Chúng ta thử đặt lại câu hỏi: “Trong Ngũ thừa Phật giáo, hệ thống Bát-nhã thuộc thừa nào?” Nắm được chỗ đứng của Bát-nhã, chúng ta mới hiểu Bát-nhã. Ngũ thừa Phật giáo gồm có: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa, Thiên thừa dạy chúng sanh tu để được trở lại làm người hay sanh lên cõi trời. Thanh văn thừa, Duyên giác thừa dạy chúng sanh tu chứng Tứ quả A-la-hán, quả Duyên giác. Kinh Bát-nhã thuộc về Bồ-tát thừa, qua cả Thanh văn, Duyên giác đi thẳng tới Bồ-tát, cao như thế.
Chúng ta thử đặt lại câu hỏi: “Trong Ngũ thừa Phật giáo, hệ thống Bát-nhã thuộc thừa nào?”
Nắm được chỗ đứng của Bát-nhã, chúng ta mới hiểu Bát-nhã. Ngũ thừa Phật
giáo gồm có: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và
Bồ-tát thừa. Nhân thừa, Thiên thừa dạy chúng sanh tu để được trở lại làm
người hay sanh lên cõi trời. Thanh văn thừa, Duyên giác thừa dạy chúng
sanh tu chứng Tứ quả A-la-hán, quả Duyên giác. Kinh Bát-nhã thuộc về
Bồ-tát thừa, qua cả Thanh văn, Duyên giác đi thẳng tới Bồ-tát, cao như
thế.
Hiểu
vậy khi học kinh chúng ta mới thấy ý nghĩa cao siêu của kinh. Kinh
Bát-nhã có sau hệ thống kinh A-hàm. Mở đầu bài Bát-nhã, Phật nói: -
Bồ-tát Quán Tự Tại hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ
uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.Đối với Bồ-tát thừa, Phật nói
thẳng ngũ uẩn giai không. Để cho quí vị dễ hiểu, chúng tôi nhắc lại hệ
thống A-hàm. Kinh A-hàm, Phật tùy thuận chư thiên mời thỉnh dùng phương
tiện giáo hóa. Bởi vì khi thành đạo rồi, Ngài do dự không muốn đi giảng.
Ngài tự than giáo lý của ta thấy, ta ngộ, nói ra không ai hiểu nên
không muốn giáo hóa. Do đó chư thiên hiện ra, đảnh lễ cầu Phật dùng
phương tiện giáo hóa chúng sanh. Đức Phật nhận lời, sau đó Ngài quán sát
những chúng sanh nào có duyên với Ngài thì hóa độ.
Hội
ban đầu ở vườn Lộc Uyển, Phật nói kinh Tứ đế. Đó là Ngài dùng phương
tiện giáo hóa, chớ chưa phải chỉ lẽ thật Ngài đã thấy. Chúng ta nhớ,
trong giáo lý Tứ đế Phật nói Khổ đế đầu tiên. Tại sao Phật lại nói khổ?
Bởi vì chúng sanh mê lầm cho thế gian là vui. Thế gian cho năm dục: tài,
sắc, danh, thực, thùy là vui. Tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là
danh lợi, thực là ăn ngon, thùy ngủ kỹ. Năm thứ này thế gian cho là vui
thích. Đối lại năm thứ vui ấy, Phật nói bốn thứ khổ của thân là sanh
khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ. Kế nữa Phật nói bốn thứ khổ của tâm là
ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
Ái biệt ly khổ là những người mình thương mến phải xa lìa, như mất cha,
mất mẹ, mất anh em, mất người thân. Oán tắng hội khổ là kẻ mình thù
ghét cứ gặp mặt, làm việc chung hoài nên khổ. Cầu bất đắc khổ là những
gì mình mong muốn nhưng không được như ý nên khổ. Ngũ ấm xí thạnh khổ là
thân năm ấm này sanh ra chứng tật, đủ thứ bệnh hoạn nên khổ. Thế gian
thấy ngũ dục là vui, trong khi đạo Phật nói tới tám thứ khổ. Đó là vì
muốn đối trị lại tâm mê lầm, tưởng thế gian vui rốt cuộc chỉ toàn đau
khổ.
Quí
vị thấy thân này thật không? Nếu thấy thân thật là đang ở trong vô
minh. Tại sao? Vì ai cũng biết thân này nhiều lắm bảy, tám chục năm cũng
phải hoại. Có rồi hoại, làm sao thật được. Thật thì không hoại, còn
hoại thì không thật. Cho nên thấy thân thật là thấy sai sự thật. Do thấy
sai sự thật nên đắm mê nó, Phật gọi là vô minh. Chúng ta được mấy người
ra khỏi vô minh? Rất ít. Bởi vậy, tiếp nối sanh tử không cùng. Đó là
chỗ chư Phật thương xót, chúng sanh chìm trong sanh tử không biết lối
ra.
Đức
Phật dùng lý nhân duyên để giải thích thân này do nhân duyên hòa hợp mà
thành, nó không tự có. Bắt đầu từ vô minh lần lần tiếp nối cho đến sanh
lão bệnh tử, khiến chúng sanh đi mãi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta
thấy thân thật là nắm tay nhau mà đi trên đường luân hồi sanh tử. Chừng
nào thấy thân này hư giả không thật, ai chửi cũng cười, mắng cũng cười,
đó là ta chuẩn bị ra khỏi vòng vô minh. Lâu nay người ta bảo giới xuất
gia là giới tu để giải thoát sanh tử, như vậy tại sao chúng ta lại đồng ý
đi trong sanh tử? Đó là điểm yếu của mình. Chúng ta nguyện thoát ly
sanh tử mới cạo đầu xuất gia, bỏ cha bỏ mẹ, tất cả quyến thuộc, đi vào
đạo với mục đích vạch một con đường giải thoát để cứu mình và những
người thân đang trầm luân. Ta đã nguyện như thế mà bây giờ cứ tiếp tục
đi trên đường trầm luân thì chừng nào cứu được?
Qua
lý nhân duyên chúng ta thấy thân này do duyên hợp tạm bợ, không thật
nên không có vấn đề gì quan trọng. Bản thân ta không thật thì việc khen
chê, thương ghét cũng không thật. Chúng đã không thật tại sao ta bị quay
trong đó, không ra khỏi? Như có người phê bình thầy hay cô tu dở quá,
quí vị giận không? Người ta nói sự thật để mình tỉnh mà lại giận, có
phải vô minh không? Chúng ta nói tu mà không dám nhận sự thật, cứ ôm ấp
mê lầm, rồi cùng dẫn nhau đi trong luân hồi không có ngày ra. Đó là chỗ
hết sức quan trọng. Vì vậy Phật nói Tứ đế, Thập nhị nhân duyên để phá
chấp cho cuộc đời là vui, phá chấp cho thân này là thật. Tất cả giáo lý
của Phật đều xoay quanh con người, chỉ cho chúng ta thấy thế nào là
duyên hợp, thế nào là khổ để mình biết mà thức tỉnh, không say mê trong
đó nữa. Ai tu theo pháp Tứ đế đến nơi đến chốn sẽ chứng Tứ quả Thanh
văn, gọi là Thanh văn thừa. Ai tu theo pháp Thập nhị nhân duyên chứng
được lý nhân duyên gọi là Duyên giác thừa.
Kế
đến Bồ-tát thừa. Bồ-tát lấy giác ngộ làm chân, chớ không đối trị như
Thanh văn, Duyên giác. Vì vậy nói tới Bồ-tát là nói tới giác ngộ. Kinh
Bát-nhã, Phật nói với Bồ-tát, Ngài dạy chỉ cần chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thiết khổ ách,nghĩa là soithấy năm uẩn đều không liền qua
hết khổ nạn. Ở đây Phật không nói khổ, không nói duyên hợp gì hết, chỉ
biết thân năm uẩn là không thì qua hết tất cả khổ. Tại sao? Phàm những
gì có hình tướng do nhân duyên hợp thành đều vô thường, mà cuối cùng của
vô thường là không. Như nói cái nhà vô thường, bởi vì khi nó gãy mục
hết sẽ thành không. Con người cũng vậy, vô thường nên cuối cùng tan rã
thành không. Như vậy không là kết quả cuối cùng của tất cả sự vật có
hình có tướng. Phật dạy soi thấy năm uẩn đều khônglà đi tới kết thúc,
không còn phân biệt khổ, phân biệt nhân duyên quanh co, mà đi thẳng vào
không, thấy rõ ràng là không. Thấy như thế nên hết khổ.
Chúng
ta đọc chiếu kiến ngũ uẩn giai không mà thấy toàn là giai hữu. Phật dạy
một đường mình hiểu một ngả, không hiểu theo Phật, nên không qua khổ
nạn được. Khổ nạn nào chúng ta cũng mắc kẹt. Tăng Ni ở các Thiền viện,
lấy kinh Bát-nhã làm cơ bản tụng niệm hằng ngày. Đó là quí vị đang đi
trên con đường của ai? Của Bồ-tát, chớ không phải của Thanh văn, Duyên
giác. Hiểu như vậy, mới biết rõ được chỗ đứng của mình. Bồ-tát thừa thì
không có thứ bậc, đi thẳng đến chỗ cuối cùng. Như Tứ đế nói thân này
sanh, già, bệnh, chết, Bát-nhã nói thân này là không, nghĩa là chết rồi
trở về không. Như vậy nói không là nói chỗ kết thúc của thân này. Tất cả
tâm duyên theo cảnh cũng là không. Như vậy Bát-nhã thấy tột lẽ thật ngũ
uẩn là không, do thấy tột ngũ uẩn là không nên hết khổ.
Mở
đầu Bát-nhã Tâm Kinh, Phật nói Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Trí tuệ
Bát-nhã thấy năm uẩn là không, bởi giác ngộ nên Ngài qua hết tất cả khổ
nạn. Chúng ta không ai quên câu này nhưng lại không thấy như Bồ-tát Quán
Tự Tại. Phật giải thích từng phần cho ngài Xá-Lợi-Phất nghe. Trước hết
Phật nói Sắc uẩn là không, vì Sắc uẩn là tứ đại. Tứ đại là đất, nước,
gió, lửa trong thân chúng ta. Da thịt gân xương là đất. Nước mắt, mồ hôi
máu mủ là nước. Thở ra, hít vào là gió. Hơi ấm trong người là lửa. Tứ
đại hòa hợp thành Sắc uẩn, Phật nói nó là không. Tại sao? Vì cái gì do
duyên hợp thì phải tan. Tan thì thành không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng
như thế, đều là không. Câu chót Phật nói thị chư pháp không tướng, chỗ
này là điểm quan trọng trong buổi giảng hôm nay.
Thị
chư pháp không tướng nghĩa là tướng không của các pháp. Sắc, thọ,
tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không
thêm, không bớt. Hồi xưa tôi không dám nói tướng không của các pháp là
không, mà tôi nói thân do duyên hợp nên không có chủ thể, không có chủ
thể nên gọi là không. Gọi không như thế là tánh không chớ không phải
tướng không. Đó là chỗ trước kia tôi bị kẹt. Một buổi khuya ngồi thiền
chừng một giờ, bất chợt tôi nhớ lại, tại sao tướng không mà mình lại
giảng tánh không? Vừa đặt câu hỏi xong tôi tự trả lời, tự giải quyết
ngay. Giải quyết được rồi tôi rất vui. Sở dĩ trước kia tôi giảng các
pháp duyên hợp không chủ thể gọi là không, vì tôi nghe quí Hòa thượng
dạy: “Thà chấp có bằng núi Tu-di, không nên chấp không bằng hạt cải”.
Tôi nghĩ nếu mình nói không trơn, không trống rỗng, sợ người ta chấp
không thì mang tội, vì vậy tôi nói các pháp duyên hợp không chủ thể nên
gọi là không, để tránh cái chấp không. Tôi không ngờ cái chấp không của
các bậc Tôn túc dạy là chấp không có thiện, không có ác, không tội,
không phước, không nhân, không quả, không nghiệp báo luân hồi. Đó gọi là
chấp không.
Còn
kinh Bát-nhã thấy triệt để được tướng không của các pháp, thấy bằng trí
tuệ tướng không của các pháp, chớ không phải chấp không. Tự giải quyết
xong điều này, tôi vui quá. Giờ ngồi thiền còn lại trở về sau, toàn là
những kiến giải điên khùng nổi dậy, hết cái này tới cái kia, suốt luôn
tới sáng không quên. Vì vậy phần giảng kinh tới đây dừng, tôi sẽ nói
sang phần kiến giải điên khùng. Lâu nay tôi cứ sợ nói không là chấp
không, nhưng sự thật không phải vậy. Ở đây nói không là đối với những
vật có hình, do sắc chất kết tụ thành nên có sắc. Những thứ đó gọi là
tướng có, vì có hình thể, có sắc chất. Còn cái không có hình thể, không
có sắc chất gọi là tướng không. Một bên tướng có, một bên tướng không.
Nếu không có tướng không, làm gì có tướng có, vì hai thứ đối đãi nhau.
Cho nên nói tới tướng có thì phải chấp nhận tướng không.
Tướng
không là tướng thế nào? Hồi xưa tôi cứ mắc kẹt chỗ này. Tôi nghĩ không
thì không có tướng, vì có tướng phải có hình thức, có vật thể. Không
hình thức, không vật thể làm sao nói có tướng được. Nhưng Phật xác định
tướng không đối với tướng có. Có sắc chất, có hình thể là tướng có.
Không sắc chất, không hình thể là tướng không. Cho nên cái không là cái
thực hữu. Nói thế có điên không? Tướng có như thân này, như cái nhà, như
cây cối trước mắt chúng ta nhìn thấy, những tướng đó là tướng thật hay
tướng giả? Tướng giả. Như vậy tướng nào tướng thật? Đó là điều chúng ta
mắc kẹt. Phàm những gì duyên hợp mà thành đều là giả tướng, còn tướng
không không có duyên hợp. Có khi nào nó thay đổi không? Muôn đời không
vẫn là không. Chúng ta đọc kinh thấy chữ thật tướng, mà không biết tướng
thật là tướng nào. Chỉ nhớ những tướng mắt thấy, tay sờ mó được cho là
tướng thật, không ngờ tất cả những tướng ấy là tướng duyên hợp, hư giả.
Còn tướng không mới là tướng thật muôn đời không thay đổi.
Chúng
ta lâu nay nghe nói không là sợ, đâu ngờ cái không đó lại là cái thật,
cái có tướng mới là cái giả. Tôi nói cái không là thật, cái có là giả,
như vậy có điên không? Điên rồi. Cả trăm, cả triệu người thấy các tướng
của sự vật là thật, tướng không là không có gì. Bây giờ tôi lại thấy
tướng không là thật, các tướng kia là giả, không phải điên là gì? Kinh
Bát-nhã nói thật tướng là vô tướng, không có tướng mới là tướng
thật.Chúng ta chú ý tới câu không tướng bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất
tịnh, bất tăng, bất giảm, cái tướng không đó không sanh, không diệt,
đời đời không bao giờ thay đổi, còn cái gì sanh diệt luôn luôn thay đổi.
Không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt là không có hai bên, không
có đối đãi. Như vậy nói tới tướng không là cái không sanh diệt, không
đối đãi. Chúng ta tu nhập Niết-bàn là nhập cái gì? Niết-bàn là vô sanh,
nên nhập Niết-bàn là nhập vô sanh. Chúng ta có cái không ấy chính là vô
sanh mà lại bỏ qua, chạy theo cái sanh diệt.
Phật
dạy thân này do tứ đại hòa hợp. Tứ đại là đất, nước, gió, lửa, ai cũng
biết rồi. Các kinh A-hàm chỉ nói tới chừng đó thôi, nhưng qua Bát-nhã
thì thêm một đại nữa, đó là không đại. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật còn
nói thêm thức đại, kiến đại, tổng cộng là bảy đại. Đất, nước, gió, lửa
dễ hiểu rồi, nhưng không đại thì thế nào? Bây giờ quí vị tự kiểm lại
trong thân mình, phần hư không nhiều hay ít? Hai lỗ mũi trống tức là
không, lỗ tai trống là không, cổ họng trống là không. Trong con người
chúng ta, cái không luồn sẵn khắp hết. Bao tử chứa được cơm cũng nhờ
trống, những mạch máu trống mới dẫn máu chạy khắp thân, lá phổi nở tóp
cũng nhờ trống. Cả thân mình từ đầu đến chân, mỗi lỗ chân lông đều
trống, đều thưa hở hết. Kiểm lại phần trống trong thân rất nhiều.
Trong
tứ đại, thiếu một đại nào chúng ta còn giải quyết chậm một chút, chớ
không đại mà thiếu thì sao? Lỗ mũi, cổ họng bít lại thì sao? - Thì chết.
Như vậy không đại hệ trọng đối với sự sống của chúng sanh đến cỡ nào?
Vậy mà chúng ta đâu thèm biết tới nó, cứ lo bồi bổ mấy thứ có. Thiếu
nước, thiếu đất liền lo đem vô, còn cái không thì quên mất. Kế đến thức
đại. Chúng ta có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mỗi căn đều có
thức phân biệt. Thức trùm hết cả người nên gọi là thức đại. Cuối cùng là
kiến đại, đại này nghe hơi lạ, tôi sẽ nói sau. Bây giờ quí vị nhìn lại
không đại trong con người chúng ta với hư không trống rỗng bên ngoài, là
một hay khác? - Không hai. Giả sử thân này rã ra, cái không trong người
chúng ta sẽ nhập với hư không. Không không có hai, không có ranh giới. Ở
trong người mình, cái không ít nhưng thân này rã ra, nó hoà nhập với hư
không bên ngoài, chớ không riêng khác. Hư không thì không hai. Chúng ta
có sẵn cái không ấy ở trong con người mình.
Kiểm
lại đất, nước, gió, lửa, bốn thứ đó là vô tri. Đến cái không là vô tri
hay hữu tri? - Cũng vô tri. Như vậy phần vô tri của thân là tứ đại và
không đại. Thức đại thì hữu tri, vì thức là tâm thức phân biệt nên hữu
tri. Thức phân biệt là thức sanh diệt. Đến kiến đại, nói đủ là kiến văn
giác tri tức thấy, nghe, cảm xúc và biết. Cái đó hằng hữu, không tướng
mạo, không sanh diệt mà thường biết. Như lỗ tai hay nghe, cái hay đó có
tướng mạo gì không? Con mắt hay thấy có tướng mạo gì không? Như vậy cái
nghe, cái thấy v.v… không có tướng mạo, thường hằng hữu, nó thuộc phần
kiến đại. Nhưng thấy mà khởi niệm phân biệt là qua thức rồi.
Chúng ta có hai phần:
1. Thân và tâm sanh diệt. Thân
sanh diệt là thân tứ đại. Tâm thức sanh diệt bám theo tứ đại phân biệt
hơn thua, phải quấy, thương ghét v.v… gọi là thức. Nó đi theo con đường
của tứ đại, duyên hợp sanh diệt. Nếu chúng ta cho thân tứ đại là thật
thì cũng cho thức phân biệt là thật. Cho thức là tâm mình, tứ đại là
thân mình. Khi tứ đại này mất nhất định sẽ bám vào tứ đại khác, do tâm
thức mang nghiệp lành dữ. Như vậy tâm thức mang nghiệp lành dữ để đi tới
thân tứ đại khác, tốt xấu tùy theo nghiệp lành hay dữ. Đó là chúng ta
đi trong con đường sanh tử không có ngày dừng.
2. Thân và tâm không sanh diệt. Không
đại là cái bất sanh bất diệt, dùng kiến đại để hoà nhập với không đại.
Kiến đại hằng hữu không sanh, không diệt mà thường giác, thường tri. Lấy
cái thường giác, thường tri, không sanh, không diệt đó làm tâm mình,
nhà Phật gọi là Chân tâm hay Phật tánh. Tâm bất sanh bất diệt là Tánh
giác. Lấy tướng không vô tri không sanh không diệt làm thân. Thân và tâm
không sanh không diệt hòa nhập nhau, gọi là nhập Pháp thân. Pháp thân
bao lớn? Trùm khắp hết. Đây là vấn đề rất quan trọng.
Như
vậy nơi chúng ta có đủ hai phần: Phần tướng sanh diệt là tứ đại, tâm
sanh diệt là thức đại. Sống với tướng và tâm sanh diệt thì đi một chùm
trong luân hồi. Phần tướng không sanh diệt là không đại, đi chung với
tâm bất sanh bất diệt là kiến đại. Sống với tướng và tâm bất sanh bất
diệt thì đi theo đường giải thoát. Cho nên giải thoát và trầm luân nơi
chúng ta có đủ hết. Người tu chọn đường nào? Chọn đường trầm luân hay
giải thoát? Chúng tôi bắt quí vị ngồi thiền để làm gì? Để dẹp tâm sanh
diệt. Nó lặng hết mới sống với tâm vô sanh được. Sống với tâm vô sanh
mới hòa nhập với thân hư không vô sanh. Nếu chúng ta cứ buồn thương,
giận ghét thì sống với thức sanh diệt, hòa nhập với tứ đại sanh diệt, do
đó đi mãi trong luân hồi sanh tử. Đó là chỗ thấy điên khùng của tôi.
Tới
đây tôi mới thấy lâu nay mình tu hời hợt quá, nên con đường giải thoát
rất lờ mờ. Cứ chạy tìm cái bên ngoài mà quên cái sẵn ở trong. Phật xác
định tướng không của các pháp là không sanh, không diệt, không nhơ,
không sạch… rõ ràng như vậy. Đọc Tín Tâm Minh tôi thấy Tổ Tăng Xán nói: “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, đản mạc tắng ái, đổng nhiên minh bạch”.
Nếu không có thương ghét thì đại đạo rõ ràng trước mắt. Bây giờ chúng
ta thương ghét nhiều ít? Quá nhiều! Thương ghét quá nhiều thì chắc chắn
đời sau đi nữa, nhưng không biết đi đâu? Thượng tầng là cõi trời, trung
tầng là dân gian, hạ tầng là thấp nữa. Lâu nay chúng ta cứ nghĩ thức
phân biệt là tâm, bám vào đó để phân biệt chia chẻ, khôn dại, hơn thua,
phải quấy, tốt xấu… cả ngày cái đầu không dừng suy nghĩ. Tâm thức là một
dòng sanh diệt, thấy đó rồi mất đó, tìm lại không có mà chúng ta lấy nó
làm tâm, lấy tứ đại làm thân. Tứ đại vô thường sanh diệt, thức cũng vô
thường sanh diệt, lấy hai cái sanh diệt làm mình thì muôn kiếp đi trong
luân hồi, không thể nào ra khỏi.
Muốn
ra khỏi luân hồi, giải thoát sanh tử thì nơi mình có sẵn cái không, tựa
vào đó rồi dùng cái biết sẵn chưa từng sanh chưa từng diệt làm tâm, sử
dụng hai thứ thân và tâm không sanh diệt này thì nhắm mắt thân thênh
thang, tâm cũng thênh thang. Hồi xưa tôi nghĩ hơi dốt một chút. Tôi nói
hư không trong người mình ít xịu, có chút thôi mà hư không bên ngoài quá
lớn, làm sao hòa nhập được. Nhưng bây giờ thấy rõ hư không không có
giới hạn, không lớn nhỏ. Nhỏ lớn là tại cái khung đóng nó lại, chớ hư
không là hư không, giở cái khung ra thì hư không chỉ có một. Hư không
của thân hòa nhập với hư không của vũ trụ là một, không phải hai. Nếu
lấy hư không làm thân thì cả vũ trụ là thân mình. Tu như vậy thân tâm
mới trùm hết, nên nói trùm pháp giới. Tâm suy nghĩ, so lường thì có hình
tướng, có sanh diệt, còn tâm hằng tri hằng giác, không suy nghĩ mà hằng
biết, không lúc nào vắng mặt. Tâm này không có tướng, không sanh diệt.
Sống với tâm không sanh diệt, chúng ta sẽ hòa nhập được với thân không
sanh diệt. Đó là Pháp thân.
Chúng
ta muốn giải thoát sanh tử phải đi con đường bất sanh bất diệt. Hồi xưa
tôi cứ thắc mắc, nhập Niết-bàn là vô sanh, mà cái gì vô sanh? Về Cực
Lạc ngồi tòa sen, vui vẻ đi chơi nước này nước nọ, hái hoa cúng dường
rất vui. Còn nhập Niết-bàn vô sanh không có gì hết, buồn chết. Nhưng bây
giờ tôi thấy không phải vậy. Chính thể nhập được Pháp thân rồi mới có
Ứng thân, Hóa thân, Báo thân. Từ Báo thân, Ứng hóa thân muốn độ chúng
sanh ở đâu cũng được. Nhập được thể không rồi thì sau này diệu dụng vô
cùng. Như chúng ta thường lạy mỗi đêm đức Phật Thích-ca, với danh hiệu “Nam-mô Thiên Bá Ức Hóa thân Thích-ca Mâu-ni Phật”.
Đức Phật đã nhập Niết-bàn mà Ngài còn có trăm ngàn muôn ức thân, chớ
không phải hết. Còn chúng ta sanh trở lại hiền lành cũng chỉ một thân
thôi. Bao giờ thể nhập được Pháp thân sẽ ứng hóa vô lượng vô biên, độ
hết chúng sanh. Như vậy thì đừng nói nhập Pháp thân sẽ buồn hiu, không
có gì nữa. Chừng ấy tùy ứng tùy hóa, ai có duyên thì mình hóa độ để đền
trả ân xưa hoặc công đức của họ. Đó là một chặng điên khùng của tôi.
Đến
cái điên khùng khác, tôi nhớ hiện tại mình sống đây, bước vô nhà người
ta thì nhìn bàn ghế, tranh ảnh, chớ không ai nhìn hư không trong nhà.
Nhìn bàn ghế, tranh ảnh rồi khen chê, toàn là nhìn cái có. Ra vườn thấy
cây này cây kia, hoa này hoa nọ, ít ai nói khung cảnh vườn trống trải.
Đa số nhìn vào tất cả sự vật và ngoại cảnh có hình tướng. Cho nên cả
ngày mắt chúng ta đeo theo các thứ sắc tướng, âm thanh, còn hư không
tràn trề lại không nhớ. Hôm trước tôi có nói, bây giờ tôi mang ơn hư
không quá chừng. Nói vậy không phải điên là gì, hư không mà mang ơn?
Nhưng sự thật như thế. Cả ngày có lúc nào chúng ta rời hư không đâu, kể
cả giờ ngủ cũng phải có hư không trống để hít thở. Hư không mang lại cho
chúng ta bao nhiêu điều tốt lành để chúng ta sống. Thế mà mình không
thèm biết, chỉ biết cơm, bánh, cây cối, hoa quả… toàn các thứ sanh diệt.
Đặt
câu hỏi thêm nữa, trước khi cha mẹ chưa sanh ta là gì? Thân này có
không? Không có, do cha mẹ sanh mới có. Sau khi thân này chết rồi sao
nữa? Cũng là không. Trước không, sau không, giữa thì ở trong không, ở
ngoài không bao bọc. Vậy mà mình không thèm nhớ cái không, chỉ nhớ toàn
những thứ sanh diệt, đeo theo nó mà bỏ quên hẳn cái không mênh mông. Như
vậy chúng ta biết ơn biết nghĩa không? Bây giờ tôi đặt câu hỏi tiếp: “Cây cối sống được, có hoa có quả cho mình ăn cũng nhờ cái gì?”
Nhờ hư không nó mới sống. Cả quả đất này quay vòng vòng ở đâu? Trong hư
không. Tóm lại, tất cả đều được sự bảo bọc của hư không, xoay bề này bề
kia đều nhờ hư không, nên ở đâu cũng sống được. Từ người đến muôn vật
sống là nhờ hư không, vậy mà không biết hư không, sợ hư không nhất.
Từ đó tôi suy luận ra, nếu đặt câu hỏi: “Trong bầu trời đất này cái gì có trước nhất?”
Quả địa cầu chúng ta thành hình cũng duyên trong hư không tụ lại mà
thành, ngày nào hết duyên nó hoại cũng trở về không. Con mắt của Phật
nhìn thấy các loài động vật đều trải qua bốn tướng sanh, già, bệnh,
chết; các loài thực vật trải qua bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt; còn đối
với quả địa cầu là thành, trụ, hoại, không. Con người có bốn tướng sanh,
già, bệnh, chết, sau cái chết là không. Cây cối thực vật là sanh, trụ,
dị, diệt, sau diệt cũng trở thành không. Đến quả địa cầu là khoáng chất,
khi nó nát rồi cũng trở thành không. Như vậy từ không mà thành, rồi
hoại trở về không. Cái không là chỗ tuyệt đối, không còn gì đối đãi nữa,
cùng tột là không. Lý Bát-nhã chỉ cho chúng ta thấy không là cái tột
cùng của muôn vật. Vì vậy ngài Huyền Giác nói trong Chứng Đạo Ca:
Pháp thân giác liễu vô nhất vật,
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật.
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật.
Giác
ngộ Pháp thân rồi thì không có một vật. Bản nguyên là nguồn gốc của tất
cả các pháp, tự tánh là tánh chân thật sẵn có của mình, tức là Phật
tánh. Cái không tột cùng này mới là nguồn gốc, là chỗ cho chúng ta tựa.
Chúng ta tu cũng để giác ngộ chỗ tột cùng này. Chính ngài Huyền Giác
cũng nói:
Chư hạnh vô thường nhất thiết không,
Tức thị Như Lai đại viên giác.
Tức thị Như Lai đại viên giác.
Thấy
các hạnh là vô thường, tất cả đều không, đó là đại viên giác của Phật.
Khi nói về Bồ-tát, về Phật là nói về giác ngộ. Một sự giác ngộ tràn đầy,
thấy tất cả đều là không, bao nhiêu thế giới trong hư không này đều trở
về không. Chúng ta tu nhập được Pháp thân là trở lại chỗ tột cùng tuyệt
đối đó, ngoài ra mọi thứ khác đều là tương đối sanh diệt. Vậy tu khó
hay dễ?
Mục
đích tu của chúng ta như vậy, cho nên mỗi ngày mỗi đêm phải ngồi thiền
để dẹp bớt tâm sanh diệt. Tâm đó chạy theo nghiệp lành dữ dẫn mình đi
trong sanh tử. Con đường hiện giờ chúng ta tu theo Thiền tông có liên hệ
tới Bát-nhã hay không? Hồi xưa tôi hơi lấy làm lạ, tại sao Ngũ Tổ đem
kinh Kim Cang Bát-Nhã giảng cho Lục Tổ nghe mà không giảng bốn cuốn
Lăng-già? Sau này mới thấy rõ, chính Bát-nhã là con đường đi thẳng,
trong nhà thiền gọi là “điểu đạo” tức đường chim. Cho nên chúng
ta phải hiểu rõ Bát-nhã. Lục Tổ ngộ cũng từ kinh Kim Cang Bát-Nhã, sau
này đệ tử là ngài Huyền Giác cũng ngộ từ Bát-nhã. Ngài Huyền Giác nói:
Hữu nhân vấn ngã giải hà tâm, báo đạo ma-ha Bát-nhã lực. Tức là nếu có
ai hỏi ta hiểu tâm nào thì đáp rằng ma-ha Bát-nhã. Lý này hết sức rõ. Đó
là những chặng thấy điên khùng của tôi.
Bây giờ trở lại kinh. Kinh Bát-nhã nói: “Trong
cái không không có năm uẩn, không có sáu căn, không có sáu trần, không
có sáu thức, không có mười tám giới. Kế đến không vô minh, không vô minh
tận, không khổ tập diệt đạo, không trí, không đắc”. Trong cái
không không có mười tám giới dễ hiểu rồi, nhưng tại sao Mười hai nhân
duyên, Tứ đế là pháp tu của hàng Thanh văn, Duyên giác cũng không có
nữa? Như tôi đã nói, Bát-nhã vượt qua đối đãi của Nhị thừa, không còn
đối đãi của Thanh văn, Duyên giác, nên nói là Bồ-tát. Qua hết đối đãi
nên cái không này là chót. Hồi xưa giảng tới đây tôi hơi lúng túng, tại
sao Tứ đế, Thập nhị nhân duyên mà cũng không có nữa. Bây giờ mới thấy rõ
Tứ đế, Thập nhị nhân duyên là dùng những phương tiện đối đãi để đối
trị, nó còn hai bên. Cái không này không có hai bên, nên vượt qua tất
cả.
Bồ-tát
là vô trí vô đắc, nếu còn có trí, có đắc là còn đối đãi, chưa phải đúng
chỗ của Bồ-tát. Nếu không tất cả thì đi tới đâu? Vô sở đắc là không còn
cái để ngộ, để được nữa, chừng đó Bồ-tát y theo Bát-nhã không còn bị
chướng ngại chút nào hết. Không còn nằm trong đối đãi, trong sanh diệt
nên không còn bị chướng ngại, vì vậy nói vô quái ngại. Không có đối đãi
thì còn gì sợ sệt, vì vậy nói vô hữu khủng bố. Không những riêng Bồ-tát
mà ba đời chư Phật cũng nương Trí tuệ Bát-nhã mà được giác ngộ viên mãn.
Nói tới Bát-nhã là nói tới Phật, nói tới Bồ-tát chớ không phải nói tới
Thanh văn, Duyên giác. Cuối cùng của Bát-nhã là đoạn mà nhiều người nghi
ngờ nhất, vì nói thần chú. Điểm này có lẽ tại các nhà phiên dịch, thời
xưa ở Ấn Độ rất trọng thần chú. Họ thường dùng thần chú trị quỉ thần,
trị những con rắn độc, cọp sói v.v… vì vậy nói Bát-nhã trị được tất cả
bệnh cũng như thần chú linh thiêng nhất. Trí tuệ Bát-nhã rất mạnh, có
giá trị bằng tất cả các thần chú. Các nhà phiên dịch muốn cho linh
thiêng, họ để nguyên câu chữ Phạn. Chớ thật ra câu “yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha”,
có nghĩa là qua bờ kia, qua bờ kia, qua đến bờ kia. Bờ kia là bờ giác
ngộ. Đứng bên bờ mê qua tới bên kia là bờ giác ngộ vậy thôi. Hiểu vậy
mới thấy tinh thần Bát-nhã rất sâu, rất kỳ đặc chớ không phải thường.
Chúng
ta tụng Bát-nhã hằng đêm để nhắc tới nhắc lui, nhớ mình đang đi con
đường đó, chớ không phải tụng cho Phật nghe. Bây giờ tôi thấy nhiều vị
tụng kinh cho hay, cho Phật nghe. Thật ra tụng kinh là lặp đi lặp lại
lời Phật dạy cho thâm nhập vào tâm, nhớ điều mình nguyện làm, đang hướng
đến. Đó là chỗ rất quan trọng, rất thiết yếu. Chúng ta phải thâm nhập
được lý kinh thì việc tụng kinh mới có giá trị. Kinh Bát-nhã bên chữ Hán
có sáu trăm quyển. Lúc trước tôi ngồi đọc sáu trăm quyển đó, mới thấy
Bát-nhã Tâm Kinh cô đọng lại toàn bộ sáu trăm quyển kinh Bát-nhã. Cho
nên chữ Tâm Kinh có thể dịch là kinh tim. Bởi vì trong sáu trăm quyển
Bát-nhã, bài kinh này rút hết trọng tâm, cô đọng lại toàn bộ ý chánh của
kinh. Con người mình tim nằm giữa cung cấp máu khắp châu thân. Chữ tâm
là tim, một bộ phận quan trọng bậc nhất trong cơ thể con người. Nếu nói
tâm kinh là kinh ruột thì không diễn đạt được hết tầm vóc trọng yếu của
nó. Vì ruột đâu có cung cấp máu lên xuống khắp châu thân như tim. Cho
nên chữ tâm dịch là tim, quả tim của sáu trăm quyển Bát-nhã.
Ngày
21 tháng 7 nhuần, mùa an cư năm 1968, buổi khuya tôi ngồi thiền sáng
được lý sắc không bất nhị, sắc không không hai, sắc tức thị không không
tức thị sắc. Sáng được lý này tôi vui gần ba ngày. Sau đó tôi đọc Tạng
kinh, nhất là những bài kinh về thiền thấy hiểu không khó như ngày xưa
nữa. Tôi nghĩ mình có duyên với thiền, ngang đây dạy tu thiền được, nên
mở cửa thất thành lập Tu viện Chân Không dạy Tăng Ni tu thiền. Nhưng đến
bây giờ tôi mới thấy được tướng không này. Từ ngày đó đến giờ xa bao
nhiêu? Nói thế để quí vị thấy tu thiền mà không đạt được lý Bát-nhã thì
không thấu đáo. Vì sao? Ngày xưa tôi thường nhắc câu Thiền sư Huyền Giác
hay nói: Chứng thực tướng vô nhân pháp, sát-na diệt khước A-tì nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh, tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
Nghĩa là người nào chứng được thực tướng rồi thì không còn nhân, pháp.
Người đó chỉ trong chớp mắt diệt hết tội dưới địa ngục A-tì. Nếu tôi nói
dối chúng sanh xin chịu tội bị cắt lưỡi dưới địa ngục trải vô số kiếp.
Câu
này làm tôi hơi rùng mình. Tại sao Thiền sư dám khẳng định và dám chịu
tội tới như vậy? Bây giờ tôi mới thấy rõ. Thực tướng là không còn ngã,
không còn có cái ta, bấy giờ nhận cái thể không là mình, thể không thì
còn tướng gì? Cho nên không có mình, không có người. Không có mình,
không có người thì cái gì dẫn xuống địa ngục. Nếu còn thấy mình mới bị
nghiệp dẫn, mình không có thì còn gì mà dẫn? Cho nên chỉ trong chớp mắt
qua khỏi địa ngục A-tì. Đó là một lẽ thật. Chúng ta thấy con đường này
rất kỳ đặc, đi sâu vô lý Bát-nhã mới nhận ra điều đó. Dưới đây là biểu
đồ tôi phác họa để chỉ cho quí vị thấy rõ đầu đuôi, gốc ngọn của hai con
đường: Con đường trầm luân sanh tử và con đường giải thoát sanh tử.
Tuệ Minh ( st )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét