Có lẽ việc đề cao phẩm giá người mẹ lên địa vị Phật đang sống trong nhà ở một vài quốc gia theo Phật giáo như Sri-Lanka chẳng hạn, cho thấy Phật giáo luôn kính trọng và quý mến phụ nữ.
Thân phận của người phụ nữ
trong xã hội trọng nam khinh nữ thời đức Phật tại thế, được Ngài đề cập
trong nhiều bài thuyết pháp khác nhau. Nơi mà một bé gái sinh ra bị xem
là một thảm họa, đức Phật đã dạy rằng: “Có một số thiếu nữ, thưa đức
vua, đôi khi còn tốt hơn con trai. Vì thiếu nữ ấy khi trưởng thành, có
trí tuệ và đức hạnh, được cha mẹ chồng vị nể. Rồi sinh được con trai, là
anh hùng quốc chủ của một quốc gia”(1). Ngài đã nói lời này cho đức Vua
Pasedani nước Kosala, người đang thất vọng vì nghe tin hoàng hậu hạ
sanh công chúa.
Theo tư tưởng Phật giáo, người phụ nữ
không được xem như là một phần của người chồng, cũng hoàn toàn không
phải là tài sản hay thuộc sở hữu của người chồng. Phật giáo giải phóng
phụ nữ thoát khỏi tình trạng vật sở hữu để tồn tại một cách độc lập
trong xã hội. “Phật giáo cho rằng, những người phụ nữ như: Người độc
thân, có chồng, góa phụ thì không có giới hạn về quyền và bổn phận của
họ đối với việc sinh con hay nuôi con, và họ là một phần không thể tách
rời của xã hội”(2).
Chức năng làm mẹ là bản chất đặc trưng
của tất cả giống cái, là thiên chức của người phụ nữ. Một cô gái trẻ sẽ
trở thành người mẹ tương lai, rồi có người đang làm mẹ và những người đã
làm mẹ. Thậm chí, ngay cả người không thể có con thì họ vẫn có đó thiên
chức làm mẹ. Do vậy, đối với những phụ nữ độc thân vẫn được xã hội kính
trọng như bao phụ nữ khác.
Đức Phật dạy rằng, phụ nữ cũng có khả
năng chứng quả giải thoát như nam giới. Một lần nọ, Ngài đã trả lời về
câu hỏi có liên quan đến phụ nữ của vị thị giả Ānanda:
“Này Ānanda, chư Phật ra đời không chỉ
đem lại lợi ích cho nam giới mà còn đem lại lợi ích cho nữ giới. Khi Ta
thuyết kinh Tiro Kudha, đã có nhiều phụ nữ chứng ngộ đạo quả. Hay khi
nói kinh Adhidhamma ở Tantía, có nhiều phụ nữ thuộc giai cấp cùng đinh
chứng quả, chứ không phải những phụ nữ thuộc giai cấp cao hơn như thương
gia hay Sát-đế-lợi. Cánh cửa giải thoát rộng mở cho nam lẫn nữ giới mà
không có bất cứ sự phân biệt nào”(3).
Khi chồng của mình xuất gia trở thành
một vị tỷ kheo trong Tăng đoàn của Phật, người vợ đó đã từng cảm thán
như sau: “Đức Phật hiện ra nơi đời không chỉ lợi ích cho nam giới mà còn
cho cả nữ giới chúng tôi”(4).
Cả nam và nữ đều có thể chứng đắc thánh
quả khi thực hành theo lời Phật dạy. Giải thoát tối hậu không là đặc
quyền cho bất kỳ giới tính nào. “Như cỗ xe chở người, bất luận nam hay
nữ. Cũng thế, chiếc xe chánh pháp chờ đón họ thẳng tới niết bàn”(5).
Tỷ kheo ni Somā, người từng bị Ác ma
quấy nhiễu khi đang thiền định. Ác ma đã lầm khi coi thường khả năng về
chứng đắc thánh quả của bà. Ác ma khinh khỉnh:
“Địa vị khó chứng đạt,
Chỉ thánh nhân chứng đạt,
Trí nữ nhân hai ngón,
Sao hi vọng chứng đạt”.
Vị tỷ kheo ni Somā từ tốn ngâm kệ đáp rằng: “Nữ tánh chướng ngại gì,
Khi tâm khéo thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu”(6).
Lời lẽ khinh thị nữ giới của Ác ma rõ
ràng lặp lại niềm tin của thời kỳ đó là phụ nữ bị cho là rất hạn chế về
khả năng phát triển về tinh thần.
Lúc bấy giờ, mặc dù Ấn độ là một xã hội
trọng nam khinh nữ, nhưng trong các kinh điển của Phật giáo, không đề
cập đến sự phân biệt giới tính trẻ con(7). Các tu sĩ Phật giáo không
thừa nhận việc con trai nối dõi tông đường khi cha chết như các tu sĩ
Bà-la-môn. Trong văn học Phật giáo cũng đề cập đến chuyện nhận bé gái
làm con nuôi, và người mẹ nuôi đã dành tình thương cho đứa con nuôi như
con đẻ của mình: “Này con gái, trước đây là con của Ngài đại phú
Bhaddhvattiya; nhưng kể từ hôm nay, con sẽ trở thành đứa con gái ngoan
của ta”(8).
Người phụ nữ đến tuổi phải lấy chồng và
sinh con. Người phụ nữ độc thân bị khinh thường trong xã hội Ấn Độ thời
ấy. Kinh Mi Tiên Vấn Đáp, một bộ kinh thuộc giai đoạn sau, đã phản ảnh
như sau: “Tâu Bệ hạ, trên thế gian này có mười hạng người đáng bị khinh
miệt, chỉ trích, chê trách; trong đó phụ nữ không chồng là một trong
mười hạng người này v.v..”. Nhưng nội dung giáo điển của Phật giáo thì
phản đối quan điểm này. Với sự ảnh hưởng của Phật giáo, phụ nữ độc thân
có thể không bị thành kiến, sống chan hòa, vui vẻ, bình đẳng với mọi
thành viên gia đình; chăm sóc cha mẹ, trông nom em trai và em gái của
mình. Sự thành lập Ni đoàn đã làm tăng thêm giá trị của nữ giới đặc biệt
là các phụ nữ độc thân. Khả năng được chấp nhận gia nhập Ni đoàn mở ra
cho những phụ nữ này một chân trời mới.
Phụ nữ dường như phải lấy chồng ở độ
tuổi từ mười sáu đến hai mươi. Thời đó, việc tảo hôn, Phật giáo không
bao giờ chấp nhận, rất phổ biến trong xã hội. Tính độc lập của người phụ
nữ được nâng cao trong thời đức Phật, thậm chí vai trò mang tính truyền
thống của người cha là kén rể cho con gái, bất luận con mình có thích
hay không, đã bị suy giảm đáng kể.
Một điểm thú vị để nói ở đây là Phật
giáo khuyến khích việc tặng của hồi môn cho con gái khi đám cưới. Của
hồi môn này là tài sản riêng của cô dâu và không bao giờ được xem như là
cái giá mà gia đình cô dâu phải trả cho bên gia đình nhà chồng, cũng
như không bao giờ giao hết cho gia đình nhà chồng. Của hồi môn là của để
dành, sẽ giúp người vợ một khi cần dùng đến. Trong kinh có ghi lại việc
những người phụ nữ đã trao lại của hồi môn này cho chồng mình trước khi
xuất gia(9). Thực tế cũng cho thấy, mặc dù đã lấy chồng, nhưng của hồi
môn hay tài sản riêng tư của người phụ nữ luôn là một phần thiết yếu của
họ.
Tư tưởng Phật giáo nói rằng, không có sự
phân biệt về giới tính trong mức độ chứng đắc Thánh quả hay mức độ phát
triển tinh thần. Cấp độ chứng đắc Thánh quả của nữ giới không khác với
những gì mà nam giới đạt được. Vào thời đó, khi tỷ kheo ni Mahā Pajāpati
Gotami sắp tịch diệt, đức Phật đã tán thán như sau: “Này Gotami, hãy
thể hiện thần thông để đập tan những tư tưởng sai lầm của những kẻ ngu
si đang nghi ngờ về khả năng chứng đắc Thánh quả của nữ giới”(10). Những
lời tán dương trên của đức Phật có giá trị như là một bằng chứng chứng
tỏ sự xem trọng khả năng của nữ giới ngang bằng với nam giới. “Với một
sự hiểu biết sâu sắc, đức Phật xác định đặc điểm giá trị của nữ giới và
đặt giá trị này một cách hài hòa vào trong cơ cấu xã hội”.
Người phụ nữ là một thành viên dễ mến
trong gia đình, nắm giữ nhiều mối quan hệ, và được các đứa con yêu quý
của mình kính trọng và thương yêu. Đức Phật cho rằng giới tính không
quan trọng trong các vấn đề như nhân cách và vai trò trong xã hội, thậm
chí, người phụ nữ có thể cạnh tranh được với đàn ông(11).
Trong gia đình, tình yêu được xem là vấn
đề then chốt trong cuộc sống vợ chồng. Vợ chồng phải chung thủy với
nhau. Trong công việc, vai trò của vợ và chồng phải hỗ tương lẫn nhau.
Người chồng phải tin tưởng nơi vợ mình và xem vợ mình như “vị thần”
trong gia đình. Ngược lại, người vợ phải có trách nhiệm chăm sóc tổ ấm
của mình. Giúp con cái hòa nhập với xã hội là một trong những khía cạnh
quan trọng về vai trò của người mẹ. Người vợ là người bạn đời chung thủy
nhất của người chồng. “Một người vợ chỉ biết sợ chồng, phục tùng chồng
thì không phải là người vợ thật sự”. “Món quà quý giá nhất của đàn ông
trên trái đất này chính là có được người vợ tốt”.
Vai trò giới tính của phụ nữ được nhấn
mạnh trong mối quan hệ với người chồng. “Tất cả năm thứ giác quan làm
thỏa mãn tâm ý của đàn ông đều tập trung vào ngoại hình của người phụ
nữ”(12). Bổn phận và nhu cầu về quan hệ vợ chồng là bình đẳng. Vì thế,
việc quan hệ trước hôn nhân được xem là không thích hợp, cũng như sau
khi đã kết hôn, chung thủy được xem là đức tính cần được giữ gìn, không
nên vi phạm. Sự chung thủy không phải chỉ xuất phát từ phía người vợ.
Người chồng chỉ nên thỏa mãn nhu cầu về ‘quan hệ’ với vợ mình, không
được trăng hoa với phụ nữ khác; và ngược lại, người vợ cũng như thế.
Người vợ nên hiểu rằng, giúp chồng thỏa mãn nhu cầu ‘quan hệ’ là bổn
phận của mình. Nếu không, người chồng sẽ khó giữ chung thủy với vợ mình
và tìm kiếm người đàn bà khác, điều đó sẽ hủy hoại thanh danh và đổ vỡ
hạnh phúc gia đình.
Trong xã hội thời đức Phật, những bà góa
phụ rất đáng thương hại. Đức Phật dạy không nên đưa ra bất kỳ lý do nào
để lăng mạ hay xỉ nhục những người góa phụ, thậm chí cũng không được
gán cho họ biểu tượng như là phụ nữ vận đen. Trong giáo lý Phật giáo
cũng không chấp nhận việc hạn chế các quyền lợi của người góa phụ như
mất quyền thừa kế tài sản, bảo vệ tài sản hay không được tham gia các lễ
hội v.v.. Phật giáo cho rằng, người góa phụ có quyền tái hôn, và nếu
muốn, họ có thể xuất gia trở thành tỷ kheo ni trong giáo đoàn của đức
Phật.
Trong văn học Phật giáo, chúng ta có thể
bắt gặp những người phụ nữ bằng năng lực tinh thần và trí tuệ của mình
đã chứng quả giải thoát. Các vị tỷ kheo ni như Mahā Patāpati Got- ami,
Yasodharā, Utpalavannā, Kisāgotami và Patācārā là những người nằm trong
số Thánh đệ tử Ni của đức Phật. Họ là những người phụ nữ đã phát triển
về trí thức và tinh thần, tất cả sự chứng ngộ hay thành tựu của họ đều
ngang bằng với thành quả cao nhất của nam giới.
Một vài vị tỷ kheo ni được đức Phật công
nhận đứng đầu trong một lĩnh vực chứng đắc nào đó giống như cách mà các
vị tỷ kheo tăng được công nhận. Tỷ kheo ni Dhammadinnā được đức Phật
công nhận là thuyết pháp đệ nhất trong hàng ngũ Ni chúng, tỷ kheo ni
Bhaddakapilā đệ nhất về túc mạng trí, tỷ kheo ni Sukulā đệ nhất về thiên
nhãn, tỷ kheo ni Sonā đệ nhất về tinh tấn v.v...
Nữ học giả Horner(13) đã đưa ra một kết
luận rất thâm thúy về địa vị của người phụ nữ trong tư tưởng Phật giáo
qua những dòng đáng nhớ sau: “Từ những chứng cứ tồn tại trong văn học
Phật giáo, chúng ta có thể nói rằng vị trí của nữ giới trong xã hội Ấn
Độ thời đức Phật rất đáng ganh tỵ, rất đáng tôn kính mà trước thời kỳ
này chưa hề có. Người phụ nữ và những góa phụ đã không còn bị xã hội
khinh rẻ hay bị xem là nỗi thất vọng của gia đình. Họ đáng nhận được
nhiều kính trọng hơn và xác lập được địa vị cá nhân mình trong xã hội.
Họ có được tự do và độc lập hơn để tự quyết định cuộc sống cá nhân
mình”.
‘Nô lệ’ hay người đày tớ là một hiện
tượng không xa lạ trong xã hội Ấn Độ thời đức Phật. Một cách hiển nhiên,
họ bị xem như là tài sản của chủ nhà. Phật giáo không chấp nhận việc
chiếm hữu nô lệ và kêu gọi quyền tự do cho các nữ đày tớ. Thời đó, có
những đày tớ như là bà Khujjuttarā (nữ cư sĩ được đức Phật tán dương là
đệ nhất Thanh văn trong hàng nữ cư sĩ)(14) không chỉ được tự do sau khi
chuyển đổi từ đạo khác sang đạo Phật mà địa vị xã hội và tinh thần của
bà còn được nâng cao hơn vì được Hoàng hậu Sāmāwathi tín nhiệm.
Những phụ nữ hành nghề gái điếm cũng
được xuất gia trong giáo đoàn Ni chúng của đức Phật. Một trong số đó có
những vị sau này trở thành nữ đệ tử xuất sắc của đức Phật như:
Padumāwati, Addhakāsi và Ambapāli. Trong kinh có mô tả về lầu xanh hạng
sang do một người tên là Kāli làm chủ: “Ở lầu xanh này, toàn là những
thương gia giàu có, hay các bậc quyền quý lui tới, mỗi lần như thế, họ
phải chi trả hàng ngàn đồng tiền vàng để vui chơi. Họ phải chi năm trăm
đồng tiền vàng để bao một người đẹp, năm trăm đồng khác chỉ để thuê quần
áo bận qua đêm, nước hoa và vòng hoa thơm. Sáng hôm sau, họ phải trả
lại trang phục đã thuê và ra về với quần áo đã bận khi đến”(15).
Tám bổn phận và khả năng sau mà một nữ
cư sĩ Phật giáo nên tu tập để làm tròn hai vai trò cao quý là làm mẹ và
làm vợ của mình trong một gia đình(16):
1. Sắp xếp các việc trong gia đình một cách hiệu quả.
2. Quan tâm đến người phục dịch.
3. Cố gắng làm vui lòng chồng.
4. Khéo bảo quản tài sản mà chồng kiếm được.
5. Có niềm tin vào tôn giáo.
6. Giữ gìn tiết hạnh.
7. Tốt bụng và
8. Rộng lượng.
Có những nghi vấn đặt ra xung quanh vấn
đề tại sao đức Phật một mặt thừa nhận phụ nữ có khả năng thành tựu về
mặt tinh thần như nam giới nhưng mặt khác đã cố ý trì hoãn việc cho họ
xuất gia. Để hiểu được điều này, trước hết chúng ta nên bình tâm để nhớ
lại quan niệm xã hội đối với người phụ nữ trong xã hội Ấn Độ thời bấy
giờ.
Luật Manu(17) nói rằng: “Ngày cũng như
đêm, người phụ nữ phải nương tựa vào những người đàn ông thân quyến
trong gia đình. Nếu tham gia vào những hoạt động vui chơi, họ cũng phải
chịu sự kiểm soát. Khi còn bé, người cha sẽ bảo vệ họ, sau khi lấy
chồng, người chồng sẽ bảo vệ họ, và khi già, con trai sẽ bảo vệ họ;
người phụ nữ không bao giờ có quyền tự chủ hay độc lập”.
Công luận xã hội thời đức Phật ảnh hưởng
nặng nề bởi những loại quan niệm này. Là người thực tế, Ngài luôn đặc
biệt chú ý đến dư luận trước khi bắt đầu xúc tiến các bước cải cách.
Điều này thể hiện rõ trong cách mà đức
Phật ban hành giới luật. Đa số các điều luật được ban hành là do sự thúc
đẩy, đề nghị của công chúng. Khi phụ nữ yêu cầu được xuất gia, có lẽ
đức Phật đã suy nghĩ về thái độ tiêu cực của dân chúng đối với việc đổi
mới này. Biện pháp nào tốt nhất để thay đổi thái độ này nhằm tạo thuận
lợi cho các bước cải cách như thế?
Phản ứng của xã hội về điều này chính là
mối bận tâm của đức Phật. Vì rằng, sự tồn tại của hai chúng xuất gia tỷ
kheo và tỷ kheo ni phụ thuộc vào sự ủng hộ của người thế tục - nam, nữ
cư sĩ - không có họ, cộng đồng xuất gia Phật giáo không thể hoạt động
được.
Khi người mẹ kế và người vợ thời đức
Phật chưa xuất gia, cùng với những người phụ nữ trong hoàng tộc họ Thích
đến cầu xin xuất gia, Ngài liền từ chối. Sau đó, họ bắt đầu cuộc hành
trình dài đi từ thành thị này đến thành thị khác. Người dân nơi họ đi
qua cảm thấy xúc động khi nhìn cảnh tượng này. Người dân tự hỏi: “Phải
chăng người phụ nữ đi đầu là dì mẫu của Thái tử Siddhārta khi mẹ ruột
của Ngài qua đời. Bà đã chăm sóc thái tử như con đẻ của mình. Và kia có
phải là công chúa Yosodharā, vợ của thái tử Siddhārta? Những người phụ
nữ quý tộc này rất buồn vì không được xuất gia trong giáo Pháp của đức
Phật. Tại sao đức Phật không cho họ xuất gia?
Sau đó, Tôn giả Ānanda, vị đệ tử thị giả
hỏi đức Phật phải chăng người phụ nữ không có khả năng chứng ngộ giải
thoát như nam giới, thì Ngài trả lời rằng phụ nữ có thể chứng ngộ giải
thoát như nam giới(18). Dường như thái độ miễn cưỡng ban đầu của đức
Phật để tạo ra một không khí hệ trọng trước khi thực hiện các bước kế
tiếp. Kinh sách ghi lại rằng, đức Phật đã từ chối đến lần thứ ba nguyện
vọng xin xuất gia của dì mẫu và đoàn tùy tùng.
Đức Phật thường đo lường thái độ của
công chúng và điều này thể hiện rõ trong một số điều luật được ban hành
để Tăng chúng thực hiện. Ví dụ rõ ràng nhất đối với điều này chính là
luật về thông tin được công bố để chống lại Devadatta. Một nhóm tỷ kheo
dẫn đầu bởi hai vị đệ tử lớn nhất của đức Phật là Tôn giả Sāriputta và
Tôn giả Moggalāna được phái đi tới thành Rājagaha để báo cho dân chúng
biết hành động này, nghĩa là tìm kiếm sự ủng hộ của dân chúng, nếu không
có sự ủng hộ của công chúng thì không thể thực hiện hành động trên. Hay
như trong trường hợp một cô gái trẻ bị phần tử đối lập Phật giáo mưu
sát trong khuôn viên tu viện, đức Phật đã dạy các tỷ kheo cung cấp sự
thật cho công luận biết để họ hiểu. Hay như việc đức Phật cố tình cư trú
trong rừng Pārileyya nhằm thúc đẩy dư luận lên tiếng chống lại hai bè
phái tỷ kheo mải mê cãi cọ, tranh luận không nghe lời khuyên của Ngài.
Một khi công luận đã có cái nhìn thiện
cảm đối với việc đi bộ một quãng đường dài để cầu xin xuất gia của quý
bà dòng họ Thích-ca, thì đó chính là cơ hội tốt để đức Phật cho phép
thành lập Ni chúng. Các nhà nghiên cứu về xã hội học không dễ dàng bỏ
qua việc tìm hiểu động cơ của đức Phật khi Ngài ba lần từ chối cho phụ
nữ xuất gia. Ngài biết rằng, sự từ chối của Ngài sẽ khiến cho họ càng
thêm quyết tâm thực hiện cuộc tuần hành, và chính cuộc tuần hành đó đã
gây thiện cảm đến người dân, thúc đẩy một sự hưởng ứng công khai và tích
cực.
Một lý do khác cho việc miễn cưỡng chấp
nhận nữ giới xuất gia chính vì có liên quan tới vấn đề tổ chức một đoàn
thể Tăng già (bao gồm cả tỷ kheo tăng và tỷ kheo ni); “Dường như đức
Phật rất thận trọng khi chấp nhận cho nữ giới xuất gia, vì rằng điều này
có liên quan đến vấn đề tổ chức cộng đồng thành một đoàn thể thống
nhất. Rõ ràng là Ngài đã gặp sự chống đối mạnh mẽ về lập trường giải
phóng phụ nữ. Nhưng vì quan tâm đến lợi ích chung của một đoàn thể thanh
tịnh, hạt nhân của một tổ chức tôn giáo, phụ nữ chắc chắn phải chịu hi
sinh một số mặt nào đó, thậm chí phải từ bỏ những gì có vẻ như là quyền
lợi chính đáng của họ. Ta thấy rõ điều này qua Bát-kỉnh-pháp như là
những điều kiện cần thiết mà đức Phật quy định trước khi chấp nhận họ
vào đoàn thể xuất gia”(19).
Nhìn vấn đề từ nhiều góc cạnh khác nhau,
người ta có thể đưa ra những lời giải thích hợp lý cho thái độ miễn
cưỡng của đức Phật trong việc thành lập Ni chúng. Có lẽ chính bà dì mẫu
Mahāpajāpati là người đưa ra lời phản đối lập tức vì bà đã quen với một
cuộc sống giàu sang phú quý, chưa bao giờ quen với việc khổ cực, và trên
hết, không thể tưởng tượng được việc một hoàng hậu cao quý lại có thể
đi khất thực từng bữa ăn. Có thể chính vì lòng bi mẫn mà đức Phật từ
chối cho bà xuất gia, vì Ngài không đành lòng để bà chịu đựng một cuộc
sống khó khăn nơi hoang vắng(20).
Trong số các nguyên nhân được đưa ra
trong vấn đề này, còn có một nguyên nhân quan trọng khác là sự an toàn
của phụ nữ. Cho phép phụ nữ xuất gia, sống đời sống không nhà thì đòi
hỏi phải có rất nhiều những biện pháp phòng ngừa và bảo vệ. Phụ nữ luôn
là nỗi thèm khát dục vọng của cánh mày râu, vì thế nguy hiểm luôn thường
trực bên họ. Đức Phật rất lo về vấn đề này (21).
Phụ nữ được xem như nhân vật không thể
thiếu trong việc nội trợ gia đình. Nếu cho phép họ xuất gia thì sẽ có
rất nhiều phụ nữ khác cũng xin xuất gia, điều đó gây ra một số vấn đề
nghiêm trọng. Gia đình sẽ mất đi rường cột và ngay cả Tăng chúng cũng
mất đi sự hỗ trợ của các nữ thí chủ vì sự hiện diện của phụ nữ trong gia
đình đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ
như cúng dường thực phẩm cho Tăng chúng.
Rõ ràng rằng, sự lần lữa đối với việc
thành lập Ni chúng của đức Phật không phải vì quan niệm về vị trí thấp
hèn trong xã hội của người phụ nữ. Phật giáo đặt vị trí của người mẹ và
người cha ngang bằng nhau khi so sánh với trời. Có lẽ việc đề cao phẩm
giá người mẹ lên địa vị Phật đang sống trong nhà ở một vài quốc gia theo
Phật giáo như Sri-Lanka chẳng hạn, cho thấy Phật giáo luôn kính trọng
và quý mến phụ nữ.
Trích từ cuốn sách: Xã Hội Học Phật Giáo (Buddhist Sociology) - Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, chương VI: Phụ nữ và Xã hội
Chú thích: * Tiêu đề đăng trên www.phatgiao.org.vn do BBT đặt
Trích từ cuốn sách: Xã Hội Học Phật Giáo (Buddhist Sociology) - Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, chương VI: Phụ nữ và Xã hội
Chú thích: * Tiêu đề đăng trên www.phatgiao.org.vn do BBT đặt
Tác giả: Nandasena Ratnapala
Người dịch: Thích Huệ Pháp
Người dịch: Thích Huệ Pháp
--------------------------------------------------------------------------------
1. KS.I, iii
2. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930; 3
3. Rhys David’s The Psalms of the Early Buddhists, XXV, Intro
4. A A I, 176
5. S, I, 5; M.I, 165.
6. S.I, 129 – theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
7. S.I, 323
8. VIN. IV, 108; DhA I, 187
9. Therigathā Commentary XXXVII
10. Quoted by Dhirasekera, Sambhāsā, 1991, 299
11. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā. 1991, 297
12. A. III, 69
13. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930;82.
14. DhA. Verses 21-23
15. Dha. Verse 3; Cf.J. 318, 481
16. A. IV, 271
17. IX, 2 (Luật Manu là những điều răn của Thánh Manu về hành vi, lẽ sống, được viết vào khoảng từ thế kỉ thứ II trước Công Nguyên đến cuối thế kỉ II sau Công Nguyên. Đây là một trong những sử liệu quan trọng nhất về xã hội và nhà nước Ấn Độ cổ đại. Toàn bộ Đạo luật có 2.685 điều; trích từ: Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam – người dịch chú thích thêm).
18. A IV, 278; Vin II, 284
19. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā, 191; 301
20. Kabil Singh., Bhikkhu Pātimokkha, Varanasi, 1983, 24
21. Op.cit. 25-26
2. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930; 3
3. Rhys David’s The Psalms of the Early Buddhists, XXV, Intro
4. A A I, 176
5. S, I, 5; M.I, 165.
6. S.I, 129 – theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
7. S.I, 323
8. VIN. IV, 108; DhA I, 187
9. Therigathā Commentary XXXVII
10. Quoted by Dhirasekera, Sambhāsā, 1991, 299
11. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā. 1991, 297
12. A. III, 69
13. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930;82.
14. DhA. Verses 21-23
15. Dha. Verse 3; Cf.J. 318, 481
16. A. IV, 271
17. IX, 2 (Luật Manu là những điều răn của Thánh Manu về hành vi, lẽ sống, được viết vào khoảng từ thế kỉ thứ II trước Công Nguyên đến cuối thế kỉ II sau Công Nguyên. Đây là một trong những sử liệu quan trọng nhất về xã hội và nhà nước Ấn Độ cổ đại. Toàn bộ Đạo luật có 2.685 điều; trích từ: Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam – người dịch chú thích thêm).
18. A IV, 278; Vin II, 284
19. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā, 191; 301
20. Kabil Singh., Bhikkhu Pātimokkha, Varanasi, 1983, 24
21. Op.cit. 25-26
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét