặng cho họ chén tình thương, tôi sẽ khiến họ thân cận với tôi. Tôi
không nghĩ rằng con người mãi mãi sẽ là thù địch với nhau. Và vì tôi tin
vào thuyết luân hồi, nên hi vọng rằng trong lai sinh, tái kiếp, tôi sẽ
có thể ôm ấp nhân quần vào trong vòng tay thân hữu của tôi.» (libro
citato, p. 476).
Thực là lời lẽ của một thánh nhân!
– Đại tướng Mỹ George S. Patton rất tin có
luân hồi. Ông cho rằng mình đã từ nhiều kiếp là một võ tướng, đã từng dự
trận chiến ở thành Troy Hi Lạp, đã phục vụ trong chiến đoàn của Coesar,
đã đánh nhau với Hung Nô, đã theo đoàn quân thánh chiến sang Đất Thánh,
đã đánh nhau với phe Highland Scott để bảo vệ dòng họ Stuart... Năm
1944, ông làm bài thơ sau:
So as through a glass and darkly,
The age-long strife I see
Where I fought in many guises
Many names – but always me.
So forever in the future,
Shall I battle as of yore,
Dying to be born a fighter,
But to die again once more.
(Daniel Cohen,The Mysteries of
Reincarnation, Dodd, Meat & Co, New York, 1975, p. 6– 7)
Dịch:
Mờ mờ qua kính, qua gương,
Thấy mình chiến đấu, nhiễu nhương dài
dài.
Thân này, xác nọ pha phôi,
Tên tuy có đổi, nhưng "TÔI" vẫn này.
Lai sinh, hậu kiếp bao nài,
Vẫn TÔI chiến đấu như thời xa xưa.
Thác đi, sống lại tha hồ,
Vẫn đời chiến sĩ như giờ khác chi...
4. ÍT NHIỀU MẨU CHUYỆN VỀ LUÂN HỒI
Nếu ta có ý đi thu thập các chuyện về luân
hồi, đầu thai, chuyển kiếp trong các tiểu thuyết xưa nay, trong các báo
chí, trong các chuyện truyền tụng trong dân gian, ta sẽ có vô số là
chuyện.
Các nhà khoa học ngày nay cho biết nhiều
chuyện về luân hồi, về tiền kiếp hậu thân, hoặc là do đương sự tự nhiên
kể lại, nhớ lại hay kể lại khi bị thôi miên.
Nếu chỉ kể xong rồi chấp nhận thì không có
gì là hay, nhưng các nhà khoa học lập tức đi điều tra, hoặc đi tìm nhân
chứng, hoặc đi tra lại các sổ sách, hay các sách vở. Có những chuyện rất
lạ lùng như là những người, khi bị thôi miên sau khi nhớ lại tiền kiếp
của mình còn nói được trôi chảy những ngoại ngữ mà khi tỉnh, đương sự
không hề biết.
Muốn sưu tầm những chuyện trên, ngày nay
không phải là chuyện khó.
Trong quyển Have you lived before
của Linda Atkinson, Dodd, Mead & Company, New York 1981, có ghi 5
chuyện.
Trong quyển Reincarnation, The Phoenix
Fire Mystery, của Joseph Head và S. L. Cranston có thuật 15 chuyện.
Trong quyển The Mysteries of
Reincarnation Daniel Cohen, Dodd Mead & Co New York, có ghi 5
chuyện.
Trong quyển Twenty Cases Suggestive of
Reincarnations, có ghi 20 chuyện.
Từ khi tôi còn bé, đọc Chinh Tây,
tôi đã thấy chuyện Dương Phàm, chồng hụt của Phàn Lê Huê, đã đầu thai
làm Tiết Cương để báo thù họ Tiết. Tôi cũng còn nhớ đã đọc một chuyện
nhan đề là Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lúc ấy tôi đã thấy thích
thú.
Sau đây, tôi chỉ sao chép lại một vài
chuyện để mua vui.
1. Chuyện một phụ nữ Anh, năm 1961, kể lại
tiền kiếp là một người theo Giáo phái Cathars thế kỷ XIII tại miền Nam
nước Pháp, thế kỷ 13.
Bác sĩ Arthur Guirdham năm 1961, có chữa
một phụ nữ 36 tuổi, chuyên môn bị ác mộng.
Ác mộng bắt đầu từ năm 12 tuổi. Năm 1961,
bà ta đã có chồng, nhưng vẫn bị ác mộng thường xuyên như vậy. Bà luôn mơ
thấy chém giết, và khi mơ bà thường la lớn, đến nỗi chồng bà lo rằng
hàng xóm sẽ bị mất ngủ.
Vài tháng sau, bà ta viết lại những giấc
mộng, và thuật lại những người đã gặp, những tên đã nghe, những thơ đã
viết ra, khi mộng mị.
Bác sĩ Guirdham ngạc nhiên khi thấy những
bài ca đã được viết là thứ tiếng Pháp thời Trung cổ xưa. Bác sĩ Guirdham
viết thư hỏi một vị giáo sư linh mục, tên là Nellie ở Toulouse, thì được
vị linh mục này cho biết rằng những chuyện mà đương sự kể lại có liên
quan đến một giáo phái xưa gọi là Cathars hay Cathari ở Toulouse, Pháp
thế kỷ XIII (giáo phái này đã bị Công Giáo dùng võ lực tiêu hủy).
Bà ta còn kể lại rằng bà ta đã bị Giáo hội
Công giáo thiêu sinh, và trước đó đã bị cầm tù trong một hầm kín của một
giáo đường. Năm 1967, Bác sĩ Guirdham, sang Toulouse để điều tra. ông
xin phép đọc các bản văn chép tay thế kỷ XIII, và thấy rằng những gì
thân chủ ông kể lại rất là chính xác...Ông cũng đã tìm lại được trong
các văn khố những bài hát đúng như thân chủ ông đã chép lại. Những hầm
kín giam người, mới đầu tưởng là không có, sau mới thấy là có thật. Bà
ta còn kể lại những lễ nghi, phẩm phục của giáo phái Cathars nói trên,
và sau khi truy cứu, tất cả đều phù hợp.
Bác sĩ Guirdham cho rằng vụ này bắt buộc
ông phải tin có Luân hồi. (Xem sách Reincarnation and the Phoenix
Fire Mystery của Joseph Head và S. L. Cranston, tr. 398– 400.)
2. Chuyện nhạc sĩ tí hon Tom, con một nô
lệ da đen, lại mù từ sơ sinh.
Ông Perry H. Oliver, một nông dân, thuộc
quận Muscogee, Georgia có nô lệ là hai mẹ con người da đen. Đứa con nô
lệ đó bị mù từ sơ sinh. Năm 1850, ông đem hai mẹ con nô lệ đó bán cho
tướng James Bethune ở Columbus. Ông Bethune đem nô lệ nhỏ đó về trang
trại, và đặt trên là Thomas Green Bethune. Tuy mù, nhưng Bethune rất
thích nghe tiếng gió rì rào trong những ruộng ngô, và tiếng mưa trên
trên những lá ngô. Năm Tom lên 4 tuổi, ông Bethune mua một đàn dương cầm
cho các con gái ông. Các con gái ông sớm nhận định rằng mỗi khi chúng
đàn, là mặt mày của nô lệ tí hon trở nên hớn hở.
Một đêm, khi cả nhà đã đi ngủ, bỗng nghe
tiếng đàn trong phòng vẽ. ông Bethune xuống kiểm soát. ông thấy phòng
tối như mực, nhưng vẫn có tiếng đàn. Thắp đèn lên, ông thấy bé Tom đang
say sưa đánh đàn.
Biết Tom có thiên tài, ông đón một nhạc sư
về dạy Tom. Nhạc sư sau khi nghe Tom đánh đàn, liền thoái thác không dám
nhận dạy, vì lẽ Tom chơi đàn còn trội hơn ông. Năm Tom lên 7, đã bắt đầu
trình diễn dương cầm ở Columbus, và được nhiệt liệt hoan hô. Năm 11, Tom
đã là một nhạc sĩ trứ danh, đi trình diễn khắp nước Mỹ, và ngoại quốc.
Tom chơi đủ các bài của Beethoven, Mendelssohn, Bach, Chopin... và thuộc
lòng khoảng 5000 bản đàn. Cứ nghe đánh một bài mới, là Tom đánh lại
được, không hề sai. Năm 1860, khi Tom trình diễn ở Washington D.C.,
nhiều người đòi thử tài Tom. Họ đánh cho Tom nghe hai bản đàn liền, một
dài 15, một dài 20 trang. Nghe một lần xong, Tom đánh lại cả hai bài
đúng như in. Một lần khác, nghe xong Third Concerto của Beethoven, Tom
lập tức đánh lại. Có cái lạ là Tom chẳng những vừa mù, lại vừa si, chỉ
biết được có khoảng 500 tiếng Anh. Tom chết tại Hobeken năm 1908. Cũng
nên nhận định rằng, thoạt chơi đàn, khi 4 tuổi, tuy không hề được ai
dạy, Tom đã sử dụng được tất cả các phím đàn, từ phím đen đến phím
trắng.
Chuyện này, nếu không chấp nhận tiền kiếp
không sao hiểu được. (Xem sách đã trích dẫn, tr.409–411.)
Tôi có thể kể thêm vô số truyện khác,
nhưng đó không phải là mục đích của tôi khi viết bài này.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TÔI VỀ VẤN ĐỀ LUÂN HỒI
– Sự đóng góp của tôi chia làm mấy giai
đoạn.
A. Trong giai đoạn đầu tiên, trong khi suy
tư về sự sinh thành, biến hóa của vũ trụ quần sinh, tôi đã tự hỏi như
sau:
1. Hỏi: Trời sinh ra vũ trụ quần
sinh bằng các nào?
Thưa: Trời đã sinh ra muôn loài
không phải bởi không, mà bằng cách phân hóa, phóng phát, tán phân chính
bản thể mình.
2. Hỏi: Sinh hóa để làm gì?
Thưa: Đó chính là sự phát huy, sự
biểu dương, sự hiển dương của Trời.
3. Hỏi: Bản thể thời vô biên, hiện
tượng thời hữu hạn. Làm sao cho hữu hạn theo kịp được vô biên; thời gian
theo được vĩnh cửu?
Thưa: Bằng cách biến hóa có chu kỳ
liên tục kế tiếp nhau.
4. Hỏi: Nếu trời đất này cáo chung,
thì quần sinh lúc ấy sẽ ra sao?
Thưa: Muôn loài sẽ thể nhập lại vào
lòng Trời; muôn hiện tượng sẽ qui căn về Bản thể.
Tôi nhận định rằng: Nhân nào sinh Quả ấy.
Nếu Trời là NHÂN, là NGUYÊN NHÂN vạn hữu, thì sau những chu kỳ biến hóa
đa đoan, rốt cuộc QUẢ Trời sẽ phải sinh lại.
Khi bàn về quể KIỀN, tôi đã viết:
Thóc gieo thành lúa, thành bông,
Tuần hoàn, thóc vẫn thủy chung là mình.
Trời dầu vạn trạng thiên hình,
Nhưng mà chung cuộc sự tình chẳng hai.
Người xưa nói: Thiên địa tuần hoàn, chung
nhi phục thủy, chính là nhìn thấy rằng THỦY, CHUNG phải NHƯ NHẤT sau một
chu kỳ biến hóa.
Âu Châu cũng có quan niệm này khi nói
Alpha bằng Omega, hay khi dùng hình vẽ dưới đây:
'Rho' 'Tau'có thể đọc thành Rota. Mà Rota
có thể hiểu được là VÒNG BIẾN THIÊN, VÒNG DỊCH, hay là một CHU KỲ BIẾN
HÓA. Hình ảnh trên gợi ý rằng: Sau một vòng biến hóa sẽ thấy Omega (Chung)
chính là Alpha (Thuỷ) nguyên thủy.
Tư tưởng cho rằng «Thiên địa tuần hoàn
chung nhi phục thủy», hay «Thủy chung như nhất»; hay «Nguyên thủy phản
chung» của DỊCH (Hệ từ thượng IV) họa hoằn lắm mới có được một người bên
trời Âu hưởng ứng. Origen (185– 251? hay 257?) một giáo phụ công giáo
duy nhất đã dám nói rằng lúc chung cuộc biến hóa muôn loài sẽ trở lại
nguyên trạng, tức là trở laïi vào lòng Tạo hóa. Tiếc thay tư tưởng này
đã bị Công giáo phi bác trong Công Đồng Constantinople năm 543.
Âu Châu gọi hiện tượng: «Chung nhi phục
thủy» này là Apocatastasis, hay Re-establishment of all things. Môn phái
Stoics của Hi Lạp và sau này Nietzche cũng có chủ trương này. Trong
Tân ước, ta thấy thánh Luke trong Công vụ sứ đồ 3: 21, cũng
có đề cập đến quan niệm này, nhưng không ai để ý khai thác.
Vulgate ghi: tempora restitutionis
omnium.
Holy Bible (Red letter edition)
dịch: the times of restitution of all things.
Bible de Jerusalem dịch: temps de
la restauration universelle.
Cũng nên ghi nhận rằng gần đây Linh Mục
Teilhard de Chardin chủ trương con người sẽ tiến hóa tới điểm Omega, tức
là sẽ trở thành Thần Chúa trong một tương lai còn xa lắc.
5. Hỏi: Tại sao lại có biết bao
nhiêu điều như tuồng là dang dở, như tuồng là chếch mác bất toàn, trong
vũ trụ này?
Thưa: Ta tưởng vậy, vì ta không
nhìn được tấn tuồng đại tạo từ đầu đến cuối. Một vở kịch lớn diễn ra
trong vòng bốn tiếng; ta vào giữa chừng xem trong vòng năm phút, rồi đi
ra phê bình là quá dở. Như vậy là tại ta, không phải tại vở kịch.
Càng trông thấy bất toàn, khuyết điểm bao
nhiêu, tôi càng tin chắc đó là vì chu kỳ biến hóa mới còn đang ở giữa
chừng.
Nhìn vào chu kỳ biến hóa của nước, tôi
thấy đầu hết, nước ở trên trời, trong vắt như ngọc thạch. Rồi nước thành
mưa, sa xuống trần gian, chảy xuống sông, xuống biển, xuống cống, xuống
rãnh. Trần hoàn tha hồ dùng nước, tha hồ làm cho nước ô uế. Nhưng có lúc
nước lại bốc hơi lên để bay lai lên trời, tìm lại được cái bản tính
trong trắng, khinh phiêu của mình.
Nhìn vào chu kỳ của ĐẠM KHÍ cũng vậy. Lúc
mà thấy cây cối thối nát, rữa mục chính là chặng đường thấp nhất mà ĐẠM
KHÍ phải băng qua trong chu kỳ biến hóa, để rồi ra mới trở lại được lại
thể khinh thanh, thuần túy của nó.
Trong người có máu đỏ, máu đen. Đừng thấy
máu đen, mà bảo rằng nó không thể hóa đỏ. Đừng thấy máu đỏ, mà bảo rằng
nó không thể hóa máu đen.
B. Khi khảo sát về Nho giáo, về Dịch, và
tìm hiểu về con người tôi đã dùng:
– Ba vòng tròn đồng tâm: Vòng trong cùng
là Thiên (Thần); vòng giữa là Nhân (Tâm, hay Hồn); vòng ngoài cùng là
Địa (Xác). Đó là vì tôi dựa vào Thuyết Tam Tài. Từ đó tôi mới xác quyết
rằng trong người có THẦN.
– Bảy vòng tròn đồng tâm tượng trưng cho:
1– Thần
2– Khí (phần hồn thanh)
3– Tâm (phần hồn trọc)
4– Trí
5– Xác
6– Gia đình, quốc gia, xã hội.
7– Ngoại cảnh, nghề nghiệp
|
Sau khi vẽ xong 7 vòng trên, tôi không
còn quan niệm rằng con ngươì chỉ là một sinh vật có hồn có xác, mà tôi
định nghĩa rằng con người là TẤT CẢ. Trong tâm linh, thì trực tiếp với
THẦN LINH nội tại, ngoài xác thân thì có thể liên lạc với và chịu ảnh
hưởng của ngoại cảnh, của quốc gia xã hội, và cả của các vì tinh tú cùng
tít trên trời thẳm.
Tôi nghĩ ra bảy vòng vì lẽ Dịch có Thái
cực và 6 hào. Tôi dùng 7 vòng để cắt nghĩa các hiện tượng đạo giáo, gia
đình, chính trị, quốc gia, xã hội, nghề nghiệp. Sau này tôi đã dùng bảy
vòng tròn này để cắt nghĩa về LUÂN HỒI.
Mới đầu tôi chỉ dùng bảy vòng tròn để bao
quát mọi hiện tượng của một con người trên mọi thần linh, tâm lý, ý
thức, sinh lý, nội giới, ngoại giới v.v...
Ý tưởng dùng 7 vòng tròn để cắt nghĩa LUÂN
HỒI, đến với tôi một cách hết sức bất ngờ, và lý thú.
Năm 1961, khi mà quân đội Hoa Kỳ mới đem
những đoàn trực thăng vào Việt Nam, khi mà tôi còn là y sĩ trưởng Tổng Y
Viện Duy Tân, Đà Nẵng, một hôm tôi được các đồng nghiệp Hoa Kỳ, đóng ở
phi trường cạnh đó, mời sang xem sự hoạt động của đài radar mới thành
lập.
Họ cho tôi vào xem trong đài quan sát
radar. Tôi nhớ rằng trong phòng đó ngoài những tấm bản đồ quân sự lớn
ra, còn có những màn ảnh trắng, trên có vẽ nhiều VÒNG TRÒN ĐỒNG TÂM, và
có phân sẵn đông, tây, nam, bắc và Tâm Điểm.
Họ cắt nghĩa rằng TÂM ĐIỂM tượng trưng cho
thành phố Đà Nẵng, là chính thành phố Đà Nẵng. Mỗi vòng tròn tượng trưng
cho 1 khoảng cách Đà Nẵng ví dụ là 20 km. Hình ảnh các máy bay đều hiện
ra trên màn ảnh. Và tùy theo hướng di động của máy bay, tùy theo máy bay
đang ở trong vòng tròn nào, người quan sát sẽ biết máy bay đó hiện cách
Đà Nẵng là bao nhiêu cây số, và đang ở hướng nào. Ví dụ như có một hình
ảnh máy bay đang ở vòng tròn trong cùng gần tâm điểm, nhưng đang bay
hướng ra ngoài, thì chắc máy bay đó sẽ rời xa Đà Nẵng dần dần. Ví dụ có
một hình ảnh lạ, từ vòng ngoài cùng nghĩa là khoảng 100 km cách Đà Nẫng,
nhưng đang bay vào hướng Trung Tâm. Nếu xét ra không phải là máy bay
nhà, mà là máy bay địch, thì lập tức phải báo động cho các cơ quan hữu
trách để phòng bị, v.v...
Lúc ấy lập tức tôi nhìn thấy cơ chế của
Luân Hồi. Tôi thấy rằng Thượng Đế ở trung cung, trung điểm của lòng
mỗi một con người. Từng giây, từng phút, Ngài thấy con người đang
hoạt động trên bình diện nào, đang chú tâm về vấn điều gì. Giả sử suốt
ngày đêm, một con người nào đó chỉ lo về vấn đề cơm áo, vấn đề nghề
nghiệp, tức là ở mãi vòng thứ bảy bên ngoài cùng, mà bảo rằng kẻ đó vào
được nước trời, tức là vào được tâm điểm của vòng tròn trong cùng nhất,
thì đó là một điều không thể xảy ra. Cho nên khi Chúa Jesus nói: «Người
giàu có vào nước thiên đàng, thực khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim»
(Luke 18:25; Mat.19:24; Marc 10:25), chính là vì lẽ đó.
Hình vẽ bảy vòng tròn, nếu được vẽ thêm
hai mũi tên hướng ngoại, hướng nội, và nếu được hiểu là «TRẺ ĐI RA, GIÀ
ĐI VÔ», ta sẽ hiểu ý nghĩa vòng DUYÊN NGHIỆP một cách khác. Thay vì coi
luân hồi và nghiệp báo là sự «ân đền, oán trả» hết kiếp này qua kiếp
khác, ta có thể quan niệm rằng đã sinh ra đời, ai cũng có bổn phận trở
về với Đạo, với Trời, hợp nhất với Đạo với Trời, khác nhau chăng là kẻ
trước người sau; người nhanh kẻ chậm mà thôi.
Nếu ta nhìn thấy rõ các tầng lớp, các bình
diện của con người chúng ta, nếu chúng ta biết rằng trở về với Đạo với
Trời là đi sâu vào tâm điểm lòng ta, thì ta có thể về với Đạo với Trời
trong phút giây. Nếu không được vậy, ta có thể vừa đi ra, vừa đi vô
trong một kiếp người. Nếu ta không biết đường, biết phương hướng, ta có
thể mất nhiều kiếp, hay trăm ngàn kiếp. Dẫu sao, ta chỉ có thể dừng chân
khi về tới TRUNG ĐIỂM. Thế tức là «CHỈ
Ư CHÍ THIỆN»
止
於
至
善
theo Nho giáo.
Ngoài mục đích chính yếu là trở về với Đạo
với Trời, ta còn có nhiều bổn phận khác nữa. Nói cách khác ngoài bổn
phận TIẾN HÓA tới TINH HOA HOÀN THIỆN, ta còn có bổn phận THÍCH ỨNG với
HOÀN CẢNH.
Cho nên tôi hiểu DUYÊN NGHIỆP, NGHIỆP QUẢ
là những bổn phận mà con người phải làm, những công trình mà con người
cần thực hiện, những tấn tuồng mà con người cần phải đóng trên sân khấu
đời và trên sân khấu vũ trụ. Và tôi hiểu LUÂN HỒI là những chặng đường
mà tôi đang đi để về với Đạo với Trời.
Mỗi kiếp sống của tiểu ngã là một kiếp để
ta tăng thêm hiểu biết, tăng thêm kinh nghiệm, để ta tiến gần thêm về
phía Đại Ngã. Trời thực sự luôn luôn dẫn dắt muôn loài một cách hết sức
tế nhị.
Suy tư về các kiếp khác nhau, mà con người
phải trải qua để trở về lòng Đại thể vô biên tận, tôi thấy, tùy cao thấp
mà mỗi kiếp cho chúng ta phương tiện nhiều hay ít, độ số sướng khổ nhiều
hay ít, tuổi thọ cao hay thấp. Đây là tôi bàn chung, chứ không hạn hẹp
nguyên vào một kiếp con người.
Chẳng hạn con vật thua con người, vì bộ óc
chúng không mấy phát triển, và chúng không có một ngôn ngữ phong phú như
chúng ta.
Chúng ta phải tâm niệm rằng trong bất kỳ
kiếp sống nào, chúng ta sẽ không được ù lì, thụ động, mà phải phát huy
các tài năng còn tiềm ẩn trong ta, để ngày một trở nên tinh tế, ngày một
trở nên sống động, khinh khoát, từ ái, khoan hòa, bao dung, quảng đại,
và không bao giờ được đóng khung chúng ta vào một vai trò nào, một hoàn
cảnh nào.
Nói cách khác, khi chúng ta đã cầm tấm bản
đồ luân hồi và giải thoát trong tay, tấm bản đồ tiến hóa trong tay,
chúng ta tha hồ chu du trong vũ trụ. Tuy nhiên, dẫu ở trong cảnh nào, dù
sướng mấy đi chăng nữa, chúng ta cũng không thể vì MÊ CẢNH mà quên mục
phiêu tối hậu của chúng ta, đó là HỢP NHẤT VỚI BẢN THỂ VŨ TRỤ BẤT BIẾN,
TRƯỜNG TỒN, VÔ NGÃ, VÔ PHƯƠNG SỞ nhưng VÔ SỞ BẤT TẠI.
Chúng ta phải luôn luôn tâm niệm rằng bao
lâu chúng ta còn sống xa lìa Đại Thể, bấy lâu chúng ta còn LUÂN HỒI.
Bao lâu chúng ta còn ở trong vòng hình,
danh, sắc tướng, bấy lâu chúng ta còn luân hồi. Mà đối với các nhà thấu
thị Á Đông, thì dẫu là đã vào hàng thượng tiên, thượng thánh, nếu chưa
hợp nhất với Đại Ngã, với Bản Thể, thì cũng vẫn là còn ở trong vòng LUÂN
HỒI...
Bao lâu còn sống trong vòng Âm Dương đối
đãi, trong vòng không gian thời gian, bấy lâu còn luân hồi.
Trong khi ghi lại những tư tưởng của tôi
đã có từ khoảng 1960, đồng thời trong những ngày gần đây đọc thêm ít
sách nói về LUÂN HỒI, tôi thấy những tư tưởng của tôi kể trên, như đã
được đồng vọng lại khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là một sự yên ủi hết
sức lớn lao.
Ví dụ, sách Zohar, một kỳ thư bí điển của
mật tông Kabbalah Do Thái đã nhận định về LUÂN HỒI như sau:
«Mọi linh hồn đều phải trở về với Bản thể
Tuyệt đối mà từ đó chúng đã phát sinh. Muốn đạt mục tiêu đó, chúng phải
triển dương, phải thực hiện được sự hoàn thiện mà mầm mộng đã được cấy
sẵn trong chúng. Nếu chúng không thực hiện được trạng thái trên trong
kiếp này, thì phải bắt đầu một kiếp khác, hay kiếp khác nữa, cứ như thế
cho đến khi thực hiện được tình trạng HỢP NHẤT VỚI THIÊN CHÚA.»
[10]
Nhà thần học Thiên Chúa Giáo Paul Tillich
chẳng hạn cũng đã bàn về Luân Hồi, Niết Bàn như sau:
«Niết Bàn trượng trưng cho đời sống vĩnh
cửu, và một đời sống tuyệt đối viên mãn, chứ không phải là một sự chết
chóc, hủy diệt, hư vô. Đời sống Niết Bàn siêu xuất lên trên mọi phân
biệt nhĩ, ngã; chủ, khách; nó là mọi sự vì không nhất định là cái gì...
«Nhưng muốn đạt tới Niết Bàn, cần phải
kinh qua nhiều kiếp. Những kiếp này luân phiên nối tiếp nhau trên triền
thời gian, và cũng có pha phách khổ đau, được coi như là những sự trừng
phạt.
«Sau khi đã thoát được hết các kiếp sống
lệ thuộc vào thời gian, đời sống vĩnh cửu mới bắt đầu. Cá thể siêu thăng
thành Toàn thể. Một sự tái hồi NGUYÊN CĂN đã xảy ra...»
[11]
Ông Huston Smith cũng nhận định về Luân
Hồi và Giải Thoát một cách hết sức sâu sắc như sau:
«Chữ "Personality" ("cái tôi") là do chữ
la tinh Persona (mặt nạ) mà ra. Người kịch sĩ đeo mặt nạ để bước vào sân
khấu trình diễn vai trò mình đóng. Mặt nạ hóa trang như để nói lên cái
vai trò diễn xuất, còn người thủ vai thì ẩn bên trong, như kẻ vô danh.
Cái mặt nạ hóa trang ấy chính là "cái ta", "cái tôi" ta xưng khi đang
đạo diễn vai trò nào đó trong tấn kịch vĩ đại của cuộc sống con người.
«Nhưng khổ nỗi là chúng ta đã quên mất
không phân biệt Con Người Thực của chúng ta với những "cái tôi giả tạo"
ta mang để đóng trò. Những cái tôi giả tạo ấy, như xống áo, sẽ được cởi
ra khi đóng xong vở tuồng.
«Chúng ta đã bị hoàn toàn mê hoặc bởi cuộc
sống hiện tiền, mà quên hết những vai trò đã đóng trong các vãng kiếp,
cũng như không ngờ được những vai trò sẽ đóng trong các lai sinh. Chúng
ta có bổn phận phải sửa lại sự sai lầm đó. Con người phải biết hồi quang
quán chiếu để nhìn thấu qua, và tiêu hủy vô số những lớp lang của các
"cái tôi", các mặt nạ hóa trang tạm bợ, để rốt cuộc tìm lại được "con
người chân thực, vô danh, rốt ráo" ẩn nấp đàng sau.
«Trong chuyến lữ hành ấy, con người không
bao giờ cô đơn, và lạc lõng. Từ trước đến sau, từ đầu đến cuối, Atman,
cái Chân tâm, cái Cốt Lõi con người ấy, cái Thực Thể duy nhất ấy, lúc
nào cũng như là một điểm Linh quang ẩn áo trong tâm khảm con người, đồng
thời lại cũng vô biên, vô tận như một bầu trời vô hạn, bất khả phân và
tuyệt đối.»
[12]
Đã từ lâu tôi coi Luân Hồi, Giải Thoát như
là một hệ luận tất nhiên của Thuyết «Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể»,
với chủ trương «Nhất tán vạn, vạn qui Nhất», mà trong vòng mấy
chục năm nay tôi đã cố công trình bày, và khai triển. Tôi cũng cho rằng
học thuyết «Thiên địa vạn vật đồng nhất thể» này là chủ trương chính yếu
của thánh hiền kim cổ, thì Joseph Head và S. L. Cranston trong quyển
Reincarnation The Phoenix Fire Mystery, sau khi tổng hợp lại các mật
giáo đông, tây, kim cổ, đã viết nơi các trang 502, 503, đại khái như
sau:
Mật tông, mật giáo, và ngay cả Kabala cũng
chủ trương như Ấn giáo, Phật giáo rằng từ muôn thủa có một Bản Thể vô
hình danh, bất khả tư nghị, hằng cửu, nhưng có hai bề động tĩnh thường
xuyên đắp đổi. Đạo sĩ Manu gọi đó là "ngày" và "đêm" của Brahmâ. Brahmâ
như thể có thức có ngủ.
Khi động, khi bắt đầu thời kỳ phóng phát,
triển dương, thì từ lòng sâu Nguyên Thể thần linh đó, tung tỏa ra những
huyền năng, huyền lực vô biên. Những huyền năng đó được thi triển, và
tác động trên nhau, theo những định luật vĩnh cửu để cuối cùng sinh ra
cái vũ trụ hình tướng này.
Cũng như vậy, khi đến thời kỳ tĩnh, thì
Nguyên thể Thần Linh đó, như co lại, như thu hấp lại, và tất cả những gì
là vũ trụ hữu hình, hữu tướng này, dần dà sẽ tan biến đi, hóa giải hết
đi, và thu hút lại vào lòng Nguyên Thể.
Lúc ấy, vũ trụ tưởng chừng như lại hoang
vu, mù mịt...
Nếu dùng hai chữ Hô Hấp mà mô tả sự Thành,
Trụ, Hoại, Không kể trên, thì HÔ (thở ra) là sinh ra vũ trụ quần sinh;
mà HẤP (hít vào) là thu nhiếp vũ trụ quần sinh trở về lại lòng Bản thể.
Tiến trình này đã có như vậy từ thủa đời
đời; vũ trụ hữu hình hiện nay chẳng qua là như một mắt xích trong cái
giây xích vô biên tận ấy.
[13]
C. Tới đây tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng
tuy Đông và Tây hiện nay đã xích gần lại với nhau trong vấn đề luân hồi,
nhưng âu Mỹ hiện nay chỉ hiểu luân hồi là TÁI SINH (reincarnation), còn
Á Châu hiểu chữ Luân Hồi bao quát hơn. Đối với người Á Đông, con người
chết đi không cứ là sẽ đầu thai lại làm người, mà tùy nghi có thể thành
tiên, thành thần, hay có thể làm loài vật, làm ma quỉ. Khảo kỹ tín
ngưỡng dân gian, ta thấy con người sau khi chết không cứ sẽ tái sinh lại
nơi hạ giới, mà còn có thể lên trung giới, thượng giới.
Tất cả các kiếp trên tuy có thể lâu mau
khác nhau, nhưng không có gì là vĩnh cửu.
Cho nên tiên thánh cũng có thể GIÁNG TRẦN
hay GIÁNG PHÀM.
Danh nhân, danh sĩ có thể có TIỀN THÂN,
HẬU KIẾP. Tục truyền Lưu Bá ôn là hậu thân của Gia Cát Lượng.
Người thường có thể đi ĐẦU THAI.
Sâu bọ có thể LÊN LÀM NGƯỜI.
Con người có thể đọa xuống kiếp vật: Làm
thân trâu ngựa đền nghì trúc mai...
Từ kiếp dưới lên kiếp trên gọi là THOÁT
KIẾP.
Từ kiếp trên xuống kiếp dưới là bị Đọa hay
bị Trích. Vì thế có chữ TRÍCH TIÊN.
Từ kiếp này sang kiếp khác gọi là Hóa
Kiếp, hay Chuyển Kiếp (Transmigration).
Ngay đức Vishnu trong các tiền kiếp cũng
có những kiếp vật, như kiếp voi, kiếp cá, kiếp rùa. Người Ấn Độ tả lại
những chuyện ấy không hề có một mặc cảm gì.
Những từ ngữ tôi vừa dùng đó là những từ
ngữ của dân gian, chứ không phải là của tôi tạo ra.
Tôi vẫn mường tưởng như là muôn loài được
xếp loại như sau:
1. Theo tỉ trọng (density), càng khinh
thanh thì càng đi lên trên, càng trọng trọc thì càng sa xuống thấp.
Khinh thanh thì dễ cảm xúc, thì
«nhạy cảm»;
trọng trọc thì cứng rắn, khó lay lòng.
Tục ngữ có câu:
Quân tử ư hử thì đau,
Tiểu nhân vác đá đánh đầu như không.
2. Theo trình độ phát quang và tùy theo
màu sắc. Càng trong sáng thì càng lên trên, càng mờ đục thì càng sa
xuống thấp.
3. Tùy theo
«năng lực»,
tức là tùy theo trình độ mạnh yếu của cá thể, tùy theo những khả năng,
những tài năng sẵn có của cá thể. Chữ năng lực này cũng có thể hiểu là
ĐỨC, là ÂM ĐỨC. Âu Châu gọi đó là: VERTU, hay VIRTUE, hay VIRTUS. Tất cả
đều hàm nghĩa là 'năng lực', là 'khả năng'.
4. Theo bản chất. Nguyên chất là Tinh, tạp
chất là Thô. Nhất là Tinh; Vạn hay Đa Tạp, Bác Tạp là Thô.
Cho nên đạo Nho dạy TINH, NHẤT; Bà La Môn,
Phật dạy BẤT NHỊ PHÁP MÔN.
5. Theo vị trí có được trong vòng Đại Chu
Thiên. Càng Tinh thì càng gần tâm điểm, càng Tạp thì càng xa Tâm.
Vào được Tâm là Giải thoát.
Đạo Trung Dung tức là đạo dạy con người
trở lại được với TRUNG TÂM HAÈNG CỬU.
6. Tóm lại TRUNG, TINH, NHẤT tượng trưng
cho Hoàn Thiện, cho Lý tưởng. Bác tạp, ô trược là khiếm khuyết.
7. Theo hành động. Lành là những gì làm ơn
ích cho mọi loài; dữ là cái gì gây họa hại cho mọi loài.
8. Tùy theo Mê và Ngộ. Mê là ở trong Phân
Biệt, nghĩ mình tách rời Đại thể và quần sinh vũ trụ. Ngộ là đã có được
cái nhìn VÔ PHÂN BIỆT:
Ta và trời đất cùng sinh,
Ta và muôn vật sự tình chẳng hai.
(Trang tử, Nam Hoa Kinh, Tề vật
luận).
9. Chỉ có cái hồn biến thiên – cái tiểu
ngã – là đi đầu thai, hay chuyển kiếp.
– Cái xác sẽ tan rữa sau khi hồn lìa xác,
vì nó là «tứ đại giả hợp».
Thành phần đất, nước, gió (khí), lửa, sẽ
tùy nghi, tùy duyên mà nhập vào đất đai, vào cây cối, vào muông thú, vào
con người, và như vậy vẫn luôn luôn đóng góp vào tấn kịch đời thường
nhật diễn ra triền miên, bất tận.
– Đại Ngã, hay Thần thiêng, thời siêu xuất
Luân Hồi.
Tất cả những yếu tố trên là những tiêu
chuẩn có thể dùng để hiểu biết về luân hồi và giải thoát.
Để kết thúc chương này, tôi mượn lời thơ
Les Contemplations của Victor Hugo:
Kìa sinh khí chứa chan lai láng,
Rung lá cành, làm sáng cỏ hoa.
Tung hoành từ đá đến hoa,
Lại từ thảo mộc chuyển qua muông cầm.
Từ nham thạch chuyển dần tới bạn,
Có lẽ đâu tiêu tán nơi người.
Không, không, sinh khí chơi vơi,
Đường mây ai cản, đõöôøng trời ai ngăn?
Sức vô địch băng băng hướng thượng,
Tiến sâu vào vô lượng vô hình.
Làm cho tràn ngập thái thanh,
Một trời sáng quắc, treo tranh non
bồng.
Xán lạn với muôn thần, vạn thánh,
Ánh hào quang tạo cảnh dao trì.
Thần linh sánh với tiên tri,
Thiên thần rực rỡ quang huy trong
ngoài.
Sinh khí ấy láng lai vô tận,
Bắc thang sao, muôn dặm thiên thai.
Từ nơi ngạ quỉ, tuyền đài,
Tung lên cho tới muôn loài thần tiên.
Thấp với cao, tương liên kết giải,
Muôn thánh thần chắp nối duyên tơ.
Băng qua muôn triệu cõi bờ,
Nối liền sao sáng, cùng là trời mây.
Cao với thấp đó đây ở hết,
Từ biên khu tới miết trung tâm.
Băng chừng muôn dặm muôn tầm,
Rồi ra biến dạng vào tâm khảm Trời...
CHÚ THÍCH
[2] Daniel
Cohen, The Mysteries of Reincarnation, Dodd Mead & Co, New York,
1975, p.5.
[3] Xin xem
Joseph Head va S.L. Cranston, Reincarnation, The Phoenix Fire
Mystery, tr. 486.
Are there, then, two types of self in the
Pali Canon? Miss I.B. Horner, a pupil of Mrs. Rhys Davids and the
present President of the Pali Text Society, shows that this is so. In a
famous article reprinted in The Middle Way (Vol. 27, p. 76), she lists
some seventeen passages from the Pali Canon which make this clear. The
"lesser self" and "the greater self" are clearly distinguished, and the
"great self" is described as "a dweller in the immeasurable." But the
Dhammapada, the most famous text in the Canon, will itself suffice.
"Self is the lord of self. What other lord could there be?" And again,
"Self is the lord of self, and self's bourn," i.e. the very goal of all
endeavour. If it is possible to lift the Buddha teaching nearer still to
the Hindu original, look at: "The Self in thee knows what is true and
what is false." Every mystic since the world began would agree.
"If," Humphreys continues, "the Buddha,
then, taught Atta, as his brilliant predecessors in the field of Indian
thought, what did he say was Not- self, An- atta? He is quite specific.
It is the five skandhas, the constituents of personality in which there
is no permanent Self to be found...But the monks would not leave this
statement alone. Attacking the concept of the Atman as degraded in the
Buddha's day to a thing, the size of a thumb, in the human heart, they
swung too far. 'No self, no self' they cried, and in time produced the
joyless, cramping doctrine as drearily proclaimed today," especially in
Theravada Buddhism.
Elsewhere Humpreys concedes that the
attack of the Theravada monks, or Bhikkus, is legitimately "directed
against the concept of an unchanging individuality, a separate Self,
distinct from the vast totality of Life and its illimitable forms."
However, he adds, "the Bhikkus ignore the 'Unborn, Unoriginated,
Unformed' of their own Scriptures, as inherent in every manifested
thing." "Clearly the phenomenal self, whether called ego, shadow, or the
evolving soul, is changing all the time," but this does not mean "no
soul", no soul, no self at all."
Libro citato, tr.63 và 75- 76).
Cf.libro citato, p. 40. cf. Katha
Upanishad, dialogue between Nichiketas and Death.
...Two syllables are death; three
syllables the eternal Brahma. "Mine" (Mana) is death, and "not mine" (na
mana) is the eternal...
Ib. p. 50.
(Libro citato, p.354).
(Libro citato, p. 131. Isaac
Myer's Qabbalah, p. 413. (The Zohar ii, 99b, Sab- ah D'Mishpatim,
Brody edition, Cremena edition, ii. fol. 45a, col. 177- 78).
Joeph Head and S.L.
Cranston,Reincarnation, The Phoenix Fire Mystery, p. 131.
The disturbing fact, however, is that we
have lost sight of the distinction between our true self and the veil of
personality that is its present costume, but which will be laid aside
when the play is over. We have come completely under the fascination of
our present lines, unable to remember previous roles or to anticipate
future ones. The task is to correct this false identification. Turning
his awareness inward [man] must pierce and dissolve the innumerable
layers of the manifest personality until, all strata of the mask at
length cut through, he arrives finally at the anonymous actor who stand
beneath.
Never during its pilgrimage is the spirit
of man completely adrift and alone. From start to finish its nucleus is
the Atman - the self- luminous abiding point, "boundless as the sky,
indivisible, absolute," the only reality.
Ib. p. 14.
[13] The
esoteric doctrine teaches, like Buddhism and Brahmanism, and even the
Kabala, that one infinite and unkown Essence exists from all eternity,
and in regular and harmonious successions is either passive or active.
In the poetical phraseology of [the Hindu lawgiver] Manu these
conditions are called the "day'and the 'night" of Brahmâ. The latter is
either "awake" or "asleep"...Upon inaugurating an active period an
expansion of this Divine essence, from within outwardly, occurs in
obedience to eternal and immutable law, and the phenomenal or visible
universe is the ultimate result of the long chain of cosmical forces
thus progressively set in motion. In like manner, when the passive
condition is resumed, a contraction of the Divine essence takes place,
and the previous work of creation is gradually and progressively undone.
The visible universe becomes desintegrated, its material dispersed; and
"darkness," solitary and alone, broods once more over the face of the
"deep." To use a metaphor which will convey the idea still more clearly,
an outbreathing of the "unknown essence" produces the world; and an
inhalation causes it to disappear. This process has been going on from
the eternity, and our present universe is but one of an infinite series
which had no beginning and will have no end.
Ib. pp. 502- 503.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét