Chương 15
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
VỚI HOA NGHIÊM TÔNG
Toát lược thuyết Thiên
địa vạn vật đồng nhất thể
Các Thánh triết trong thiên hạ, xưa nay,
không phân đạo giáo, đều nhất luật chủ trương:
1. Con người có Bản Thể Trời, Đạo, Chân
Như.
2. Con người nếu biết đàng tu luyện, có
thể sống kết hợp nhất như với Trời, Đạo, Chân Như (Union Mystique avec
Dieu; Mystical union with God; Atonement = At one ment).
Họ chủ trương: Vũ trụ này đã từ một Đại
Thể (Trời, Chân Như, Đạo) phóng phát tán phân ra mà thành (emanation
theory), sẽ biến hóa đa đoan,, nhưng lúc chung cuộc, muôn loài lại
trở về với Đại thể trên (Apocastatasis).
Học thuyết này, Âu Châu gọi là thuyết
Phóng phát, Tán Phân (Emanation theory hay Monistic Theory).
Á Châu gọi là Thuyết Thiên Địa vạn vật
đồng nhất thể hay Nhất thể tán vạn thù, vạn thù qui nhất thể.
Kinh Dịch cũng chủ trương như vậy.
Vì một kiếp người không sao đủ để trở về
với Trời, với Chân Như, nên các triết gia theo chiều hướng trên, đều chủ
trương con người sẽ luân hồi, sẽ tái sinh.
Có điều chắc chắn là các triết gia có chủ
trương trên, bất kỳ thuộc tôn giáo nào, đều là những bậc thánh hiền đạo
cao, đức cả. Lời họ giảng dạy đều giống nhau. Mạnh tử viết: Tiên thánh,
hậu thánh kỳ quĩ nhất dã (Mạnh tử, Ly Lâu chương cú hạ, 1)
Ramakrishna viết: Thánh hiền sau trước đều
có những lời giảng dạy như nhau (Tous les sages ont un enseignement
unique. – L’enseignement de Ramakrishna, p. 256)
THUYẾT
THIÊN ĐỊA
VẠN
VẬT
ĐỒNG
NHẤT
THỂ
1. Vũ trụ hữu hình này là
do một toàn thể phóng phát tán phân ra.
2. Như vậy vạn hữu cùng
chung một Bản thể như nhau. Đồng căn, dị dạng, NHẤT THỂ VẠN THÙ.
3. Thượng đế, Chân Như
tiềm anå trong lòng quần sinh, vũ trụ
4. GIÁC NGỘ là biết rằng
mình có Bản thể Thượng đế, có Tính Trời, Tính Phật.
5. Tìm Đạo, tìm Trời, tìm
Phật phải tìm trong lòng mình.
6. Lúc chung cuộc, vạn vật
sẽ siêu thăng, trở về với Thượng Đế, với Chân Như. Như vậy chung cuộc là
hòa hợp.
7. Vũ trụ, con người, và
lịch sử sẽ biến hóa 2 chiều: vãng, lai; thuận, nghịch (Cyclical
conception of History)
HOA NGHIÊM TÔNG VỚI
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Tuy Đức Phật ít bàn đến Bản Thể vũ trụ,
nhưng sau này, các triết gia Phật giáo, nhất là Hoa Nghiêm tông, hay bàn
về vấn đề này và đã chủ trương Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất thể
Phật giáo đã có những thành ngữ như: Nhất
tức Nhất thiết; Nhất thiết tức Nhất; Một là Tất Cả, Tất Cả là Một. Triệu
Châu (778-897) có công án: Vạn pháp qui Nhất, Nhất qui hà xứ? Vạn Pháp
trở về Một; một trở về đâu? Một vị Thượng Tọa tôi quen, trả lời: Nhất
qui Bản Lai Diện Mục. Mà Bản Lai Diện Mục chính là Bản Thể của Vũ Trụ.
Hoa Nghiêm Tông là một tông phái Phật giáo
có từ đờì Đường, lấy kinh Hoa Nghiêm làm căn bản. Hoa Nghiêm là
bộ kinh Đại Thừa do Long Thọ Bồ Tát xuống Long Cung sao chép lại.
Sách truyền từ Ấn Độ sang Trung Hoa vào
năm 418, thời Đông Tấn.
LƯỢC SỬ CÁC TỔ HOA
NGHIÊM
1. Tổ đầu tiên là Đỗ
Thuận hay Pháp Thuận (557-640)
Ngài xuất gia năm 18 tuổi. Học trò thánh
tăng Đạo Trân. Ngài là một học giả nổi tiếng, Ngài còn được coi như là
một thuật sĩ. Tục truyền vua Đường Thái Tông đau bệnh lao nhiệt, mời
Ngài vào cung chữa bệnh. Ngài hứa chữa lành, nhưng xin nhà vua ân xá cho
toàn dân. Vua làm theo và khỏi bệnh. Sau đó phong Ngài là Đế Tâm tôn giả
(Người được vua quí trọng)
Ngài có bài tụng sau được coi như là một
công án:
Thanh châu ngưu ngật thảo,
Ích châu mã phúc chướng.
Thiên hạ mịch y nhân,
Cứu chư tả bác thượng.
Dịch:
Bò Thanh Châu ăn cỏ
Ngựa Ích Châu chướng bụng.
Thiên hạ tìm thày thuốc,
Cứu bắp chân trái heo.
Bài tụng này rõ ràng đưa ra tư tưởng: Lý
sự vô ngại của Hoa Nghiêm Tông.
Ngài viết quyển Hoa
Nghiêm Pháp giới quan môn và Vọng tận hoàn nguyên quan., Hoa
ghiêm Ngũ giáo chỉ quán, Hoa Nghiêm Nhất thừa Thập Huyền môn v,v...
Tục truyền khi Ngài viết xong quyển Hoa Nghiêm Pháp giới quan môn,
Ngài ném sách này vào lửa, với lời nguyện rằng: Nếu sách này, không có
gì sai lời Phật dạy, thì xin cho sách đừng bị cháy. Mà sách hoàn toàn
không bị cháy thật.
Người ta coi Ngài là Văn Thù Bồ Tát giáng
trần.
2.
Tổ 2 là Vân Hoa Trí Nghiễm (602-688)
Vân Hoa Trí Nghiễm Pháp sư hay Chí Tương
Tôn Giả, sinh vào năm Khai Hoàng 20. Khi thụ thai Ông, nhà ngát mùi
hương. Và sau này, Ông thông minh hơn người. Năm 12 tuổi, ngài Pháp
Thuận đến nhà Ông, xin đem về làm con. Cha mẹ Ông bằng lòng. Pháp Thuận
cho người dạy Ông kinh sách ngày đêm. Sau này Ông còn được mấy thày Bà
La Môn dạy cho tiếng Phạn. Ông rất thông kinh sách Phật giáo, nhưng
thường tự hỏi: Sách Phật như rừng vậy, phải học quyển nào? Ông đứng
trước Tam Tạng Kinh, khấn nguyện và rút ra một quyển. Đó là
Hoa Nghiêm kinh quyển 1. Ông liền tìm thày dạy Kinh Hoa Nghiêm.
Ông viết nhiều về Kinh Hoa Nghiêm, như Thập Huyền môn, (Cổ Huyền
môn), Lục Tướng, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm trung sưu huyền phân
tề thông trí phương quĩ, Hoa Nghiêm ngũ thập yếu vấn đáp, Hoa Nghiêm
Kinh nội chương môn đẳng tạp khổng mục chương v.v...
Trí Nghiễm rất tài hoa. Ông vẽ rất đẹp.
Nhờ Ông mà Hoa Nghiêm Tông phát triển rất mạnh. Ông mất năm 72 tuổi.
3.
Pháp Tạng Pháp Sư hay Hiền Thủ pháp Sư (643-712)
Pháp Tạng là Tổ 3, viết nhiều về Hoa
Nghiêm như Hoa Nghiêm Kinh thám huyền ký, Hoa Nghiêm Kinh văn nghĩa tổng
mục, Hoa Nghiêm kinh sách lâm, Hoa Nghiêm kinh vấn đáp, Hoa Nghiêm Kinh
nghĩa hải bách môn, Hoa Nghiêm Kinh quan mạch nghĩa ký, Hoa Nghiêm Du
Tâm Pháp Giới Ký, Hoa Nghiêm Tam Muội chương, Hoa Nghiêm phát Bồ Đề tâm
chương,Hoa Nghiêm thập chủng chỉ quán, Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền quán
hạnh pháp môn, Hoa Nghiêm Nhất thừa Giáo Nghĩa phân tề chương, Hoa
Nghiêm Kinh chỉ qui, Hoa Nghiêm Kinh minh pháp phẩm nội lập tam bảo
chương, Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ, vọng tận hoàn nguyên quan Hoa Nghiêm Kinh
kim sư tử chương chú v.v...
Ông được dân chúng gọi là
Hiền Thủ (Hiền sĩ số một), nhà vua phong ngài là Quốc Nhất Pháp Sư (The
Dharma Teacher Kou-I). Người ta còn coi Ngài như vị tổ sáng lập Hoa
Nghiêm Tông.
Năm 16 tuổi, chặt một ngón
tay cúng dường Phật. Năm 18 tuổi đi khắp nơi tìm thày dạy, nhưng không
gặp ai vừa ý. Ông liền ẩn tu nhiều năm. Sau nghe biết Ngài Trí Nghiễm
giảng kinh Hoa Nghiêm tại chùa Hoa Vân ở Kinh Thành, Ông tới xin làm đồ
đệ.
Năm 28 tuổi, Hoàng Đế Võ Tắc
Thiên mời Ông làm trụ trì một ngôi chùa Bà mới xây. Ngài được Hoàng đế
mời thuyết pháp nhiều lần. Ngài giảng về Thập Huyền Môn và Lục Tướng.
Trong đời Ngài, Ngài giảng kinh Pháp Hoa hơn 30 lần.
Pháp tạng mất năm 70 tuổi và được quốc
táng.
4. Trừng Quán Pháp Sư
(738-840)
Trừng Quán Pháp Sư
(738-840). Về năm sinh, năm tịch, của Pháp Sư Trừng Quán, ta thấy các
học giả khòng đồng ý nhau. Tuệ Sĩ, Takakusu cho ngài sinh và tịch khoảng
năm 760-820, nghĩa là sống có 60 năm. Garrna C.C. Chang, và Tuyên Hóa
Thiền Sư, Chùa Vạn Phật, dựa vào truyền thuyết, cho rằng ngài thọ 102
tuổi (538-840), sống qua 9 đời vua (Huyền Tông 712-755, Túc Tông
756-760, Đại Tông 761-719, Đức Tông 719-804, Thuận Tông 804, Huệ Tông
805-820, Mục Tông 821-824, Kính Tông 825, Văn Tông 827-840. Ngài được
phong là Thanh Lương Quốc Sư trong bảy đờì vua (Đại tông, Đức Tông,
Thuận Tông, Huệ Tông, Mục Tông, Kính Tông, Văn Tông) Tuy danh vọng thế,
nhưng ngài sống rất thánh thiện. Ngài lập Thập Nguyện, thề hứa luôn mặêc
đạo bào, tránh tuyệt nữ sắc v.v... Người ta coi Ngài là Hoa Nghiêm Bồ
Tát hóa thân.
Ngài viết nhiều sách như
Hoa Nghiêm Kinh sớ, Hoa Nghiêm Kinh tùy sớ diễn nghĩa sao, Hoa Nghiêm
Kinh sớ sao, Trinh Nguyên tân dịch Hoa Nghiêm Kinh sớ Hoa Nghiêm hạnh
nguyện sớ liệu, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm biệt hành sớ sao v.v... Năm
1979. Đài Bắc đã cho xuất bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
thiển thích của ngài ra tiếng Trung Hoa và Anh ngữ (Flower Adornment
Sutra Preface).
Ngài sinh sau Pháp Tạng 27 năm mà là Tứ Tổ
cũng lạ. Sở dĩ đươc như vậy là vì Trừng Quán bài bác dị thuyết của Huệ
Viễn, một đệ tử của Pháp Tạng, và tái lập lại giáo lý nguyên thủy của
tông phái.
5.
Khuê Phong, Tông Mật Thiền Sư (780-841)
Tông Mật vừa là Ngũ Tổ, vừa là Thiền Sư.
Ngài giảng kinh Viên Giác, và viết Hoa Nghiêm nguyên nhân luận.
Nhưng Ngài thua các Tổ trước.
Đến đời nhà Tống, Hoa Nghiêm nhận thêm Mã
Minh (Acvaghosha) và Long Thọ (Nagarjuna) làm tổ 6 và 7.
Hoa Nghiêm Tông truyền sang Nhật do Thẩm
Tường, đồ đệ của PhápTạng năm 740. Hiện nay tông này còn thịnh ở Nhật.[1]
Sơ lược kinh
Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka
Sutra hay Gandavyhasutra, do Ngài Long Thọ, sinh sau Đức Phật 600 năm,
xuống Long Cung sao chép đem về.
Nhưng cũng có người cho rằng, Ngài Mã Minh
đã soạn sách này 100 năm trước Long Thọ. Ngài Long Thọ chỉ san định lại
kinh này. Vì thế Hoa Nghiêm tông nhận cả 2 Ngài làm tổ.
Nguyên bản Hoa Nghiêm kinh gồm 48 phẩm với
100.000 ngàn bài Tụng,
Các bản dịch Hoa Nghiêm kinh:
1). Bản dịch đầu tiên (hay Cựu dịch) đời
Đông Tấn (317-419) do ngài Phật Đà Bạt Đà La (Bud -dhabhadra - Giác
Hiền), người Bắc Thiên Trúc dịch, gồm 60 quyển, 36 phẩm, 36.000 bài
tụng.
Bản này gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm, hay
Tấn Kinh, hay Cựu Kinh.
2). Bản 2 (hay tân dịch) đời nhà Đường
(618-607) do Ngài Thực Xoa Nan Đà (Giksananda-Hỷ Học), người nước Vu
Điền (Kotan) tái dịch bản cũ, gồm 80 quyển, 39 phẩm, 45.000 bài tụng,
tức là hơn quyển trên 9.000 bài tụng.
Bản này gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay
Đường kinh hay Tân kinh.
3). Bản ba cũng đời Đường do ngài Bát Nhã
nước Kế Tân (Kaboul), gồm 40 quyển, và dịch phẩm cốt yếu là Nhập Pháp
Giới (kể truyện Thiện Tài Đồng tử)
Bản này còn gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm.
Kinh Hoa Nghiêm được dịch ra Việt
Văn do Thích Trí Tịnh, năm 1965. Bản Hán Văn 80 quyển được xếp thành một
bộ 8 quyển, khoảng 5600 trang. Thật là vĩ đại. Đây chính là tứ thập Hoa
Nghiêm, gồm 40 phẩm.
Đại ý Hoa
Nghiêm
Hoa Nghiêm bàn về lẽ sinh thành ra vũ trụ
và cho rằng vũ trụ này là do một nguyên nhân sinh xuất ra. Nguyên nhân
đó là Chân Như, hay Phật tính, hay Lý như Hoa Nghiêm thường dùng. Lý ấy
sinh ra chúng sinh, vạn pháp, vạn sự.
Vì thế mới nói: Nhất tức nhất thiết (Một
là Tất Cả)
Nhất thiết tức Nhất. (Tất cả là Một)
Tất cả đều dung thông, tương nhiếp, đều
lồng vào nhau, không có gì ngăn ngại.(Nhất thiết pháp giới, hỗ tương
duyên khởi, trùng trùng vô tận, viên dung vô ngại) Vì thế nên nói:
1. Lý pháp giới (Pháp giới Chân Như tiềm
ẩn bên trong vạn hữu)
2. Sự Pháp giới (Vạn tượng, vạn hữu hiển
lộ bên ngoài.
3. Lý Sự vô ngại pháp giới. (Thế giới của
Lý và của Sự dung thông với nhau, không ngăn ngại nhau).
4. Sự sự vô ngại pháp giới (Hết thảy các
sự vật trong hiện tượng giới đều không ngăn ngại nhau.)
Trung Dung chương 30 có ý
tưởng tương tự. Trung Dung viết:
Đức Khổng nối tiếp đạo Thuấn, Nghiêu,
Làm sáng tỏ lối đường Văn, Võ.
Trên thuận thiên thời, dưới theo thủy
thổ,
Như đất trời bát ngát, bao la,
Che chở muôn loài khắp gần xa.
Như tứ thời luân lưu chuyển động,
Như nhật nguyệt hai vừng chiếu rạng.
Muôn loài cùng chung sống chẳng hại
nhau,
Đi một chiều, chẳng phản bội chi đâu,
Tiểu đức như sông ngòi dinh dưỡng,
Đại đức luôn hóa sinh, tăng trưởng,
Phép tắc Trời cao cả xiết bao!
Tôi nghĩ rằng nói Lý Sự vô ngại rất đúng.
Ví như tôi ở trong tỉnh Westminster này, thì nào có thêm bớt, tăng giảm
gì đối với thành phố này đâu?
Đối với Hoa Nghiêm kinh không gian và thời
gian dung thông vô ngại.
Không gian dung thông vô ngại, Kinh văn
nói:
Vô lượng vô số núi Tu Di,
Đều đem để vào một sợi lông,
Một thế giới để vào tất cả,
Tất cả thế giới để vào một.
Thể tướng thế giới vẫn như cũ,
Vô đẳng, vô lượng đều cùng khắp.
Trong một chân lông đều thấy rõ,
Vô số vô lượng chư Như Lai,
Tất cả chân lông đều thế cả...
Thời gian dung thông vô ngại, Kinh văn
viết:
Kiếp quá khứ để hiện, vị lai,
Kiếp vị lai để quá, hiện tại,
Ba đời, nhiều kiếp là một niệm,
Chẳng phải dài vắn: Hạnh giải thoát.
Về thời gian và không gian dung thông vô
ngại, Kinh văn viết:
Khắp hết mười phương các cõi nước,
Mỗi đầu lông có đủ ba đời
Phật cùng quốc độ vô số lượng,
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp,
Trong một niệm tôi thấy ba đời...
(Xem Kinh Hoa Nghiêm, Lời nói đầu,
Thích Trí Tịnh,)
Việt Nam có những câu tương tự:
Càn khôn rút lại đầu lông xíu,
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
(Càn Khôn tận thị mao đầu thượng,
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung). ( Một
Thiền sư đời Lý)
Hay:
Người đời ngắm lại mà hay,
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê. (Tản
Đà)
Cái lý tương dung, tương nhiếp này đã được
Đại Sư Pháp Tạng chứng minh cho Hoàng Đế Võ Tắc Thiên xem vào khoảng năm
700.
Võ Tắc Thiên yêu cầu Ngài Pháp Tạng chứng
minh cho thấy thế nào là Lý sự vô ngại, Sự sự vô ngại, Pháp Tạng nhận
lời.
Vài ngày sau, Pháp Tạng mời Hoàng đế tới
xem cách Ông chứng minh. Ông mời Hoàng đế vào một buồng mà chỗ nào cũng
mắc kính: Trần nhà, sàn nhà, trên bốn bức tường, nơi bốn góc nhà thập
phương đều treo những tấm gương lớn. Các gương đều quay vào nhau. Rồi
Pháp Tạng để một tượng Phật ở chính giữa buồng, với một ngọn đuốc bên
cạnh tượng
Hoàng đế la lên: Thật là lạ lùng, thật là
kỳ diệu, khi bà nhìn thấy các gương phản chiếu lẫn nhau, trùng trùng,
điệp điệp.
Và Pháp Tạng nói: Thưa Bệ Hạ, đây là một
chứng minh về toàn thể Pháp Giới.
Trong mỗi tấm gương trong phòng này, Bệ Hạ
thấy phản chiếu lại các gương khác, với hình đức Phật trong đó. Và gương
nào cũng phản chiếu lại trung thực như vậy. Cho thấy tất cả đều dung
thông, dung nhiếp lẫn nhau. Một là tất cả, tất cả là một. Cái lý Trùng
trùng duyên khởi cũng được chứng minh...
[2]
Ta nên nhớ Võ Hậu dù sao cũng là người đã
cho thỉnh kinh HoaNghiêm từ nước Vu Điền (Turkestan) về, và đã cho dịch
bộ kinh này ra, dưới quyền điều khiển của Ngài Thực Xoa Nan Đà
(Giksananda, Hỷ Học). Sách dịch xong vào tháng 10 năm 699.
[3]
Tôi nghĩ không phải Pháp Tạng đã tự nghĩ
ra được phương pháp xếp gương trên, mà thực sự, đã phỏng theo thí dụ về
Đế Võng, hay Đế Thích Võng, hay Ân Đà La Võng (Indra’net) nói trong kinh
Hoa Nghiêm.
Đế Võng là một chiếc Bảo Võng, treo trên
nóc điện Đế Thích, có muôn vàn châu ngọc, phản chiếu lẫn nhau, trùng
trùng vô tận. Hoa Nghiêm chư sư dùng Đế Thích Võng để ví dụ Nhất tâm
sinh Vạn Tâm, và chư pháp trùng trùng duyên khởi.[4]
Kinh Hoa Nghiêm quảng diễn tư tưởng trên.
Hoa Nghiêm là Tràng Hoa.
Kinh này thuyết minh Chân Lý, mà Chân Lý
là Đạo, là Tuyệt Đối, ly ngôn tuyệt tướng, nên phải dùng một hình ảnh mà
diễn tả: Hình ảnh đó là một tràng hoa gồm nhiều thứ hoa, để trang nghiêm
Phật Quốc. Hoa có nhiều loại, có muôn hình tướng khác nhau, tượng trưng
cho VẠN VẬT. Nhưng hoa được xâu lại thành một Tràng Hoa dài, trang hoàng
nơi Phật thuyếp pháp. Tràng Hoa tượng trung cho một cái gì chung cho
muôn loài, đó là Bản Thể, là Lý, là Lý Tánh, là Chân Như.
Riêng tên Kinh đã diễn tả rõ ràng cái Chân
Lý tuyệt vời: Tướng hay Sự thì nhiều và sai khác, nhưng Thể hay Lý chỉ
có Một Tuy Tướng không phải Thể, nhưng rời Tướng thì không tìm thấy Thể.
Lìa các bông Hoa thì không tìm thấy tràng hoa. Động đến tràng hoa là
động đến các bông hoa. Chạm đến một bông hoa là ảnh hưởng đến tất cả
tràng hoa. Ý muốn nói rằng: Toàn thể Pháp Giởi vũ trụ là MỘT, CHÂN và
BÌNH ĐẲNG (The Universe is One and real and identical to itself). MỘT LÀ
TẤT CẢ, TẤT CẢ LÀ MỘT. Phật và Chúng Sinh không khác, đều có đồng một
Bản Thể Chân Tâm. Khi nào giác thì là Phật, còn mê là Chúng Sinh. Đó là
lý: VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ.
Đã là MỘT, thì Vạn vật đều liên quan mật
thiết với nhau, dính chùm với nhau. Chính vì thế mọi người đều liên quan
mật thiết với nhau, không thể sống lẻ loi, chia rẽ được. Ta là Người,
Người là Ta, nên Phật Giáo luôn dạy mọi người Từ Bi Chính vì thế mà các
hàng Bồ Tát luôn xả thân cứu độ chúng sinh.[5]
Thủ Lăng Nghiêm
quyển 3 có câu:
Như nhất chúng sinh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn.
(Như một chúng sinh chưa thành Phật,
Chúng tôi nguyện chẳng nhập Niết Bàn.)
Hoa Nghiêm Kinh dạy con người sống
hết sức đẹp đẽ:
Có tâm từ muốn che chở chúng sinh,
Có tâm từ muốn làm ích chúng sinh.
Lòng rộng mở, yêu thương và khoan dung.
Lòng vô ngại, không làm trở ngại ai.
Lòng bao la, tràn ngập vũ trụ,
Lòng vô biên, rộng rãi tựa không gian,
Lòng thanh tịnh có trí huệ và công phu ba
kiếp.
(A great compassionate Heart, which longs
to protect all,
A great loving heart, which longs to
benefits all beings,
An understanding heart, which breeds
sympathy and tolerance,
A free heart which longs to remove
obstructions from others,
A heart which fills the universe,
A heart endless and vast as space.
A pure heart which conforms to the wisdom
and merits of the past, the present and the future...
[6]
Cuối bộ Hoa Nghiêm có kể truyện Thiện Tài
Đồng tử đi học đạo Bồ tát với 53 cao tăng, cư sĩ. Trước là để Phát tâm
bồ đề, sau là để cầu Thiện trí thức.
[7]
Kinh Hoa Nghiêm đã được Thiền Sư
Tuyên Hóa giảng dạy bằng tiếng Anh, tại Chùa Vạn Phật, bắt đầu ngày 13
tháng 6, 1971, kéo dài 1 năm rưỡi.
[8]
Hằng Thiệt Pháp Sư, năm 1976, trong khi
Tam Bộ Nhất Bái từ Pasadena lên chùa Vạn Phật, cũng trì tụng kinh này
trong thời gian ấy.
[9]
Các tổ Hoa Nghiêm trì tụng kinh này suốt
đời. Cụ Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng giảng kinh này tại Chùa Liên Hoa
trong vòng 5 năm rưỡi. Hòa thượng Thích Thanh Từ giảng kinh này bằng 60
tapes. Thật là những vị đáng kính phục!
Tóm tắt học thuyết Hoa Nghiêm: Bao giờ tư
tưởng và lời lành của Phật cũng sáng ra và dội ra các nơi trong mọi vật
cho đến trong hạt cát nhỏ nhất. Vạn vật ở thế gian đều ăn chịu và tiếp
ứng với nhau, đồng soi sáng cho nhau. Phật với người đồng một tánh Chân
Như. Phật quyết đưa về cõi Giác tất cả loài người, bao giờ còn một sinh
mạng phải cứu vớt, thì lòng Phật chưa yên.[10]
Vĩ đại thay là con người.
Ta và Phật là Một.
Ta và chúng sinh là một.
Ta và vũ trụ là một.
Ta phải học hỏi để mở mang Trí Huệ.(Trí)
Ta phải tu thân để mở rộng Từ Bi Tâm. (Bi)
Ta phải Tinh Tiến (tiến hóa) để tăng Uy
Dũng.(Dũng)
Tiên giác, giác hậu giác!
Niết Bàn là Thái Cực, là Chân Như trường
tồn, bất biến. Niết Bàn là toàn bích, toàn thể, là tuyệt đối, là căn cơ.
Luân hồi là Âm Dương là Vạn Pháp ảo hóa,
biến thiên. Luân Hồi là chi tiết, ngọn ngành, là tương đối.
Hãy bỏ biến thiên để trở về Bất Biến.
Hãy bỏ tương đối về với Tuyệt đối.
Hãy bỏ ngọn ngành về với căn cơ.
CHÚ THÍCH
[1] Xem The
Buddhist Teaching of Totality, The Philosophy of Hwa Yen Buddhism, Garma
C.C. Chang pp. 231-240; Thực Dụng Phật Học Từ Điển, tr. 1474-1476);
Flower Adornment Sutra, Preface, Tripitaka Master Hua 16- 47.
[2] The
Buddhist teaching of Totality,The Philosophy of Hoa Nghiêm Philosophy,
Garma C. C. Chang, p. 23-24.
[3] Xem sách
trích dẫn trên, trang 22.
[4] Xem
Thực dụng Phật Học từ điển, tr. 1031-1032, và 649. Xem Indra’net
trong The Philosophy of Totality, Gamma C.C. Chang, pp, 156,
165-166, 224, 229.
[5] Tìm
hiểu Kinh Hoa Nghiêm, Minh Lạc Vũ Văn Phường, tr. 9-10.
[6] Xem The
Buddhist Teaching of Totality, Garma C.C. Chang, pp. 26-27.
[7] Xem phần
tóm tắt quyển Bồ tát đạo, trong Toát lược triết lý kinh Hoa
Nghiêm và Bồ tát đạo, Minh Đức Thanh Lương, tr. 45-118.
[8] Xem
Flower adornment Sutra, Preface, p. 15, và phần Hán văn ở nửa sau,
tr. 9.
[9] Xem Đại
Phương đẳng Phật Hoa Nghiêm kinh thiển thích, tr. 13.
[10] Xem Các
Tông phái Đạo Phật, Đoàn Trung Còn, tr. 46.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét