Chương 13
ÍT NHIỀU CẢM
NGHĨ VÀ SUY TƯ VỀ
THIỀN HỌC VIỆT
NAM TỪ TRIỀU LÝ TỚI NAY
Trong bài này, tôi chỉ đưa ra it nhiều
suy tư, nhận định về Thiền học Việt Nam, với mục đích chứng minh rằng
các Thiền Sư Việt Nam. thực ra là những nhà tư tưởng thâm thúy lỗi lạc.
Những thơ văn, những lời đối thoại của các Ngài, có thể qui nạp về một
hệ thống tư tưởng có mạch lạc phân minh. Phương pháp mà tôi dùng để soi
rọi vào tư tưởng các Ngài rất là giản dị. Tôi chỉ dùng thuyết THIÊN ĐỊA
VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ với những hệ luận của nó về vũ trụ, về nhân sinh,
về tu chứng để hệ thống hoá tư tưởng các Ngài. Sở dĩ tôi dùng thuyết
THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ để tìm hiểu Thiền Học Việt Nam, chính là
vì tôi đã dùng thuyết này để soi rọi vào các đạo giáo, để tìm cho ra cốt
tủy, tinh hoa các đạo giáo, và tôi thấy đối với bất kỳ đạo giáo nào, nếu
ta dùng thuyết trên để làm kim chỉ nam hướng dẫn, làm chìa khóa để mở
kho tàng tư tưởng của các thánh hiền muôn thủa, thì ta cũng được toại
nguyện vì tất cả những gì ta tưởng là bí ẩn, đều được trình hiện ra một
cách sáng tỏ rõ ràng. Riêng đối với Thiền học Việt Nam, tôi sẽ dùng các
văn bản, các sách vở để chứng minh rằng Thiền học Việt Nam đã lấy học
thuyết ấy làm cơ bản suy luận.
Hơn thế nữa, có vậy mới thấy được một sắc
thái đặc biệt khác của Thiền Học Việt Nam là khuynh hướng hòa đồng Tam
Giáo, cho rằng Tam Giáo chỉ khác nhau ở Sự, mà giống nhau ở Lý, chỉ khác
nhau ở THÔ, mà giống nhau ở TINH.
Hải Lượng đại thiền sư Ngô Thời Nhậm đời
Tây Sơn (1746-1803) viết: «Phật giảng kinh Lăng Già, tức cũng là giảng
cái huyền hư của Chu Dịch. Cương yếu của đạo lý là ở trong kinh Lăng
Già. Lăng Già giảng chữ TINH rất là rạch ròi. Đại để Phật gia dùng chữ
nghĩa sâu kín, không có sức hiểu biết sắc bén thì không hiểu được, mà đã
hiểu được thì hiểu sâu sắc.
"Lại nói: Cái học TỪ CHƯƠNG của Nho Gia,
cái học CHAY CÚNG của Thích Gia, ấy là "chạy theo dị đoan". Cái ĐOAN của
Phật và Thánh có bao giờ Dị (khác) với nhau đâu, nhưng TỪ CHƯƠNG và CHAY
CÚNG là cái THÔ của Nho và Thích. Nếu không bắt đầu từ cái THÔ, thì cái
TINH của đạo lý, người ta không do đâu mà vào được. Đời xưa, người ta
bẩm sinh thuần túy, vô luận học Nho học Phật, đều là Lý trước mà Sự sau;
đời sau thì lại Sự trước mà Lý sau. TỪ CHƯƠNG, CHAY CÚNG cũng đều là
thuộc về Sự, học giả bỏ Lý mà chạy theo Sự, thì cái hại không xiết kể.»
(Thơ văn Ngô Thời Nhậm, Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1973, tr.
126-127).
Sách HỒNG MÔNG HẠNH, của Tỳ Kheo GIÁC LÂM,
chùa HỒNG PHÚC, phủ HOÀI ĐỨC
tỉnh HÀ ĐÔNG, viết thời MINH
MỆNH (1820-1641) nhận định về TAM GIÁO như sau:
Ba đạo cây cối một nhà,
Chi chi, diệp diệp hằng hà vô biên.
Những người thiển học thất truyền,
Ngỡ là Nho Giáo, Phật, Tiên khác dòng.
(ib. tr. 6b)
Nét đặc thù thứ ba của Thiền Học Việt Nam
là LÝ SỰ VÔ NGẠI, tức là vừa chủ trương THIỀN (ĐỐN NGỘ), vừa chủ trương
TU TỊNH THỔ (TIỆM TU). Có lẽ đây cũng là một trong những ảnh hưởng của
Thiền LÂM TẾ.
[1]
Đầu sách THIỀN HỌC TU CHÂN YẾU CHỈ QUỐC
ÂM (Hội An Bô, Hàm Dưỡng Tinh Xá), có đôi câu đối sau:
Tu tịnh thổ giả, tự tịnh kỳ tâm, phương
thốn cư nhiên liên giới,
Tu thiền tọa giả, đạt Thiền chi lý, đại
đạo tận thị bồ đoàn.
Tạm dịch:
Tu Tịnh thổ, tịnh tâm mình,
Rồi ra tâm sự sẽ thành toà sen.
Tọa Thiền cốt đạt lý Thiền,
Rồi ra đại địa sẽ nên Bồ Đoàn.
ĐẠI CƯƠNG
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Thiền học Việt Nam chấp nhận như Nho, Lão
rằng: Có một THỰC THỂ, một BẢN THỂ duy nhất, bất sinh, bất diệt, vô
thủy, vô chung, đã phóng phát, hình hiện ra cái thế giới hiện tượng này.
Như vậy, khi chưa có trời đất, thì BẢN THỂ
ấy ở trong thế tiềm ẩn, chưa hiển dương, nhưng hằng viên dung toàn mãn
và được gọi là CHÂN NHƯ.
DUY THỨC LUẬN của Phật giáo giải thích
CHÂN NHƯ như sau: «Chân vị
chân thực, biểu phi hư vọng; Như vị như thường, biểu vô biến dịch. Vị
thử CHÂN THỰC vu nhất thiết pháp, thường vu kỳ tính, cố viết CHÂN NHƯ.»
Nghĩa là: «CHÂN là chân thực, nghĩa là không phải HƯ ẢO; NHƯ là như
thường, nghĩa là không thay đổi. Cho nên CHÂN THỰC trong mọi hiện tượng,
không thay đổi BẢN TÍNH gọi là CHÂN NHƯ.»
[2]
Khi hình hiện ra trời đất rồi, thì phân
thành 2 phần hỗ tương đối đãi. Đó là:
1. Phần BẢN THỂ bất biến, gọi là Tì Lư hay
là CHÂN TÂM, hay là PHẬT, hay là PHẬT TÍNH (Còn gọi là: Thường; Ngã; Bất
biến tính; Tịch Diệt; Hư Vô; Lạc v. v.)
2. Phần HIỆN TƯỢNG biến thiên, gọi là VẠN
PHÁP, là CHÚNG SINH v. v... (Còn gọi là: Vô Thường; Vô Ngã; Sinh Tử;
Biến thiên; Luân Hồi; Sắc tướng; Khổ v. v...).
[3]
Đặc biệt nhất là khi đã hình hiện ra vũ
trụ vạn hữu rồi, thì cái BẢN THỂ BẤT BIẾN ấy vẫn lồng sâu trong lòng vạn
vật chúng sinh, đã đưa đến hậu quả rất quan trọng sau đối với Phật giáo.
Đó là niềm tin: Chúng sinh giai hữu Phật Tính.
Và như vậy, công trình tu trì là cốt tìm
ra lại cái CHÂN NHƯ BẢN THỂ ấy, cái BẢN LAI DIỆN MỤC ấy.
Để chứng minh đại khái cho phần trình bày
trên, tôi mượn lời tiến sĩ PHAN HUY ÍCH (1751-1822) khi đề tựa quyển
TRÚC LÂM TÔNG CHỈ NGUYÊN THANH của HẢI LƯỢNG ĐẠI THIỀN SƯ, NGÔ THỜI
NHẬM như sau: «Đạo lớn phát
ra tự Trời, lưu hành khắp vũ trụ, phân tán thành vạn vật. cái THỂ thì
đồng, nhưng cái Dụng thời DỊ (khác). ĐỒNG là gốc, mà DỊ là ngọn. Xem bề
ngoài thì tưởng như khác đường khác nẻo, nhưng thông hội lại cho đến chỗ
cực kỳ tinh vi, thiết yếu, thì chẳng có gì vượt ra ngoài ĐẠO lớn khi
được.
«Giáo lý của THÍCH CA tuy là nói KHÔNG
TỊCH, HƯ VÔ, nhưng đại yếu vẫn là trừ bỏ mọi chướng lũy, thấy rõ CHÂN
NHƯ. Cho rằng MINH TÂM KIẾN TÍNH là việc cần kíp nhất, nếu đem so sánh
với học thuyết THÀNH Ý, TRÍ
TRI của nhà NHO ta, thì chẳng có gì là trái ngược.»[4]
Nếu chúng ta vẽ một vòng tròn, thì Tâm
điểm sẽ là CHÂN TÂM, vòng bên ngoài sẽ là vòng biến dịch, vạn hữu hình
tướng, biến dịch, vô thường.
Khi mê, thì ta sẽ dời bỏ lần CHÂN TÂM mà
tiến mãi về phía hình thức, sắc tướng, sinh diệt bên ngoài, để cuối cùng
trở thành một XIỂN ĐỀ, một người đại gian, đại ác. Còn nếu chúng ta nhận
thức ra được CHÂN TÂM, thoát ly dần dà được vòng kiềm tỏa của hình thức,
sắc tướng, thời đó là rời bỏ được dòng sinh tử, luân lưu, trở về được
với NIẾT BÀN không tịch. Trong
kinh TU SÁM YẾU CHỈ, nơi cuối kinh PHÁP HOA, ta thấy có ghi như sau:
Nguyên văn chữ Hán: «Sở vị THUẬN NGHỊCH
THẬP TÂM, thông ư MÊ NGỘ lưỡng phái. Cố mê chân tạo ác, tắc hữu THẬP TÂM
NGHỊCH NIẾT BÀN LƯU, thuận SINH Tử hải. Thủy tòng vô thủy, vô minh khởi aí,
khởi kiến, chung chí nhất thiết XIỂN ĐỀ, bạt nhân, bạt quả, sở dĩ trầm
luân sinh tử, vô giải thoát kỳ. "Kim ngộ TAM BẢO thắng duyên, năng sinh
nhất niệm chánh tín, tiên nhân, hậu kỷ, cải vãng tu lai, cố khởi THẬP
TÂM NGHỊCH SINH TỬ LƯU, thuận NIẾT BÀN
ĐẠO, thủy tắc thâm tín, nhân quả bất vọng. Chung tắc viên ngộ TÂM TÍNH
BẢN TỊCH.»
[5]
Dịch sang Việt Văn:
«Thế gọi là THUẬN NGHỊCH THẬP TÂM,
thông suốt hai chiều MÊ, NGỘ.
«Cho nên, MÊ CHÂN, làm ác, thì sẽ đi
ngược dòng NIẾT BÀN mà suôi
vào bể SINH TỬ. Mới đầu đi từ chỗ Vô Thủy, Vô Minh, yêu đời, luyến cảnh,
sinh nhân, sinh quả, để cuối cùng thành một XIỂN ĐỀ gian ác, trầm luân
trong vòng sinh tử, không kỳ giải thoát...
«Nay hiểu được TAM BẢO CĂN NGUYÊN, phát
sinh được một một niệm Chánh Tín, coi người hơn mình, cải quá tự tân,
cho nên khiến cho THẬP TÂM chuyển ngược dòng SINH TỬ, thuận theo đạo
NIẾT BÀN, mới đầu chỉ tin rằng
NHÂN QUẢ là có thực chẳng sai, sau thì sẽ hiểu thấu được TÂM TÍNH BẢN
TỊCH của mình.»
Thiết tưởng, nói về hai chiều THUẬN NGHỊCH
của vòng BIẾN THIÊN chi phối vũ trụ, trời, đất, người, như vậy là quá
rõ.
THEO VẾT CHÂN
CÁC THIỀN SƯ VIỆT NAM
Cho nên, các Thiền sư bên Tàu cũng như
bên ta, ai nấy đều cố gắng suy tư để tìm cho ra căn do vũ trụ và con
người.
Cổ Đức nói: «Nghiên cùng chí lý, dĩ ngộ vi
tắc.»
[6]
Suy cho thấu triệt lẽ Trời,
Bao giờ liễu ngộ, mới thôi công trình.
Thiền sư KHÁNH HỈ cũng đã viết:
Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không,
Học Đạo vô qua phỏng tổ tông.
[7]
Kiếp
trần khoan nói sắc cùng không,
Học Đạo gì hơn kiếm tổ tông.
Mà tổ tông chúng ta là ai? Thưa chính là
CĂN NGUYÊN, GỐC GÁC ta, chính là ĐẠO, là THÁI HƯ.
[8]
Bài MINH trong bia ở chùa SÙNG THIỆN DIỆU
LINH, núi LONG ĐỘI đời Lý có đoạn:
Chí diệu, chí tịch,
Vô tượng, vô hình,
Cưỡng tự lập danh,
HI DI tự tại,
Đạm bạc mị đãi,
Tiên Thiên địa sinh,
Niết nhi bất tri,
Ma nhi bất lận,
Thuần túy duy tinh.
Dịch:
Rất diệu mà rất tĩnh,
Không dáng cũng không hình.
Gượng đặt tên cho nó,
Cực nhỏ và cực tinh,
Đạm bạc riêng tồn tại,
Thủa trước đất trời sinh.
Muốn nhuộm đen chẳng được
Đem mài vẫn nguyên lành.
Diệu thay cái TÂM ấy,
Thuần túy và tinh anh.[9]
Thế giới sa bà này, chính là sự hiển dương
của cái BẢN THỂ, của cái HƯ VÔ DIỆU THỂ ấy...
Diệu bản Hư Vô nhật nhật khoa,
Hòa phong suy khởi biến sa bà.
Nhân nhân tận thức vô vi lạc,
Nhược đắc Vô Vi, thủy thị gia.[10]
Dịch:
Hư Vô DIỆU THỂ vẫn khoe bày,
Khắp cõi sa bà gió dịu bay.
Vui nhất VÔ VI, ai cũng hiểu,
VÔ VI nhà ở chính nơi này.
Trong những bài thơ trích dẫn trên, ta
thấy các Thiền Sư Việt Nam đã không ngại dùng những danh từ HI DI, hay
VÔ VI của Đạo Lão để mô tả cái HƯ VÔ DIỆU THỂ của đạo Phật. Cũng có vị
lại đã dùng hoàn toàn những danh từ NHO GIÁO để trình bày quan niệm
THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ của Đạo Phật.
Trong sách THANH TU THIỂN THUYẾT của Phật
giáo, khoảng đầu thế kỷ 20, có đoạn như sau:
«Thủa HỒNG MÔNG chưa phân Trời đất,
Thảy thảy đều chứa đựng Hóa Công.
Thanh thanh khí thái hư không,
Gọi rằng Vô Cực một vùng hồn nhiên.
Ngôi Thái Cực lần lần hun đúc,
Khí âm Dương trổ mộng hai vừng.
Chí chân một điểm thâm tàng,
Nguyên Tinh, Nguyên Khí, Nguyên Thần
biến thông.
Ấy Tiên Thiên Kiền Khôn định vị,
Diệu xiển ra Tứ Tượng, Lưỡng Nghi.
Màu thay khí hóa tinh vi,
Ngũ Hành, Bát Quái đồng thì diễn suy.
Máy Tạo hóa huyền kỳ chí diệu,
Đem Tiên Thiên chuyển hiệu Hậu Thiên,
Phục đông, Cấu hạ căn nguyên,
Hào Khôn biến Khảm, hào Kiền biến
Ly...»
Sách HỒNG MÔNG HẠNH, do Tì kheo
GIÁC LÂM, trụ trì chùa HỒNG PHÚC THIỀN TỰ, phường HÒE NHAI, phủ HOÀI ĐỨC (HÀ ĐÔNG) khắc
vào thời MINH MỆNH (1820-1841) đã trình bày lại tư tưởng trên một cách
rõ ràng:
Về thuyết THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ,
sách ấy viết:
Trải xem thủa trước HỒNG MÔNG,
Hư Vô NHẤT KHÍ tượng cùng Hỗn Mang.
Tam tài thủa chửa phân trương,
Kiếp dường bát ngát, đời dường mênh mông.
Trời chưa có, đất còn không,
Ngừơi ta quạnh quẽ, mịt mùng dưới trên.
Tự nhiên một khí nổi lên,
Tì Lư NHẤT THÍCH bỗng liền hóa ra,[11]
Thon thon dáng tựa trứng gà,
Khí thanh khí trọc hiệp hòa ÂM DƯƠNG.
Tự nhiên chấn động khai trương,
Mới có BÀN
CỔ, TAM HOÀNG định phân.
THIÊN TÍ, ĐỊA SỬU, NHÂN DẦN,
Ba giờ khai tịch, linh thần đã an.
THÁI CỰC NHẤT KHÍ CHÂN NGUYÊN,
LƯỠNG NGHI, TỨ TƯỢNG sinh nên muôn loài.
Thành cơ Tạo Hóa chẳng sai,
Dựng nên sông cả, núi dài, biển sâu.
Sơn xuyên, thành thị đâu đâu,
Phật tổ biến hóa, phép mầu ghê thay.
(Sách trích dẫn, tr. 1a-1b)
[12]
Cuối sách nơi trang 14a lại có kệ rằng:
«Động tĩnh, đột tàng, thủy triệu sơ, huyền hoàng khôi tạo vận thần cơ,
Chân không, Chân sắc, Chân cao hậu,Thiên địa nhân tòng nhất Thái Hư.»
Có chấp nhận thuyết THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG
NHẤT THỂ như vậy mới hiểu được tại sao lại có kẻ trí, người ngu, kẻ
thiện, người ác.
Kẻ trí, người thiện bẩm được khí khinh
thanh, kẻ ngu, người ác bẩm được khí trọng trọc.
Văn bia chùa HƯƠNG NGHIÊM núi CÀN
NI viết:
«Tam tài ký biện,
Quí tiện phân yên.
Khí bản, tuân mạt,
Thất tính tự nhiên.»
Dịch:
Tam tài đã phân biệt
Sang hèn đều chia đôi.
Bỏ gốc đua theo ngọn,
Sớm để mất tính Trời.[13]
Tuy nhiên, dẫu là kẻ thiện, người ác,
truy kỳ căn đều có CHÂN NHƯ PHẬT TÍNH bình đẳng như nhau.
THANH TU THIỂN THUYẾT viết:
Khí thanh trọc chia làm trời đất,
Đủ tinh thần, hà nhạc, chung linh.
Thánh hiền phú bẩm tinh anh,
Hạ ngu tra trỉ, cùng loài tứ sinh.
Tuy phú khác tinh anh, tra trỉ,
Tính khôn linh, một thể như nhau.
Trí ngu, thiện ác sôn sao,
Vận cùng lánh khỏi được sao luân
hồi?...
Cho nên muốn hiểu rõ con người, phải phân
biệt trong một con người có hai thứ Tâm:
1. VỌNG TÂM, hay TƯ TÂM, gồm thất tình,
lục dục. Cũng còn gọi là THẾ GIAN TÂM. Vọng tâm, và Tư tâm thì ai ai
cũng khác nhau.
2. CHÂN TÂM, hay CÔNG TÂM hay THIÊN TÂM,
gồm đủ đạo lý, cương thường. Còn gọi là TỊCH DIỆT TÂM.
Tu là cốt dập tắt cái tính người, mà khởi
lên cái tính Trời. HẢI LƯỢNG ĐẠI THIỀN SƯ viết: "Phật nói TỊCH DIỆT
không phải là thật TỊCH DIỆT. TỊCH là trái với HUYÊN (ồn ào), DIỆT là
trái với KHỞI (dậy). Có diệt được cái TÍNH NGƯỜI, thì cái TÍNH TRỜI mới
dậy được. Đại phàm Tính Trời thì khó dậy mà tính người thì khó diệt.[14]
HÒA THƯỢNG HẢI ÂU (VŨ TRINH) (?-1828) bàn:
Cái nghĩa chữ TỊCH DIỆT thật là huyền diệu
lắm thay ! Không ồn ào, thì làm sao có lặng lẽ (TỊCH), không dậy lên,
thì làm sao có dập đi (DIỆT). ồn ào và dậy lên là TÍNH NGƯỜI. TỊCH (lặng
lẽ), DIỆT (dập tắt) là TÍNH TRỜI, cùng với NHÂN TÂM và ĐẠO TÂM gần giống
nhau... Dập tắt (Diệt) được TÍNH NGƯỜI, thì TÍNH TRỜI được trọn vẹn.
Tính được trọn vẹn, thì là ĐỊNH, mà ĐỊNH thì gọi là TỊCH DIỆT. Sách Nho
có chữ Vô Ngã, sách ĐẠO có chữ TÁNG NGÃ, đều theo cái nghĩa ấy.[15]
ĐẠI TUỆ PHỔ GIÁC THIỀN SƯ, người Trung Hoa
có viết: «THẾ GIAN TÂM khi
đã diệt, TỊCH DIỆT TÂM liền hiện ra. TỊCH DIỆT đã hiện ra, thời pháp môn
của hằng hà chư Phật đã nói, đều cũng trình hiện, pháp môn khi đã trình
hiện thời đó chính là CHÂN CẢNH GIỚI TỊCH DIỆT.»
«THẾ GIAN TÂM ký diệt, TỊCH DIỆT TÂM tức hiện tiền. TỊCH DIỆT TÂM ký
hiện tiền, tắc trần sa chư Phật sở thuyết pháp môn nhất thời hiện tiền
hĩ. Pháp môn ký đặc hiện tiền, tức thị TỊCH DIỆT chi CHÂN CẢNH GIỚI dã.»
[16]
Hiểu rõ căn cơ cốt cách con người như vậy,
sẽ hiểu tại sao tu lại có thấp, có cao, có nhanh có chậm, có đốn, có
tiệm khác nhau.
Hạ ngu, tiểu đức thì hãy cố lo giữ vẹn
luân thường, chư ác mạc tác, chư thiện phụng hành...
Còn những bậc thượng căn, phải nhờ minh sư
chỉ điểm để tìm cho ra BẢN LAI DIỆN MỤC vốn sẵn có trong mình...
THANH TU THIỂN THUYẾT viết:
Nơi cơ bút, chốn giáng kinh,
Khuyên lành răn dữ, đinh ninh rõ ràng.
Cũng thế đạo luân thường nhật dụng,
Hễ làm người phải chóng noi theo,
Bớt đường dâm dục, sa kiêu,
Trời cho phúc lộc, thêm điều thọ khang.
Còn những bậc lòng trần rũ sạch,
Phải tu cho KIẾN TÍNH MINH TÂM.
Đạo mầu vô thượng thậm thâm,
BỔN LAI DIỆN MỤC lọ tầm đâu xa.
Báu trong nhà ai ai cũng có,
Sách gọi rằng VÔ GIÁ MINH CHÂU,
Chân truyền ẩn bí đã lâu,
Hội kỳ Phật tổ, hoàn cầu khai hoang.
Mối huyền cơ đăng truyền tâm ấn,
Trước tiên cần ngũ giới tam qui,
Muốn cho biết đạo VÔ VI,
Quải trừ vọng niệm tham si mọi đàng.
Chí thành phỏng minh sư chỉ điểm,
Tu làm sao tánh phục KIỀN SƠ,
Đơn truyền thái dược trúc cơ,
Vũ Văn hỏa hậu, căn lô phép mầu.
ấy tính Đạo công phu diệu quyết,
Quán hạnh thâm ngũ uẩn giai không,
LY TỨ TƯỚNG mới THẦN THÔNG,
Muốn thành chính quả, lập công cho dày.
Chớ chấp nê bề ngoài sắc tướng,
Trước độ mình, độ chúng theo sau,
Mày ngang, mũi dọc như nhau,
NGỘ là TIÊN PHẬT, Mê hầu CHÚNG SINH.
PHẬT, THÁNH, TIÊN thiên kinh vạn quyển,
Ngộ đạo rồi, muôn khiếu đều thông.
Sách HỒNG MÔNG HẠNH cũng cho rằng muôn
loài đều có TÍNH PHẬT, KHÍ THIÊN như nhau.
«Nhân, vật, cầm thú sinh nên, Cũng có TÍNH
PHẬT, KHÍ THIÊN hội đồng.» (sách trích dẫn, tr. 2b)
Vì ai ai cũng đã sẵn TÍNH PHẬT, KHÍ THIÊN
nên nếu biết đường tu trì sẽ thành TIÊN, thành PHẬT.
Kinh rằng: Nhân, Phật dữ đồng,
Thiên sinh anh hùng, NHÂN lại thành
THIÊN.
Dù ai biết được sự duyên,
Tối thượng thừa thiền, pháp đại Tiên
ông. (std. tr. 12a)
Hiểu được hai phương diện BIẾN HẰNG của
vũ trụ và của con người, sẽ hiểu được rằng, về phương diện biến thiên,
hình tướng, thì Phật giáng trần có thủa, có thì; còn đứng về phương diện
BẢN THỂ, thì CHÂN THỂ hay CHÂN NHƯ hay PHẬT TÍNH làm gì có trước, có
sau. Về phương diện HÌNH TƯỚNG thì muôn loài, muôn vật khác nhau, thì
mây là mây, nước là nước, nhưng về phương diện BẢN THỂ, thì đâu đâu cũng
chỉ là một khỉ THÁI HƯ, tung hoành muôn phương, tỏa lan nghìn cõi. Lời
đối thoại sau đây giữa thiền sư ĐỨC THÀNH
và vua TRẦN THÁI TÔN nói lên cái tư tưởng đó.
ĐỨC THÀNH
hỏi TRẦN THÁI TÔN: «Xưa ĐỨC THÍCH CA THẾ TÔN lúc chưa rời khung trời ĐÂU
SUẤT thì đã giáng sinh ở cung vua TỊNH PHẠN, lúc chưa ra khỏi bào thai
bà mẹ, thì đã độ hết mọi người, điều ấy là thế nào?»
TRẦN THÁI TÔN đáp:
«Ngàn sông có nước, ngàn sông nguyệt,
Muôn dặm không mây, muôn dặm Trời.»
(Ý muốn nói: CHÂN NHƯ từ muôn kiếp vẫn
lồng trong vạn vật, cũng như gặp buổi trăng trong, đâu có sông nước, thì
đấy có trăng in đáy nước, vạn hữu như mây, BẢN THỂ như TRỜI. Mây tan,
TRỜI sẽ lộ.)
ĐỨC THÀNH
lại hỏi: «Chưa rời (Trời ĐÂU SUẤT) chưa ra (khỏi bào thai) đã được chỉ
bày rồi, còn đã ra (khỏi bào thai), thì việc ấy ra sao?»
TRẦN THÁI TÔN đáp:
«Mây sinh đỉnh Nhạc, mây trằng xóa,
Nước đến TIÊU TƯƠNG, nước xanh rờn.»
(Ý nói: Con người khi đã sinh ra, lẽ tất
nhiên phải chịu ảnh hưởng hoàn cảnh, mỗi cái nhân sinh ra một cái quả
tất yếu, cho nên nếu tu cho thành chính quả, ắt cũng sẽ thành PHẬT như
đức PHẬT NHƯ LAI.)
THIỀN TÔNG BẢN HẠNH quảng diễn lại những ý
tứ trên bằng những vần thơ sau:
Mây lên núi bạc hằng lô,
Nước xuống nguồn TÀO,
vằng vặc sáng thanh.
Pháp thân trạm tịch, viên minh,
340- Tự tại tung hoành viên mãn THÁI
HƯ,
Tùy hình ứng vật NHƯ NHƯ,
Hóa thân bách ức độ chư muôn loài,
ứng hiện dưới đất trên trời,
Khắp hòa thế giới mọi nơi trong ngoài.
345- Đã đặt hiệu là NHƯ LAI,
Sao còn hỏi xuất mẫu thai làm gì?
Nguyệt luân biến hóa quang huy,
Thiên giang hữu thủy, cùng thì bóng in.
ĐỨC THÀNH
lại hỏi căn nguyên,
350- Đế vương ngộ đạo căn duyên như hà.
Này lời THÁI TÔN đưa ra,
LƯỠNG MỘC ĐỒNG HỎA đôi ta khác gì?
Đương cơ đối đáp thị thùy,
Thực tính ứng dụng đồng thì nhất ban.
355- Phóng ra bọc hết càn khôn,
Thâu lại, nhập nhất mao đoan những là.
MA HA BÁT NHÃ BA LA,
Tam thế chư PHẬT chứng đà nên công.
Bách giang vạn thủy triều đông,
360- Đáo ngộ giá lý, thực cùng tề nhau.
Phật tiên phật hậu trước sau,
BÁT NHÃ huyền chỉ, đạo mầu truyền cho.
Ai ai đạt giả đồng đồ,
Mỗi người mỗi có MINH CHÂU trong nhà.
365- Mùa xuân vạn vật khai hoa,
Cành cao, cành thấp vậy hòa chứng
nên...
Thật là những tư tưởng đẹp đẽ. Như vậy
theo các thiền sư Việt Nam, thì xưa nay không phải chỉ có một PHẬT NHƯ
LAI, mà đã có muôn vàn PHẬT NHƯ LAI. Hễ ai đạt đạo thì cũng là NHƯ LAI,
y thức như khi mùa xuân tới, muôn hoa đua nở, thời cành cao, cành thấp
dày đặc những hoa. Hoa cành trên, không vì ở cành trên mà hãnh diện. Hoa
cành dưới, không vì ở cành dưới mà bớt sắc hương.
Sau này, HUỆ TRUNG thượng sĩ truyền đạo
cho vua NHÂN TÔNG cũng chỉ dạy cho vua biết rằng: Phật chính là BẢN THỂ
con người, Phật chính là CHÂN TÂM con người hằng lồng trong con người và
hằng chiếu diệu hình hiện ra bên ngoài qua các cánh cửa ngũ quan. Chính
vì thế mà THIỀN TÔNG BẢN HẠNH đã chép:
468- HUỆ TRUNG trỏ bảo liền tay,
TỨC TÂM THỊ PHẬT xưa nay BỤT truyền
470- TÂM là BẢN THỂ, CĂN NGUYÊN,
TÂM là NHẤT Tự, pháp môn thượng thừa.
TÂM bao bọc hết THÁI HƯ.
TÂM năng ứng dụng tùy cơ trong ngoài.
475- Tâm hiện con mắt, lỗ tai,
Hay ăn, hay nói mọi bài khôn ngoan,
TÂM năng biến hóa chư ban,
Vạn pháp cụ túc lai hoàn NHƯ NHƯ.
NHÂN TÔN HOÀNG
Đế điều ngự,
Nghe HUỆ TRUNG thuyết, ngộ đà viên
thông...
Nếu BẢN THỂ hình hiện chiếu diệu qua ngũ
quan, khi ngũ quan bị kích thích tới mức cao độ, thì con người có thể
trong một phút giây, đi ngược lại đường của ngũ quan, mà bừng tỉnh, nhận
ra CHÂN TÂM BẢN THỂ ớ nơi mình... có vậy mới hiểu sao, sau khi nghe một
tiếng quát, sau khi mũi bị vặn, chân bị kẹp, mà có những thiền sư đã
giác ngộ, và cũng hiểu tại sao trong quyển kinh LĂNG GIÀ
(LANKAVATARA-SUTRA), tương truyền là do ĐẠT MA truyền sang TRUNG QUỐC,
để làm thánh điển cơ sở cho THIỀN TÔNG, đã có nói đến cách truyền pháp
(XEM QUYỂN HAI), không phải bằng ngôn ngữ, mà bằng nhìn ngó, hoặc dương
mày, hoặc trợn mắt, hoặc kêu, hoặc thổi, hoặc múa may v.v...
Nếu vậy, thì DIỆU ĐẠO chớ nên tìm ở TÂY
THIÊN, mà phải tìm ở quanh mình, mà phải tìm ở trong lòng mình.
Thiền sư NGUYỄN NGUYỆN HỌC (?-1174) viết:
Đạo ảnh vô tượng,
Xúc mục phi dao.
Tự phản suy cấu,
Mạc cầu tha đắc.
[17]
Dịch:
Đạo không hình bóng,
Trước mắt đâu xa.
Tìm tự lòng ta,
Chớ tìm chốn khác.
Nếu ĐẠO ở trong lòng ta, thì dĩ nhiên
hướng ngoại mà tìm cầu là ngoan si u tối. Người xưa đã nói:
Hướng ngoại tác công phu,
Tổng thị si ngoan hán.
Hướng ngoại làm công phu,
Đều là phường si ngốc...
Nếu ĐẠO ở sẵn trong lòng ta, thì PHẬT NHƯ
LAI hay Bồ Đề ĐẠT MA bất quá chỉ là những ngón tay ẤN Độ dùng để chỉ
trăng trong lòng con người. Ngón tay thời có sinh diệt, ngón tay thời có
hình tướng, nhưng CHÂN TÂM con người, thì làm gì có sinh diệt, làm gì có
sắc tướng, tượng hình. Mới hay:
CHÂN PHẬT VÔ HÌNH, CHÂN ĐẠO VÔ THỂ, CHÂN
PHÁP VÔ TƯỚNG.
[18]
Các vị THIỀN SƯ VIỆT NAM, khi đã biết rõ
mình có PHẬT TÍNH, liền ra công trừ khử ngũ uẩn, ra công trừ khử hình
tướng, vạn pháp biến thiên bên ngoài, cốt sao cho BẢN NGUYÊN CHÂN TƯỚNG
như khung trời muôn dặm hiển lộ ra, sau khi các áng mây mù dục vọng đã
biến tan đi. Chính vì thế mà trước khi băng hà, vua TRẦN NHÂN TÔN đã
phán dạy như sau:
Vạn Pháp bản lai chân không,
Chẳng mắc mớ PHÁP, mới thông lòng
THIỀN.
615- Đó là PHÁP TÍNH tự nhiên,
Bất sinh, bất diệt, bản nhiên làu làu.
Chư tổ phó chúc bấy lâu,
Ấy nghĩa mạt hậu để sau mà dùng...
Thiền sư PHAN THƯỜNG NGUYÊN (1110-1165)
đời Lý cũng viết:
Tại quang tại trần,
Thường ly quang trần.
Tâm phủ trừng triệt,
Dữ vật vô phân.
Thể vu tự nhiên,
BĂNG THANH dịch:
Gửi mình trong ánh sáng,
Gửi mình trong bụi trần.
Mà Thân không nhuốm bụi,
Mà ánh dương chẳng gần.
Tâm can thường trong suốt,
Vạn vật chẳng riêng thân.
Với tự nhiên là thể,
ứng vật diệu vô ngần.
Chính vì hiểu được rằng ai ai cũng có
PHẬT TÍNH trong mình, chính vì hiểu được rằng TU ĐẠO là DIỆT VỌNG TÂM,
KHỞI CHÂN TÂM, chính vì biết rằng lúc ĐẮC ĐẠO thì cũng ngang hàng với
CHƯ PHẬT, cho nên THIỀN TÔNG BẢN HẠNH mới viết:
Bách giang vạn thủy triều đông,
360- Ngộ đáo giá lý, thực cùng tề nhau.
(Nếu hiểu lẽ đó, thì mọi người đều bằng
nhau)
PHẬT tiền, PHẬT hậu trước sau,
BÁT NHÃ HUYỀN CHỈ đạo mầu truyền cho.
Ai ai đạt giả đồng đồ,
Mỗi người mỗi có MINH CHÂU trong nhà.
365- Mùa xuân, vạn thụ khai hoa,
Cành cao, cành thấp, vậy hòa chứng
nên.
Chính vì thế, mà các vị THIỀN SƯ VIỆT NAM
luôn giữ được tinh thần độc lập, và rất hiên ngang, không hề có tự ti
mặc cảm.
VÔ NGÔN THÔNG THIỀN SƯ đã làm bài kệ sau
đây:
Thiên hạ bốn phương lồng lộng
Huyên truyền bậy bạ rằng:
Thủy tổ ta ở TÂY THIÊN,
Đã truyền CHÁNH PHÁP NHÃN TÀNG,
Gọi là THIỀN.
Một đóa hoa năm cánh,
Hạt giống truyền nhau bất tuyệt.
Những lời mật ngữ, những đạo bùa pháp và
trăm nghìn thức rắc rối khác, đều gọi là tông chỉ của tâm,
Đều gọi là BẢN TÍNH THANH TỊNH,
Thực ra TÂY THIÊN là đâu?
TÂY THIÊN chính là đất này.
Mặt trời, mặt trăng chính là mặt trời, mặt
trăng hôm nay.
Hễ chấp vào thì liền bị kẹt,
Và vu oan cho cả PHẬT, cả Tổ,
Sai một ly, đi một dặm,
Ngươi nên quan sát vấn đề cho kỹ lưỡng,
Cẩn thận đừng nên đánh lạc hướng hậu lai.
Đừng hỏi ta nữa,
CHÂN NGUYÊN THIỀN SƯ, tác giả THIỀN TÔNG
BẢN HẠNH, chính vì hiểu rõ thế nào là BẤT NHỊ PHÁP MÔN (Thiên địa vạn
vật đồng nhất thể), nên đã can đảm coi vua TRẦN NHÂN TÔN là THÍCH CA tái
thế, PHÁP LOA là CA DIẾP, HUYỀN QUANG là A NAN.[21]
THIỀN SƯ viết:
Cho hay ĐỨC PHẬT THÍCH GIÀ,
Hóa thân ức bách, khắp hoà mười phương.
Hiện ra làm quyền đế vương,
740- Chí tôn Phật tổ, Giác Hoàng Quốc
Trung. (Chỉ TRẦN NHÂN TÔN)
Cơ duyên ứng xuất vương cung,
Cơ duyên mãn hạn, hội đồng LINH SAN.
CHÂN PHẬT nào có NIẾT BÀN,
Nghiêm chứng KHÔNG TỊCH, phục hoàn BẢN
NGUYÊN.
(Thiền Tông Bản Hạnh)
Ngài cũng như các THIỀN SƯ chân chính
khác khuyên ta:
Ai khôn chớ chạy TÂY, ĐÔNG,
Bôn trì NAM BẮC, luống công mê hồn.
Liễu ngộ BẤT NHỊ PHÁP MÔN,
750- CHÂN KHÔNG TỰ TÍNH, chẳng còn cầu
ai.
(Thiền Tông Bản Hạnh)
***
Trình bày các quan niệm của người xưa về
vũ trụ, về nhân sinh, về PHẬT TÍNH, về VỌNG TÂM, về cách tu chứng, và
liễu đạo của các Ngài, tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng: Các vị chỉ đề cao
PHẬT TẠI NƠI TÂM, chứ không đề cao PHẬT Tổ NHƯ LAI ở tại TÂY PHƯƠNG
THIÊN TRÚC, không thần thánh quá mức ĐỨC THÍCH CA, và cho rằng bất kỳ ai
khi đạt đạo, cũng như Ngài. Các Ngài đã phá chấp, phá mê, ung dung tự
tại tới một mức độ siêu việt. Và đây là khẩu khí của Nữ Thiền Sư LÝ NGỌC
KIỀU (DIỆU NHẪN) (1041-1113):
SINH, LÃO, BỆNH, TỬ,
Lẽ thường tự nhiên.
Muốn cầu siêu thoát,
Càng trói buộc thêm.
Mê phải cầu PHẬT,
Hoặc phải cầu THIỀN.
Chẳng cầu THIỀN, PHẬT,
Mím miệng ngồi yên.[22]
Một hôm, VIÊN CHIẾU thiền sư đang ngồi
trước thềm, chợt có một tăng đồ hỏi: «PHẬT và THÁNH nghĩa là thế nào?»
Sư đáp:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Trùng dương đến, cúc vàng dưới giậu,
Xuân ấm về, oanh náu đầu cành.
[23]
Cụ CAO XUÂN HUY, một học giả miền Bắc,
chú thích câu này như sau: «Một
nhà Thiền học đời Đường là Tông Mật đã phân tích và so sánh các phái
biệt của THIỀN TÔNG và đã chia làm bảy phái. Phái thứ tư gọi là TRỰC
HIỂN TÂM TÍNH TÔNG. Nó nêu lên cái nguyên lý XÚC LOẠI THỊ ĐẠO NHI NHẬM
TÂM, nghĩa là ở trong bất cứ cái gì cũng có ĐẠO (tức là PHẬT), trong cỏ
cây hoa lá đều có PHẬT TÍNH cả. Do đó, muốn tìm PHẬT, thì không phải tìm
đâu xa mà phải tìm ngay trong mọi vật xung quanh mình, và trong cái TÂM
của mình. Phải để cho cái TÂM của mình thoải mái tự do, thì mới hiểu
được ĐẠO.
«Trái với phái thứ ba cho rằng: NHẤT THIẾT
THỊ VỌNG, nghĩa là cái gì cũng là GIẢ. Phái này (tức là phái XÚC LOẠI
THỊ ĐẠO NHI NHẬM TÂM) chủ trương: NHẤT THIẾT THỊ CHÂN, nghĩa là cái gì
cũng là THậT. Do quan niệm trên, mà khi tăng đồ hỏi: PHẬT là gì, THÁNH
là gì, thì VIÊN CHIẾU đáp: Muốn biết PHẬT là gì, THÁNH là gì, chỉ cần
nhìn xem cây cúc dưới giậu trong tiết Trùng Dương, hay chim oanh ở đầu
cành trong một ngày xuân ấm áp. PHẬT và THÁNH xét về BẢN THỂ không khác
gì nhau cả. Quan điểm của phái này và TRANG TỬ có nhiều chỗ đồng nhất.»
[24]
Những ai không biết rằng ĐẠO lồng trong
vạn vật, mà cứ đi tìm nó ở chỗ xa xôi, huyền bí, đi tìm cái "HUYỀN CƠ",
thì cũng như người không biết cách bưng mâm nước, chỉ đưa đến chỗ đổ vỡ
mà thôi.
[25]
VIÊN CHIẾU THIỀN SƯ nói:
Bất thận thủy bàn kình mãn khứ,
Nhất tao tha điệt hối hà chi?
Mâm nước đầy bưng đi bất cẩn,
Vấp ngã rồi ân hận được sao?
[26]
Không biết lẽ THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT
THỂ, trước hết sẽ không hiểu được tinh hoa PHẬT GIÁO, sau nữa sẽ không
hiểu được THIỀN, rồi cứ soắn suýt vào các tiểu tiết, hôn trầm trong
những thói dị đoan, thật chẳng khác nào:
Rùa mù soi mãi vách non,
Ba ba khập khiễng leo hòn núi cao.
(Manh qui xuyên thạch bích,
Ba miết thượng cao sơn.)
[27]
Còn nếu ta biết lấy thuyết THIÊN ĐịA VẠN
VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ mà CHÂN NGUYÊN THIỀN SƯ gọi là BẤT NHỊ PHÁP MÔN, cũng
như các giáo sĩ BÀ LA MÔN gọi
là ADVAITA, thì trước hết ta sẽ hiểu được căn nguyên vũ trụ, nguồn gốc
quần sinh (CHÂN NHƯ, NHƯ LAI), hiểu được sự dị đồng giữa quần sinh.
Đồng là đồng về BẢN TÍNH, Dị là khác về
tâm tư, về trí lự, về hình hài, sắc tướng, biết được đâu là ĐẠO, đâu là
PHẬT (PHẬT là CHÂN TÂM, khuất lấp sau bức màn VỌNG TÂM) mà tìm về, để
rồi ra có thể THỂ NHẬP vào Đạo và PHẬT, như lửa phừng trong lửa, nước
hòa với nước, khí pha cùng khí... tìm ra được phẩm chất cao sang của
mình, tìm lại được cái ung dung thư thái cố hữu của mình, tìm ra được
BẢN LAI DIỆN MỤC của mình, phục hoàn được CHÂN NGUYÊN BẢN TÍNH của mình,
tìm ra được VÔ CỰC, THÁI CỰC theo từ ngữ NHO, LÃO mà bài Thanh Tu Thiền
thuyết đã vay mượn như ta đã thấy trên.
Sống trong thế giới HIỆN TƯỢNG BIẾN THIÊN,
tức là sống trong vòng SINH TỬ LUÂN HỒI, theo từ ngữ PHẬT GIÁO, hay
trong vòng TUẦN HOÀN BIẾN DịCH
theo từ ngữ NHO GIA. HẢI LƯỢNG THIỀN SƯ cho rằng nói LUÂN HỒI hay TUẦN
HOÀN cũng y thức như nhau.[28]
Mà sống trong vòng TUẦN HOÀN,
BIẾN THIÊN SINH DIỆT, trong vòng LUÂN HỒI, tức là sống trong vòng HIỆN
TƯỢNG SINH DIỆT, KHỐ ĐAU, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ.
Tu là làm sao SIÊU XUẤT ra khỏi vòng BIẾN
THIÊN, SINH TỬ, ra khỏi vòng BIẾN DỊCH NHỊ NGUYÊN, TƯƠNG ĐỐI, TƯƠNG ĐÃI,
để thực hiện được cái TÂM TỊCH DIỆT, cái NIẾT BÀN
TỊCH DIỆT. Thế là trở về được với CĂN NGUYÊN, thực hiện được BẤT NHỊ
PHÁP MÔN, mà BẤT NHỊ PHÁP MÔN là vô đối, là viên dung toàn mãn, siêu
xuất lên trên các cặp đối đãi HỬU và VÔ.
TRẦN NHÂN TÔN cho rằng còn nói HỮU, còn
nói VÔ tức là còn ở trong vòng THẾ GIỚI TƯƠNG ĐỐI, TƯƠNG ĐÃI, như vậy mà
cầu giải thoát, thì có khác nào rạch thuyền tìm gươm, vạch tranh tìm
ngựa, ôm cây chờ thỏ đâu.
[29]
Chính vì vậy mà tôi muốn kết thúc bài này
bằng bài BÁT BẤT KỆ của TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ:
PHÁP THÂN vô khứ diệc vô lai,
CHÂN TÍNH vô phi, diệc vô thị,
HỬU HỬU, Vô Vô, tất cảnh đồng,
PHIỀN NÃO, BỒ ĐỀ nguyên bất nhị.
BẤT SINH hoàn BẤT DIỆT,
VÔ THỦY diệc VÔ CHUNG.[30]
Tài liệu tham khảo
1. Tiêu biểu cho Phật Giáo thời Lý (1009-
1226)
Thơ văn Lý Trần tập I, nhà xuất bản
KHXH Hà Nội, 1972.
2. Tiêu biểu cho Thiền học đời Trần (1226-
1413)
Trần Thái Tông (1225- 1257)
Trần Anh Tông (1293- 1303)
Trúc Lâm Tam Tổ: Trần Nhân Tông; Pháp Loa;
Huyền Quang.
Phái Thiền Lâm Tế
Thiền Học Lâm Tế, thế kỷ XVII.
Thiền Tông Bản Hạnh, Thanh Hạnh
xuất bản, 1932, Hà Nội. Tác Giả Chân Nguyên Thiền Sư, tổ 74, phái Thiền
Lâm Tế, trụ trì chùa Long Động, núi Yên Tử.
Hiện Viện Đại Học Vạn Hạnh, 716 Võ Di
Nguy, Phú Nhuận, đã cho in lại bằng roneo, với lời giới thiệu, phiên
dịch và chú thích của GS Lê Mạnh Thát (1978) trong tập Chân Nguyên
Thiền Sư (1646- 1726) Tuyển tập.
3.Tiêu biểu cho Thiền Học cuối Thế Kỷ
XVIII, đầu Thế Kỷ XIX:
Thơ văn Ngô thời Nhậm (1746- 1803)
Tập I, Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, nhà XB KHXH, Hà Nội, 1978.
4. Tiêu biểu cho Thiền Học thế kỷ XIX.
Hồng Mông tạo hóa Chư Lục Bản Hạnh
hay Hồng Mông Hạnh (Chữ Nôm) khắc thời Minh Mệnh (1820- 1841).
Tác giả là Tì Kheo Giác Lâm, chùa Hồng
Phúc, phường Hòe Nhai, Hoài Đức phủ, Hà Đông. (Thư Viện Vạn Hạnh)
5. Tiêu biểu cho Thiền Học cuối XIX đầu
XX:
a)Tu Chân yếu Chỉ Quốc Âm (chữ Nôm)
gồm:
Thiền cơ vịnh (khuyết danh)
Bát Nhã Ngộ Đạo Văn. Tác Giả: Đặng
Lão Sư.
Thanh Tu Thiển Thuyết. (khuyết
danh)
Khắc do Đăng Ấp, Mạc Khanh Thị, tại Hàm
Dưỡng Tịnh Xá, Hội An. Khắc in năm Bảo Đại, Canh Ngọ (1939). Trước khi
sang Mỹ, tôi đã tặng sách này cho Thư Viện Vạn Hạnh.
b) Nẻo vào Thiền Học,
Nhất Hạnh, Lá Bối, Sài Gòn, 1971.
CHÚ THÍCH
[1] Sau khi
HUỆ NĂNG mất, Thiền Tôn phát triến thành năm phái hay năm nhà (Ngũ gia
tôn phái).
Đó là phái LÂM TẾ của NGHĨA HUYỀN (?-866)
Phái QUI NGƯỠNG của LINH HỰU (771-859) và
HUỆ TỊCH (807-883)
Phái TÀO
ĐỘNG của LƯƠNG GIỚI (807-869) và BẢN TỊCH (840-901)
Phái VÂN MÔN của VĂN YẾN (862-949)
Và Phái PHÁP NHÃN của VĂN ÍCH (885-959)
[2] Xem Thơ
văn NGÔ THÌ NHẬM, tr. 48, chú 1.
[3] Xem thêm
Nhất Hạnh, Nẻo vào Thiền Học, tr. 156.
[4] Xem Thơ
Văn Ngô Thời Nhậm, tr. 48.
[5] Xem sách
đã dẫn, tr. 4b, và 5a.
[6] Thiền
Đạo Tuyển Yếu, tr. 29.
[7] Thơ Văn Lý
Trần, tr. 58-59.
[8] Thơ Văn
Lý Trần tr. 459, dòng 5.
[9] Văn Thơ
Lý Trần, tr. 401-410.
[10] Văn
thơ Lý Trần, tr. 304. Thiền sư CHÂN KHÔNG, VƯƠNG HẢI THIỀM
10/6-1100.
[11] Tì Lư hay
Tì Lư GIÁ NA theo PHẬT GIÁO, thì chính là CĂN NGUYÊN VŨ TRỤ. NHẤT THÍCH
là MỘT GIỌT. Chỗ này thì Tì Lư cũng có nghĩa tương tự như THÁI CỰC.
[12] Quyễn
Hồng Mông Bản Hạnh hay Hồng Mông tạo hóa Chư Lục Bản Hạnh hiện Trung Tâm
Nghiên Cứu Phật Giáo Vạn Hạnh, thành phố Hồ Chí Minh có bản chữ Nôm.
[13] Thơ
Văn Lý Trần, tr. 427.
[14] Thi văn
NGÔ THÌ NHẬM tr. 109.
[15] Thi Văn
NGÔ THÌ NHẬM, tr. 109-110.
[16] Thiền đạo
tuyển yếu, tr. 23.
[17] Thơ
văn Lý Trần, tr. 501.
[18] Thiền
đạo tuyển yếu, tr. 2.
[19] Thơ
văn Lý Trần, tr. 76.
[20] Nẻo vào
Thiền Học, tr. 108-109.
[21] Xem
CHÂN NGUYÊN THIỀN SƯ, Tu Thư VẠN HẠNH, 1978, tr. 24.
[22] NGUYỄN
ĐỨC VÂN, Đào Phương bình dịch, Thơ Văn LÝ TRẦN, tr. 340.
[23] Thơ
văn Lý Trần, tr. 267-281.
[24] Thơ văn
Lý Trần, trang 290, chú 3.
[25] CAO XUÂN
HUY chú, Thơ Văn Lý Trần, tr. 290, chú 4.
[26] Thơ
Văn Lý Trần, tr. 267-281.
[27] Thơ
Văn Lý Trần, Viên Chiếu, tr. 274-282.
[28] Xem
Thơ Văn NGÔ THÌ NHẬM, tr. 162-163.
[29] Xem kệ
THUYẾT HỮU, THUYẾT VÔ của TRẦN NHÂN TÔN, trong THƠ VĂN NGÔ THÌ NHẬM, tr.
185-186.
[30] Thơ
văn NGÔ THÌ NHẬM, tr. 188, chú 1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét