Yếu chỉ pháp trì danh niệm Phật và Kệ gia hạnh tu trì
Tác Giả Long Thọ Bồ Tát
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Giảng Giải
Khi hạ
thủ công phu ở nơi một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay
là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho được vừa chừng không quá mau (không gấp),
không quá chậm (không hườn) là niệm cho đều đặ
n.
Kế đó là
mình phải giử làm sao cho cái tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của mình
phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là cái tâm phải duyên theo tiếng, cái tiếng
phải nằm ở trong tâm, không để cho nó xao lãng theo một tiếng gì khác
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Tin sâu - Nguyện thiết - Hạnh Chuyên
Nam Mô A Di Đà Phật!
Không gấp cũng không hườn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
Nhiếp tâm là định học
Nhận rõ chính huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng phẩm
----------o0o----------
KỆ NIỆM PHẬT
(Hạ thủ công phu)
MỘT CÂU A DI ĐÀ PHẬT
KHÔNG GẤP CŨNG KHÔNG HƯỜN
TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU
THƯỜNG NIỆM CHO RÀNH RÕ
Khi hạ thủ công phu ở nơi một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho được vừa chừng không quá mau (không gấp), không quá chậm (không hườn) là niệm cho đều đặn. Kế đó là mình phải giử làm sao cho cái tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của mình phải hiệp khắn nhau.
Không gấp cũng không hườn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
Nhiếp tâm là định học
Nhận rõ chính huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng phẩm
----------o0o----------
KỆ NIỆM PHẬT
(Hạ thủ công phu)
MỘT CÂU A DI ĐÀ PHẬT
KHÔNG GẤP CŨNG KHÔNG HƯỜN
TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU
THƯỜNG NIỆM CHO RÀNH RÕ
Khi hạ thủ công phu ở nơi một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho được vừa chừng không quá mau (không gấp), không quá chậm (không hườn) là niệm cho đều đặn. Kế đó là mình phải giử làm sao cho cái tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của mình phải hiệp khắn nhau.
Nghĩa là
cái tâm phải duyên theo tiếng, cái tiếng phải nằm ở trong tâm, không để
cho nó xao lãng theo một tiếng gì khác, hể nó thoạt mà rời đi thì mình
phải nhiếp kéo nó trở lại liền đặng cho nó trụ nơi cái tiếng, như vậy
gọi là “TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU” nghĩa là cái tâm và cái tiếng không
khi nào rời nhau, mà tâm và tiếng không khi nào rời nhau đó mới gọi là
thiết thiệt niệm Phật, chớ nếu trong lúc mình niệm Phật mà mình lại
tưởng niệm những việc khác đó là mình niệm việc khác, nhớ việc khác, chớ
đâu phải là thiệt niệm Phật. Nếu là thiệt niệm Phật thì trong tâm mình
chỉ nhớ và tưởng Phật mà thôi.
Bây giờ
mình niệm Phật , danh hiệu Phật, tất nhiên là mình nhớ và tưởng lấy ở
nơi cái tiếng niệm Phật, cái hiệu của Phật, như vậy mới gọi là thiết
thiệt niệm Phật. Thành ra mình làm cái gì cũng phải cho thiết thiệt
trúng cái đó, chớ nếu sai đi, tất nhiên khó có thể thành công được, do
đó mới có câu “TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU.” Nên nhớ kỹ lắm mới được, khi
niệm Phật phải nhớ câu đó và phải làm cho đúng theo mới có lợi lạc. Nếu
được tâm tiếng hiệp khắn nhau như vậy mới gọi là niệm đúng cách và thiết
thiệt.
Giờ đây phải “THƯỜNG NIỆM CHO RÀNH RÕ.” Tâm tiếng hiệp khắn nhau rồi, nhưng phải để ý cho nó rành, rành là rành rẽ, tức là từ tiếng, từ câu không có lộn lạo, còn rõ là rõ rành, hể Nam là rõ tiếng Nam, Mô là rõ tiếng Mô, A là rõ tiếng A cho đến Phật thì Phật cái tiếng không trại đi, phải cho thật rõ, vì điều này rất cần lắm, chớ nếu mình niệm mà không nhận cho rành rẽ và rõ ràng, niệm một cách bơ thờ, về sau khi công phu được thuần thục, mà khi thuần rồi, cái niệm trong tâm nó tự nổi lên cũng không rành rỏ, nó hơi trại đi, chớ nếu lúc nào mình cũng giữ cho rành rõ, thì khi thuần thục trong tâm mình nó cũng nổi lên cái tiếng niệm Phật rõ lắm, điều nầy rất quan trọng, nên nhớ chữ “THƯỜNG” nếu muốn được cái tâm mà về sau, nó tự niệm lấy nó, không cần mình phải ép buộc nó mới niệm--phải thường—nghĩa là luôn luôn mình phải niệm cho thật nhiều giờ và thời gian cho được tương tục gọi là thường, chớ nếu trong một ngày, một đêm mà mình chỉ có niệm một hai tiếng đồng hồ thôi, còn 22 tiếng kia mình lại nghĩ việc tào tạp thì biết bao giờ tâm mình mới thuần thục được.
Mình phải
tập cho nó niệm luôn luôn lâu ngày thành thói quen--tập quán—nhưng bây
giờ mình bận đủ các công việc đâu phải như các vị rãnh rang (cấm túc),
kiết thất hay là tịnh niệm, tịnh khẩu chẳng hạn, vậy mình phải làm sao
đây? Tất nhiên trong lúc đi đứng nằm ngồi và lúc rãnh cũng bắt cái tâm
mình nó niệm Phật, trừ khi nào tâm mình bắt buộc phải chú trọng đến
những công việc gì khác, xong rồi, phải nhớ niệm Phật lại.
Như lúc
mình mặc áo mình cũng vẫn niệm Phật được, đi ngoài đường cũng vẫn niệm
Phật được, bởi vì lúc đó cái tâm có thể rảnh để Niệm Phật, như vậy lúc
mình ngồi ăn cơm cũng niệm Phật được, hoặc lúc mình nằm nghĩ, chứ không
phải chỉ niệm phật lúc mình ở trước bàn thờ Phật, có chuông, có mỏ, quỳ
nơi đó, nếu chỉ có như vậy thì khó thuần thục, khó thành thói quen. Về
công hạnh niệm Phật điều đó cần phải nhớ lắm mới được.
NHIẾP TÂM LÀ ĐỊNH HỌC
NHẬN RÕ CHÍNH HUỆ HỌC
CHÁNH NIỆM TRỪ VỌNG HOẶC
GIỚI THỂ ĐỒNG THỜI ĐỦ
Trong một câu niệm Phật, mình gồm cả ba môn “Vô lậu học” mà các đệ tử của Phật cần phải thật hành là “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.” Như vậy trong câu niệm Phật mà đang thật hành đó nó tương ứng với: GIỚI, ĐỊNH, HUỆ là như thế nào? Đáng lẽ thì bài kệ phải nói là GIỚI trước rồi mới đến ĐỊNH và HUỆ, nhưng vì rằng phải theo việc trình bày, thành ra phải để GIỚI về sau.
NHIẾP TÂM LÀ ĐỊNH HỌC
NHẬN RÕ CHÍNH HUỆ HỌC
CHÁNH NIỆM TRỪ VỌNG HOẶC
GIỚI THỂ ĐỒNG THỜI ĐỦ
Trong một câu niệm Phật, mình gồm cả ba môn “Vô lậu học” mà các đệ tử của Phật cần phải thật hành là “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.” Như vậy trong câu niệm Phật mà đang thật hành đó nó tương ứng với: GIỚI, ĐỊNH, HUỆ là như thế nào? Đáng lẽ thì bài kệ phải nói là GIỚI trước rồi mới đến ĐỊNH và HUỆ, nhưng vì rằng phải theo việc trình bày, thành ra phải để GIỚI về sau.
Trước hết
là mình nhiếp tâm niệm Phật, không nghĩ việc gì khác, tâm mình trụ nơi
câu niệm Phật thôi, thì đó mình học về môn ĐỊNH. Đây nói là mình học về
môn ĐỊNH chớ không phải là mình được ĐỊNH, nhưng mình đã học môn định
thì tương ứng với ĐỊNH thì một ngày kia mình sẻ được ĐỊNH. Đó là môn “Vô
lậu học” thứ nhất, gọi là “ĐỊNH HỌC.” Kế đó, trong lúc mình niệm Phật
thì tâm và tiếng hiệp khắn với nhau, mình lại nhận rõ ràng và rành rẽ
tất nhiên trong lúc đó cái tâm mình nó sáng, nó có sáng mới nhận được
rành rẽ và rõ ràng, chớ nếu nó không sáng thì làm sao nhận được rành rõ.
Cái sáng
đó nó tương ứng với HUỆ, đây là môn “Vô lâu học”, thứ hai gọi rằng “HUỆ
HỌC”. Và trong lúc mình niệm Phật thì không có những vọng tưởng, đó là
chánh niệm. Đã chánh niệm, không vọng tưởng tất nhiên không có những sự
lỗi lầm và tương ứng với GIỚI, đây là môn “Vô lậu học” thứ ba gọi rằng
môn học về GIỚI. Đó là từ dưới đi lên trên, hay là bắt từ trên trở xuống
dưới thì nhiếp tâm thuộc về ĐỊNH HỌC, tâm mình nhận rành rẽ và rõ ràng
đối với câu niệm Phật là tâm sáng, tương ứng với HUỆ HỌC và vọng niệm
không khởi, chánh niệm hiện tiền không có sự lỗi lầm trong lúc niệm Phật
tất là tương ứng với GIỚI.
Như vậy
trong lúc mình thực hành một câu niệm Phật đủ cả ba môn Vô lậu học
(GIỚI, ĐỊNH, HUỆ), mà đã tương ứng với Giới, Định, Huệ rồi một ngày kia
khi mà câu niệm Phật được thuần, tất nhiên là mình thành tựu được một
lượt cả ba môn Vô Lậu Học, và mình thấy trong hiền đời đã có sự lợi ích
rất lớn là mình được cái sư điều nhiếp thân tâm đi vào nới pháp lành,
tương ứng với ba môn Vô Lậu Học là ba điều mà đức Phật dạy: Hễ đệ tử
Phật, dầu xuất gia hay tại gia đều phải tu và trong tương lai, tất nhiên
là nhờ ở nơi tịnh nghiệp mình tu hành đó, sẽ được vãng sanh về Cực Lạc
Thế Giới, bảo đảm sự giải thoát thẳng đến thành Phật không thối chuyển.
Như vậy,
pháp môn “NIỆM PHẬT” nếu mình suy nghĩ kỹ lợi ích biết chừng nao, cần
phải noi theo và thực hành cho đúng và phải cố gắng khuyên những người
có duyên với mình đều phải TIN, phải NGUYỆN và THỰC HÀNH như mình để cho
mình cùng tất cả mọi người đều được lợi ích nơi pháp môn Tịnh Độ, niệm
Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy và
đúng theo bản hoài của Ngài là muốn cho tất cả chúng sanh đều được thành
Phật.
TÓM LẠI: Mấy câu kệ trên nói về nơi hạ thủ công phu ở một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho vừa chừng, không quá mau gọi là không gấp, không quá chậm gọi là không hườn, và nơi đó phải nhiếp tâm theo cái tiếng niệm Phật, tâm với tiếng đi đôi với nhau gọi là tâm tiếng hiệp khắn với nhau.
TÓM LẠI: Mấy câu kệ trên nói về nơi hạ thủ công phu ở một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho vừa chừng, không quá mau gọi là không gấp, không quá chậm gọi là không hườn, và nơi đó phải nhiếp tâm theo cái tiếng niệm Phật, tâm với tiếng đi đôi với nhau gọi là tâm tiếng hiệp khắn với nhau.
Phải niệm
cho được nhiều giờ trong ngày đêm. Khi niệm cái tiếng phải cho rõ ràng,
nhận cho rành rỏ, nên gọi rằng thường niệm cho rành rõ, kế đó mới hiệp
câu niệm Phật của mình cho tương ứng với ba môn “Vô Lậu Học” Giới, Định
và Huệ. Khi mình niệm thì nhiếp tâm, không cho tán tâm, trụ nơi cái
tiếng niệm Phật, như vậy gọi rằng tâm duyên nơi một cảnh, nghĩa là cái
tâm ở một cảnh hồng danh của đức Phật, đó tất nhiên học về môn Định và
khi niệm đó thì cái trí rất sáng, nhận cái tiếng niệm Phật rõ ràng, từng
câu rành rẻ. Cái trí sáng đó tất nhiên đã tương ứng với môn Huệ Học thì
lần lần TRÍ HUỆ PHÁT.
Trong khi mình niệm Phật thì nhiếp tâm nơi chánh niệm, vọng niệm không xen vô, mà vọng niệm không có thì tất nhiên những lỗi lầm không có, vì bao nhiêu những tội nghiệp lỗi lầm đều ở nơi vọng tâm phân biệt mà ra. Nay vọng tâm không có, trụ tâm ở chánh niệm, thì như vậy những lỗi lầm không có, mà giới là chi? Tức nhiên là để ngăn, không cho ở nơi thân khẩu ý tạo tội lỗi.
Trong khi mình niệm Phật thì nhiếp tâm nơi chánh niệm, vọng niệm không xen vô, mà vọng niệm không có thì tất nhiên những lỗi lầm không có, vì bao nhiêu những tội nghiệp lỗi lầm đều ở nơi vọng tâm phân biệt mà ra. Nay vọng tâm không có, trụ tâm ở chánh niệm, thì như vậy những lỗi lầm không có, mà giới là chi? Tức nhiên là để ngăn, không cho ở nơi thân khẩu ý tạo tội lỗi.
Giờ đây
thân khẩu ý trụ nơi câu niệm Phật là chánh niệm không có những tội lỗi,
thì đó là tương ứng với Giới. Như vậy, trong một câu niệm Phật, lúc mình
chuyên tâm đúng cách thì đầy đủ cả Giới Học, Định Học và Huệ Học. Khi
Giới, Định và Huệ mà phát ra thành tựu, cái đó là chứng quả thánh. Giờ
đây mới tiếp tục để tiến lần thêm ở nơi cái phần niệm Phật cho nó được
nơi Sự Tam Muội hay Lý Tam Muội, tức là chánh định niệm Phật về SỰ và
chánh định niệm Phật về LÝ.
Theo đúng
như trong kinh nói: Người niệm Phật mà được ở nơi cái Sư Tam Muội,
chánh định về sự thì khi lâm chung, chắc chắn vãng sanh. Vãng sanh rồi
tất nhiên không mất nơi cái phần Trung Phẩm, mà nếu được gồm lý niệm
Phật nữa thì khi vãng sanh không mất phần Thượng phẩm. Thượng Phẩm tức
là BẬT ĐẠI BỒ TÁT, Trung Phẩm tức là ngang hàng Thánh của Nhị Thừa,
thành ra không phải bực thường được. Đây theo nơi bài kệ để tuần tự
giảng giải quí đạo hữu nên nghe kỹ và cố gắng để mình đi được bước nào
thì được bước nấy.
NIỆM LỰC ĐƯỢC TƯƠNG TỤC
ĐÚNG NGHĨA CHẤP TRÌ DANH
NHẤT TÂM PHẬT HIỆN TIỀN
TAM MUỘI SỰ THÀNH TỰU
Khi niệm Phật nhiếp tâm đúng cách như vậy rồi, niệm mỗi ngày mỗi đêm, niệm được nhiều giờ, nhiều thời gian gọi rằng thường niệm, đã thường niệm rồi trải qua một thời gian tức nhiền cái tâm được thuần thục. Khi tâm được thuần thục rồi thì nó có cái trớn niệm Phật nơi tâm. Lúc đó thì không cần phải tác ý, không cần phải dụng công, nhưng nơi tâm vẫn cứ tiếp tục nổi lên tiếng niệm Phật.
NIỆM LỰC ĐƯỢC TƯƠNG TỤC
ĐÚNG NGHĨA CHẤP TRÌ DANH
NHẤT TÂM PHẬT HIỆN TIỀN
TAM MUỘI SỰ THÀNH TỰU
Khi niệm Phật nhiếp tâm đúng cách như vậy rồi, niệm mỗi ngày mỗi đêm, niệm được nhiều giờ, nhiều thời gian gọi rằng thường niệm, đã thường niệm rồi trải qua một thời gian tức nhiền cái tâm được thuần thục. Khi tâm được thuần thục rồi thì nó có cái trớn niệm Phật nơi tâm. Lúc đó thì không cần phải tác ý, không cần phải dụng công, nhưng nơi tâm vẫn cứ tiếp tục nổi lên tiếng niệm Phật.
Nhớ kỹ là
cái tâm nổi lên tiếng niệm Phật, như vậy đó, nó không có gián đoạn
nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng nhận thấy rằng tâm mình nó vẫn có
cái tiếng niệm Phật, không cần phải dụng công tác ý gì hết, đó gọi rằng
là được niệm lực tương tục, nghĩa là cái sức chánh niệm nối tiếp, cho
nên biết rằng cái lúc mà mình tác ý dụng công thì mình phải cố gắng lắm
cái tâm mới chịu duyên theo ở nơi cái tiếng niệm Phật, mà rồi thật ra
trong lúc đó tâm nó có nhiều khi, ở nơi mình, cái miệng thì có niệm
Phật, cái tiếng có phát ra mà cái tâm nhiều khi nó nhận câu thứ nhất,
câu thứ nhì nó lơ là hay là ở trong câu niệm Phật đó nó nhận tiếng Phật
tiếng A gì đó, mà tiếng Nam, tiếng Mô nó lơ là, còn giờ đây cái tâm tự
động nó niệm Phật do sau khi mình niệm Phật được thường lâu ngày nó
thuần thục, nói lâu ngày đây, chớ cái trình độ này có người chỉ trong
một ngày đêm có thể được, nếu căn trí lanh lợi và tinh tấn.
Có người
chừng bảy ngày đã được rồi, còn người niệm Phật không được thường lắm
thì phải thành ra lâu. Nếu được cái sức niệm ở nơi tâm tự động nó niệm
gọi là BẤT NIỆM TỰ NIỆM đó thì được cái chánh niệm nối tiếp luôn kêu là
NIỆM LỰC ĐƯỢC TƯƠNG TỤC, thì đó mới đúng nơi cái nghĩa CHẤP TRÌ DANH
HIỆU mà trong kinh Di Đà các đạo hữu thường tụng đó.
Thường thường người tụng kinh Di Đà ít có để ý, bởi vì lời Phật nói ra không phải là cái thông thường, mình phải cần để ý lắm. Hễ phật nói nhất tâm thì nhất định là cái tâm phải chuyên nhất thôi, không được xen gì hết mới gọi là nhất tâm, còn Phật nói nhất niệm thì tất nhiên cái niệm phải cột nó lại một chỗ mới gọi là nhất niệm.
Thường thường người tụng kinh Di Đà ít có để ý, bởi vì lời Phật nói ra không phải là cái thông thường, mình phải cần để ý lắm. Hễ phật nói nhất tâm thì nhất định là cái tâm phải chuyên nhất thôi, không được xen gì hết mới gọi là nhất tâm, còn Phật nói nhất niệm thì tất nhiên cái niệm phải cột nó lại một chỗ mới gọi là nhất niệm.
Giờ đây
Phật nói rằng chấp trì danh hiệu thì tất nhiên ở nơi danh hiệu đức Phật,
nơi hồng danh đức Phật A Di Đà hay Nam Mô A Di Đà Phật thì phải nắm cầm
cho chắc, nắm cầm đó là cái tâm nắm cầm cho chắc không lúc nào rời và
không để cho cái gì xen tạp vô, như vậy gọi rằng cái tâm nó chỉ nắm cầm
hay là giữ chắc không rời câu niệm Phật, mới gọi là niệm Phật tương tục,
dù không niệm cái tâm nó vẫn tự niệm, nói gọn lại là bất niệm tự niệm
và cái chánh niệm đó được nối tiếp gọi là tượng tục. Đó mới thiệt là cái
nghĩa chấp trì danh hiệu ở trong kinh Di Đà. Nên cuối câu kệ gọi rằng:
Niệm lực được tương tục. Đúng nghĩa chấp trì danh.
Khi mà niệm lực được tương tục rồi, nắm giữ lấy danh hiệu của Đức Phật mà không có cái tạp niệm xen vô thì trong một thời gian cái tâm nó dừng lại, lìa hết tất cả cảnh ngũ trần, nghĩa là sắc, thanh, hương, vị, xúc nó không có duyên nừa. Lúc đó dầu có con kiến cắn cũng không hay, nghĩa là lìa nơi xúc trần, dầu có mùi hương thoãng cũng không biết là lìa nơi hương trần và cho đến có tiếng chi một bên tai cũng không nghe, có cái chi ở trước mắt cũng không thấy, dầu lúc đó mỡ mắt, mà cái tâm chỉ duyên rành rẽ ở nơi câu niệm Phật và chỉ có nhận câu niệm Phật mà thôi lúc đó trong thì quên thân, ngoài không duyên theo cảnh, cái tâm nó đứng lặng là nhất tâm bất loạn. Khi được như vậy thì trong kinh Vô Lượng Thọ có nói lúc đó Phật thân hiện, Phật A Di Đà hiện, cho đến Phật cảnh Cực Lạc hiện, nên câu kệ gọi rằng: “NHẤT TÂM PHẬT HIỀN TIẾN.”
Khi mà niệm lực được tương tục rồi, nắm giữ lấy danh hiệu của Đức Phật mà không có cái tạp niệm xen vô thì trong một thời gian cái tâm nó dừng lại, lìa hết tất cả cảnh ngũ trần, nghĩa là sắc, thanh, hương, vị, xúc nó không có duyên nừa. Lúc đó dầu có con kiến cắn cũng không hay, nghĩa là lìa nơi xúc trần, dầu có mùi hương thoãng cũng không biết là lìa nơi hương trần và cho đến có tiếng chi một bên tai cũng không nghe, có cái chi ở trước mắt cũng không thấy, dầu lúc đó mỡ mắt, mà cái tâm chỉ duyên rành rẽ ở nơi câu niệm Phật và chỉ có nhận câu niệm Phật mà thôi lúc đó trong thì quên thân, ngoài không duyên theo cảnh, cái tâm nó đứng lặng là nhất tâm bất loạn. Khi được như vậy thì trong kinh Vô Lượng Thọ có nói lúc đó Phật thân hiện, Phật A Di Đà hiện, cho đến Phật cảnh Cực Lạc hiện, nên câu kệ gọi rằng: “NHẤT TÂM PHẬT HIỀN TIẾN.”
Đó là
thành tựu được Sự Tâm Muội, câu kệ gọi rằng: “TAM MUỘI SỰ THÀNH TỰU.”
Chánh định thuộc về sự, cái tâm mình trụ ở nơi câu niệm Phật, trong thì
quên thân, ngoài không duyên theo cảnh và lúc đó Phật và thánh cảnh
hiện, nó thuộc về sự tướng. Nếu người mà đuợc ngang nơi đây, thơi gian
sau, khi vãng sanh bảo đảm ở nơi Trung Phẩm, tức nhiên ngang với hàng
thánh của Nhị Thừa. Còn nếu được niệm lực tương tục đúng nghĩa chấp trì
danh ở trên là bảo đảm vãng sanh, nhưng mà trong phẩm vị thì chưa chắc
Phẩm nào, còn tùy theo ở nơi thiện căn công đức của người tu hành.
ĐƯƠNG NIỆM TỨC VÔ NIỆM
NIỆM TÁNH VỐN TỰ KHÔNG
TÂM LÀM PHẬT LÀ PHẬT
CHỨNG LÝ PHÁP THÂN HIỆN
Bây giờ do nơi chánh định thuộc về sự thì cái tâm nó đứng lặng, do cái tâm đứng lặng đó, thành trí huệ phát—trí huệ đây gợi là Vô lậu trí huệ hay là thánh trí phát. Do nơi phát đó, thành ra lúc đó toàn thể tự tâm bổn tánh nó hiển hiện, trong Thiền Tông gọi rằng minh tâm kiến tánh. Lúc đó đã thấy nơi bổn tánh rồi, mà bổn tánh thì tức nhiên không phải là cái tánh riêng của một cái gì hết, nó cũng là cái tánh của tâm mà cũng là cái tánh của Pháp, nó là cái tánh nói chung của tất cả Pháp. Mà đã là cái tánh của tất cả Pháp rồi thì đương lúc niệm Phật đó cái tâm nó trụ ở nơi câu niệm Phật, nơi sự niệm Phật. Chính ở nơi sự niệm Phật đó lại tỏ ngộ, thấy là vô niệm.
ĐƯƠNG NIỆM TỨC VÔ NIỆM
NIỆM TÁNH VỐN TỰ KHÔNG
TÂM LÀM PHẬT LÀ PHẬT
CHỨNG LÝ PHÁP THÂN HIỆN
Bây giờ do nơi chánh định thuộc về sự thì cái tâm nó đứng lặng, do cái tâm đứng lặng đó, thành trí huệ phát—trí huệ đây gợi là Vô lậu trí huệ hay là thánh trí phát. Do nơi phát đó, thành ra lúc đó toàn thể tự tâm bổn tánh nó hiển hiện, trong Thiền Tông gọi rằng minh tâm kiến tánh. Lúc đó đã thấy nơi bổn tánh rồi, mà bổn tánh thì tức nhiên không phải là cái tánh riêng của một cái gì hết, nó cũng là cái tánh của tâm mà cũng là cái tánh của Pháp, nó là cái tánh nói chung của tất cả Pháp. Mà đã là cái tánh của tất cả Pháp rồi thì đương lúc niệm Phật đó cái tâm nó trụ ở nơi câu niệm Phật, nơi sự niệm Phật. Chính ở nơi sự niệm Phật đó lại tỏ ngộ, thấy là vô niệm.
Cho nên
biết rằng cái thể tánh chân thật của tất cả các Pháp, nghĩa là không
luận của tâm hay là của sắc đều là cái tánh không tịch cả. Đã không tịch
tất nhiên nó không có cái sự gì và cũng không có cái tướng gì hết, cho
nên nói cái thể tánh chân thật nó như vậy. Do đó mới tùy duyên mà có ra
tất cả sự, tất cả Pháp. Vì vậy nên khi tỏ ngộ bổn tâm tự tánh rồi thì
thấy cái chánh niệm mình đương niệm đó tức là vô niệm gọi là ĐƯƠNG NIỆM
TỨC VÔ NIỆM.
Mà cái tánh của chánh niệm không phải là mình làm cho nó không, bởi vì bổn lai là không. Cũng như cái tánh của tất cả tâm, cái tánh của tất cả Pháp, bổn lai nó là không tịch.
Do đó cho nên sợ rằng người học đạo không biết, cố ý mà dằn ép cái tâm phải nhận rằng ở nơi niệm cái tánh là không (điều đó không phải). Lúc đó thấy cái niệm là không tánh mà rồi cũng rõ biết cái tánh niệm bổn lai nó là không. Như vậy mới thật là thấy cái thật tánh của niệm, mà nếu thấy cái thật tánh của niệm thì thấy tất cả cái thật tánh của các pháp, bởi vì tất cả Pháp đều là một tánh mà thôi.
Cho nên thành ra thấy cái thật tánh của một pháp tất nhiên thấy được cái thật tánh của tất cả pháp. Nên câu kệ mới nói đương niệm, chính lúc đương niệm đó không phải bỏ niệm, mà GIÁC NGỘ LÀ VÔ NIỆM. Giác ngộ vô niệm là chi? Tức nhiên là cái niệm tánh không tịch, mà cái niệm tánh không tịch đó là tánh bổn lai của cái niệm, cho nên gọi rằng: “NIỆM TÁNH VỐN TỰ KHÔNG” chớ không phải là nó mới không đây. Tại vì trước kia mình mê muội, mình theo sự tướng, mình thấy có thế này, có thế kia đủ thứ hết.
Giờ đây giác ngộ được rồi thì thấy là bổn tánh không tịch, bổn tánh không tịch đó là bổn lai từ nào đến giờ nó đã vẫn không tịch như vậy, chớ không phải mới, do mình tu hành đây rồi nó mới là không, không như vậy …
Mà cái tánh của chánh niệm không phải là mình làm cho nó không, bởi vì bổn lai là không. Cũng như cái tánh của tất cả tâm, cái tánh của tất cả Pháp, bổn lai nó là không tịch.
Do đó cho nên sợ rằng người học đạo không biết, cố ý mà dằn ép cái tâm phải nhận rằng ở nơi niệm cái tánh là không (điều đó không phải). Lúc đó thấy cái niệm là không tánh mà rồi cũng rõ biết cái tánh niệm bổn lai nó là không. Như vậy mới thật là thấy cái thật tánh của niệm, mà nếu thấy cái thật tánh của niệm thì thấy tất cả cái thật tánh của các pháp, bởi vì tất cả Pháp đều là một tánh mà thôi.
Cho nên thành ra thấy cái thật tánh của một pháp tất nhiên thấy được cái thật tánh của tất cả pháp. Nên câu kệ mới nói đương niệm, chính lúc đương niệm đó không phải bỏ niệm, mà GIÁC NGỘ LÀ VÔ NIỆM. Giác ngộ vô niệm là chi? Tức nhiên là cái niệm tánh không tịch, mà cái niệm tánh không tịch đó là tánh bổn lai của cái niệm, cho nên gọi rằng: “NIỆM TÁNH VỐN TỰ KHÔNG” chớ không phải là nó mới không đây. Tại vì trước kia mình mê muội, mình theo sự tướng, mình thấy có thế này, có thế kia đủ thứ hết.
Giờ đây giác ngộ được rồi thì thấy là bổn tánh không tịch, bổn tánh không tịch đó là bổn lai từ nào đến giờ nó đã vẫn không tịch như vậy, chớ không phải mới, do mình tu hành đây rồi nó mới là không, không như vậy …
Kế đến
câu “TÂM LÀM PHẬT LÀ PHẬT” Đồng thời lúc đó phải giác ngộ rằng chính cái
tâm của mình đây là chân tâm thật tánh của mình đó. Và rằng ở trên, hể
giác ngộ ở nơi cái tâm niệm đó rồi thì thấy rõ rằng cái bổn tâm của mình
làm Phật và cái bổn tâm đó chính là Phật. Đó gọi rằng là bổn tâm chân
thật. Lúc đó tất nhiên gọi rằng chi? Là đã chứng ở nơi lý tánh, thành
tựu ở cái lý Tam Muội niệm Phật và đồng thời pháp thân Phật hiện.
Ở nơi
trên về cái sự Tam Muội gọi rằng là Phật hiện tiền, lúc đó có Phật ở
ngoài mình hiện ra, rồi mình thấy Phật hiện, còn giờ đây, chính tỏ ngộ
được ở nơi thân tâm mình làm Phật là Phật. Nên biết rằng cái tỏ ngộ đó
không phải lấy ở nơi cái trí suy luận mà tỏ ngộ chính là cái hiện lượng
chứng trí lúc đó nhận như vậy, thấy như vậy, chứng như vậy, chớ không
phải là cái suy luận. Mà đã chứng ngộ ở nơi bổn tâm mình làm Phật và tức
là Phật, vậy Phật và tâm không phải là hai, chính tâm là Phật, Phật là
tâm.
Như vậy
tất nhiên là chứng nơi pháp thân, gọi là pháp thân hiên tiền, lúc đó
pháp thân hiện, còn ở trên ở nơi sự tam muội mà Phật hiện đó là Phật sư
tướng hiện, sắc thân Phật hiện, còn đây là PHÁP THÂN PHẬT HIỆN. Nếu
người mà được đến đây rồi, thì khi vãng sanh quyết định ở nơi thượng
phẩm, tức là một vì Đại Bồ Tát hiện tại người đó ở tại đây cũng là một
vì Đại Bồ tát. Tầng bậc nầy đối với Thiền Tông gọi là Chứng Tâm Tánh,
sau khi minh tâm kiến tánh rồi, chứng tâm tánh gọi là đai triệt, đại
ngộ, ngang nơi đó.
Nhưng ở
nơi pháp môn niệm Phật thì hơn nơi Thiền Tông bởi vì ở nơi Thiền Tông
đến khi minh tâm kiến tánh hay là chứng nhập ở nơi tự tánh rồi, còn cần
phải thêm một thời gian rèn luyện nơi đó để dứt trừ những nghiệp chướng
phiền não, còn người niệm Phật thì không như vậy. Bởi vì ngoài cái sự tỏ
ngộ ra, chứng nhập ra, còn có cái nguyện lực Phật nhiếp trì, mà đã vào
trong nguyện lực của Phật nhiếp trì rồi tất nhiên chẳng những là chứng
ngộ nơi cái tự pháp thân mà cũng là ở vào nơi pháp thân của đức Phật A
Di Đà. Do đó cho nên không luận là nghiệp chướng, phiền não và tất cả,
không luận tới việc đó. Mà sau khi bõ cái thân này rồi về Cực Lạc Thế
Giói được vãng sanh ở nơi Thượng Phẩm thì mấy cái đó tự mất.
Do đó nên
trong kinh quán Vô Lượng Thọ có nói: Người mà được vãng sanh về Thượng
Phẩm tức nhiên bực đó gọi rằng ở vào sơ Địa Bồ Tát. Hiện tiền sau khi
sanh về có thể dùng cái trí lực và thần thông, nghĩa là liền sau khi
sanh về có thể hiện thân làm Phật ở trong 100 thế giới nào không Phật
thì vị Bồ Tát đó có thể hiện thân làm Phật để độ chúng sanh. Nên biết
rằng mỗi thế giới như vậy là có vô số những tiểu thế giới hiệp lại, cũng
như Ta Bà thế giới của mình là có 1000 triệu cái tiểu thế giới hiện
lại, nghĩa là 1000 triệu cái thái dương hệ hiệp lại mới thành cái thế
giới Ta Bà.
Do đó mà
khi Đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật rồi thì cái thân hiện ra tới gọi là:
“Thiên Bá Ức”, nghĩa là 1000 trăm ức, 1000 trăm lần ức, 1000 trăm ức đó
là 1000 tỷ, 1000 tỷ thân Phật Thích Ca chớ không phải chỉ một thân Phật
Thích Ca. Đó là nói một thế giới, mà đây vị Bồ Tát ở nơi cái chứng lý
pháp thân, nghĩa là ở nơi cái lý Niệm Phật Tam Muội thành tựu rồi, vãng
sanh về Cực Lạc Thế Giới, trụ nơi bậc sơ địa có thể dùng thần thông trí
huệ hiện thân làm Phật ở trong 100 thế giới không Phật để độ chúng sanh.
Mình thấy pháp môn niệm Phật, nếu bắt từ dưới nhìn lên trên và từ trên nhìn lần xuống dưới, mình thấy cái đường đi rành rẽ hết sức là phân minh. Ở nới đó, mình thấy cũng không đến nổi quá khó, chỉ có khó là mình phải tin, quyết định thực hành tinh tấn và không giải đãi mà thôi. Khó là chịu nhất định để tu và quyết định tinh tấn, chỉ có khó nới đó mà thôi, chớ còn cái việc mà thấy theo sự đắc lực, thì pháp môn niệm Phật không có cái chi là khó lắm, không phải như các pháp môn khác. Vì các pháp môn khác do tự lực, tự lực thành khó, và ở nơi các pháp môn khác mà đến chổ chứng lý pháp thân hiện: Bên Thiền Tông thuộc về vô tướng tu.
Mình thấy pháp môn niệm Phật, nếu bắt từ dưới nhìn lên trên và từ trên nhìn lần xuống dưới, mình thấy cái đường đi rành rẽ hết sức là phân minh. Ở nới đó, mình thấy cũng không đến nổi quá khó, chỉ có khó là mình phải tin, quyết định thực hành tinh tấn và không giải đãi mà thôi. Khó là chịu nhất định để tu và quyết định tinh tấn, chỉ có khó nới đó mà thôi, chớ còn cái việc mà thấy theo sự đắc lực, thì pháp môn niệm Phật không có cái chi là khó lắm, không phải như các pháp môn khác. Vì các pháp môn khác do tự lực, tự lực thành khó, và ở nơi các pháp môn khác mà đến chổ chứng lý pháp thân hiện: Bên Thiền Tông thuộc về vô tướng tu.
Vô Tướng
Tu đó khó nắm nơi đâu để mà làm trụ cột, để hạ thủ lắm, nếu sai một chút
thì thuộc về hữu tướng, mà hữu tướng tất nhiên không phải của Thiền
Tông, sai rồi thì không thành tựu được. Còn như theo Pháp Hoa Tông mà tu
thì cũng phải tam chỉ tam quán, cái đó không phải dể được. Theo Hoa
Nghiêm Tông thì thuộc về pháp giới quán rất khó. Theo như Duy Thức Tông
thì phải là Duy Thức Quán, quán chẳng phải dể. Đó là nói những pháp môn
thuộc về tự lực tu.
Muốn được đến trình độ gọi là chứng lý pháp thân thì phải trong các tông thuộc về Viên Đốn Đại Thừa, chớ nếu ngoài những tông đó ra mà tu những tông khác thì tất nhiên không thể đến từng đó được.
Muốn được đến trình độ gọi là chứng lý pháp thân thì phải trong các tông thuộc về Viên Đốn Đại Thừa, chớ nếu ngoài những tông đó ra mà tu những tông khác thì tất nhiên không thể đến từng đó được.
Những
tông vừa kể trên tu đến từng này khó lắm, bởi vì ở đó thuộc về tự lực.
Còn đây, ngoài tự lực ra thì pháp môn niệm Phật này còn có ở nơi tha
lực, tức là nguyện lực của Phật nhiếp trì. Do đó thành ra có sự dễ dàng
hơn, bão đảm hơn. Huống nữa là trong pháp môn niệm Phật nầy, nếu mình
chỉ được ở nơi cái từng công phu thấp nhất là có cái sự chuyên niệm, nó
được tương ứng với nghĩa chấp trì, tất nhiên đó là bảo đảm vãng sanh.
Nếu được
vãng sanh rồi thì dự vào hàng thánh, được bất thối chuyển nơi đạo vô
thượng. Dầu rằng đối với các bậc đạt được Sự Tam Muội Niệm Phật hay Lý
Tam Muội Niệm Phật là còn thấp, nhưng kỳ thật khi đã vãng sanh dự vào
hành thánh, được bất thối chuyển, nhất là được về Thế Giới Cực Lạc rồi
thì không có các sự khổ như là những cảnh duyên nó làm mình xao động,
hoặc sự ép buộc ở nơi thời tiết, nhất là việc ăn, việc mặc nó làm mình
bận rộn cả ngày đêm.
Không có
tất cả cái đó thì tất nhiên rãng rang tu hành, mà trong khi rãnh rang đó
lại có tiếng gió thổi, tiếng chim kêu, tiếng nước chảy đều phát ra
tiếng nói pháp hết, hơn nữa, nơi Cực Lạc Thế Giới, như trong kinh Vô
Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, như kinh A Di Đà đó, các đạo hữu cũng
thường tụng, thì các Bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát thượng thiện nhân là
bạn, và người được vãng sanh sẽ ở chung với bậc đó.
Cho nên
trong kinh Di Đà có nói: Những người nào mà nghe nơi đây thì phải phát
nguyện, nguyện sanh về Cực Lạc Thế Giới. Tai sao vậy? Vì đồng với các
Bậc Thượng Thiện Nhân Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát câu hội một chổ ở chung một
chổ.
Như vậy đó thì thấy minh về bên đó rồi thì các bậc Đại Bồ Tát như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và vô số các vị Bồ Tát khác cũng đến cái từng đó, thì mình được ở trong cái hội đó, trong cái xóm đó, nghĩa là nói ngay ra ở chung.
Như vậy đó thì thấy minh về bên đó rồi thì các bậc Đại Bồ Tát như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và vô số các vị Bồ Tát khác cũng đến cái từng đó, thì mình được ở trong cái hội đó, trong cái xóm đó, nghĩa là nói ngay ra ở chung.
Cung điện
của mình ở đây thì cung điện của các Ngài ở kia, muốn gặp lúc nào cũng
được, muốn hỏi han lúc nào cũng tiện. Và cái hóa thân Phật ở khắp nơi
trong Thế Giới Cực Lạc, không có chổ nào không có hóa thân Phật hết.
Thành ra muốn thấy Phật lúc nào cũng được, trừ ra những bậc thuộc về
thượng phẩm, chứng lý pháp thân.
Chừng đó
tất nhiên về Thế Giới Cực Lạc mới thấy được báo thân thật của Phật, còn ở
những bậc dưới thì thấy hoá thân mà hóa thân cũng như báo thân, bởi vì
sự thuyết pháp độ sanh của Phật thì hóa thân báo thân gì cũng giống nhau
nhưng cái thân có khác theo trình độ người: Thân lớn, thân nhỏ, cái chổ
đẹp nhiều hay là đẹp ít khác nhau, theo cái trí lực ở nơi con mắt thấy
nó sai khác, chớ sự giáo hóa cũng đồng. Phật bao giờ cũng theo căn cơ mà
thuyết pháp. Do đó cho nên trong kinh nói rằng:
Chỉ có
nước Cực Lạc là bảo đảm ở nơi con đường thành Phật mà thôi. Như trong
kinh A Di Đà Phật nói: Người nào nghe kinh này mà thọ trì tu hành cùng
những người đà phát nguyện, đang phát nguyện, sẻ phát nguyện vãng sanh
về nước của đức Phật A Di Đà, thì những người ấy đều đặng không thối
chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nghĩa là người đó sẽ
được vãng sanh và được bảo đảm đi thẳng đến thành Phật mà thôi. Do đó,
thấy căn cơ của tự mình hiện tại đây cũng như tất cả mọi người trong
thời gian này mà rời pháp môn Niệm Phật thì quyết khó bảo đảm giải thoát
lắm đừng nói là bảo đảm thành Phật.Vậy các đạo hữu cũng nên cố gắng tự tu cho tinh tấn, và cũng đem pháp môn Niệm Phật chỉ dậy người khác và khuyên bảo người khác nên thực hành như mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét