Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

Những giáo lý cơ bản để tìm hiểu Bát Nhã Tâm Kinh

Bát Nhã Tâm Kinh đã sử dụng học thuyết tính không để phủ định tất cả sự vật và hiện tượng hay nói khác đi là cả thế giới và chúng sinh. Tính không này được vận dụng như thế nào, phần luận giải về Bát Nhã Tâm Kinh


Có thể nói Phật giáo vừa là một nền triết học, vừa là một tôn giáo, lại vừa là một hệ thống giáo dục.
Là một nền triết học vì các hệ thống tư tưởng trong nền triết học này có thể đánh đổ mọi quan niệm tư tưởng của các nền triết học khác từ phương Đông sang phương Tây, tử cổ chí kim về những quan niệm cơ bản về vũ trụ quan và nhân sinh quan.
Là một tôn giáo vì nó đã đem lại cho một bộ phận loài người có niềm tin tín ngưỡng mãnh liệt và sâu xa để vun trồng cuộc sống tốt đẹp hơn.
Là một nền giáo dục vì tất cả các tư tưởng, giáo lý, kinh luận của đạo Phật có tác dụng giáo dục con người ta sống với chân thiện mỹ, với từ bi và trí tuệ để đem lại hạnh phúc và an lạc cho mình và cho tất cả mọi người.
Hệ thống tư tưởng và giáo lý ấy của đạo Phật có rất nhiều, đã đề cập đến mọi sự vật và hiện tượng, đến thế giới và chúng sinh. Ở đây ta hãy khảo sát một số vấn đề cơ bản sau đây có liên quan đến tư tưởng Bát Nhã khi nghiên cứu Bát Nhã Tâm Kinh. Tất nhiên giáo lý của đạo Phật còn nhiều yếu lĩnh khác cần phải được để cập khi đi sâu vào nội dung cụ thể từng phần của Bát Nhã Tâm Kinh.
1. Về quan niệm không gian và thời gian trong Phật giáo:
+ Trước hết nói về không gian : Phật giáo quan niệm không gian là vô cùng vô tận, vô thủy vô chung, không có bắt đầu, không có kết thúc. Con người ta hiện nay đang sống trong một không gian trong đó quả đất là một trong những hành tinh của hệ thống thái dương hệ. Với khoa học hiện nay, các nhà khoa học mới chỉ đang khảo sát những vệ tinh và hành tinh trong hệ thống này như mặt trăng, sao hỏa, sao kim…chưa ra ngoài hệ thống thái dương hệ. Còn Phật giáo thì cho rằng loài người chúng ta đang sống trong một Thế giới nhỏ mà thái dương hệ chỉ là một bộ phận.

Phật giáo cho rằng một nghìn Thế giới nhỏ ấy hợp lại thành một Tiểu thiên thế giới, một nghìn Tiểu thiên thế giới hợp lại thành một Trung thiên thế giới, một nghìn Trung thiên thế giới hợp lại thành một Đại thiên thế giới.  Như vậy một Đại thiên thế giới gồm có 1.000 triệu thế giới nhỏ, tức là một tỷ thế giới nhỏ mà ta đang sống. Thế giới Ta Bà của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đại thiên thế giới trong vô số Đại thiên thế giới, nhiều không thể kể hết được. Cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà cách đây mười vạn ức (10 tỷ) đất Phật. Nếu đi bằng tốc độ ánh sáng, (300.000 km/giây) thì phải đi mất 150 năm ánh sáng. Như vậy, Phật giáo quan niệm Không gian là vô cùng vô tận, vô thủy vô chung, mênh mông rộng lớn. Trái đất mà loài người đang ở chỉ có thể là một hạt cát bé nhỏ trong vô lượng hạt cát sông Hằng của vô lượng Đại thiên thế giới trong vũ trụ.
 


+ Về thời gian: Phật giáo cũng quan niệm thời gian là vô thủy vô chung, không có bắt đầu và không có kết thúc. Ta hãy cho rằng con người ta sống nhiều lắm là 100 năm. Trên thực tế, theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc năm 2010, đời sống bình quân của con người trên thế giới là 71 năm, của nước Việt Nam ta là 75 năm, của Thái Lan là 69,3 năm, của Nhật Bản là 83 năm, của Philippine là 72,3 năm v.v…thì cái thời gian sống ấy của loài người cũng chỉ rất ngắn ngủi so với chuỗi thời gian vô cùng vô tận của các kiếp. Nếu thời gian sống một ngày của chư thiên trên cõi Thiên được xem bằng 100 năm sống của con người ta thì thời gian trên các cõi Phật khác lớn hơn rất nhiều. Kinh Hoa Nghiêm trong Phẩm Thọ Lượng, nói rằng một kiếp ở cõi Ta Bà của Ðức Thích Ca bằng một ngày đêm ở cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Theo kinh Vô Lượng Thọ thì ở vô lượng vô số kiếp về đời quá khứ lâu xa có Đức Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai thuyết giảng đạo lý. Có một vị vua tên là Thế Nhiêu, sau khi nghe Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai thuyết pháp thì lập tức giác ngộ và từ bỏ ngai vàng mà đi theo Phật lấy pháp danh là Pháp Tạng và đã thành Phật, hiệu là A Di Đà cách ngày nay một khoảng thời gian là một a tăng tỳ kiếp. Với quan niệm này, 16 triệu 800 ngàn năm là một tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp bằng 1 trung kiếp, 4 trung kiếp (thành, trụ, hoại, không) bằng một đại kiếp, một a tăng kỳ kiếp là 10140 đại kiếp (10 lũy thừa 140 đại kiếp) .
Như vậy thời gian ở các cõi đều khác nhau. Trong dân gian có câu chuyện Cái rìu của người tiều phu, truyện kể rằng một người tiều phu vào rừng đốn củi. Vì mệt ông để lại chiếc rìu dưới gốc cây, đi tản bộ và dần dần đi sâu vào trong rừng. Ông bỗng thấy hai cụ già đang ngồi đánh cờ dưới gốc cây, bên cạnh một túp lều nhỏ. Ông tiều phu thích đánh cờ và đánh rất giỏi. Ông đứng bên cạnh xem hai ông gìa đánh cờ, hai cụ mời ông ngồi xuống đánh. Tất nhiên ông nhận lời, ngồi xuống và bắt đầu ra quân. Ðánh được một lúc, chưa phân thắng bại, ông bỗng nhớ đến gánh củi nên cần phải về sớm để bán kẻo trễ. Khi ra đến bìa rừng, tìm lại gốc cây thì thấy cái cán rìu đã mục nát. Về đến nhà, thấy cảnh vật đều đã thay đổi. Sau một thời gian tìm kiếm tông tích gia đình, ông mới biết rằng ông bà cha mẹ, và vợ con của ông đã chết cách đây cả trăm năm! Một câu chuyện dân gian khác kể rằng : Hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu người Diễm Khê, đời Đông Hán, nhân tiết Đoan Ngọ, vào núi Thiên Thai hái lá thuốc, gặp hai tiên nữ và ở lại. Ở trong núi được nửa năm, Lưu Nguyễn xin trở về nhà. Đến nơi thì trần gian đã qua bảy đời người. Sau đó, hai người trở lại Thiên Thai thì không còn tìm thấy dấu vết nữa. Các nhà khoa học hiện nay cũng đã có thuyết nói về sự khác nhau của thời gian. Đó là thuyết tương đối.
Vì vậy, vể mặt thời gian, đạo Phật cho rằng cuộc sống của con người dù dài hàng trăm năm cũng chỉ dài như một sát na. Sát na là đơn vị đo thời gian nhỏ nhất của Phật giáo nó chỉ bằng cái gảy móng tay hay như là một hơi thở nhẹ. Và như vậy chuỗi ngày tháng sống trong một đời người trên trần thế dưới hình hài một thân sác con người bằng xương bằng thịt thật là rất ngắn so với toàn bộ các kiếp sống của người ấy trong quá khứ và trong tương lai của họ. Và như vậy đời người thật là ngắn ngủi, còn thời gian là vô thủy vô chung, không bắt đầu và không kết thúc.
2. Lý thuyết Duyên sinh hay duyên khởi :
Trong bài kinh Nhân Duyên của bộ kinh Trung A-hàm, Phật dạy rằng: “Ai hiểu thấu được lý nhân duyên thì người đó sẽ thấy đạo”. 
Nếu chúng ta nghiền ngẫm kỹ, sẽ thấy lý nhân duyên là nguồn gốc để tiến lên tinh thần Bát-nhã sau này.
Chẳng những lý nhân duyên phát sanh ra hệ Bát Nhã, mà cũng chính lý nhân duyên này phát sanh ra hệ trùng trùng duyên khởi. Trong kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Tất cả pháp trên thế gian liên hệ chằng chịt với nhau, lớp này đến lớp khác, đó là nhân duyên hay duyên sinh, duyên khởi”.
Đạo Phật quan niệm rằng tất cả mọi sự vật trên trần thế và trong vũ trụ này đều do các duyên tạo nên mà thành. Ai nghiên cứu Phật giáo cũng đều biết rằng tinh hoa của Phật pháp chỉ tụ tại một điểm này. Ðó là duyên khởi, cũng gọi là duyên sinh hay nhân duyên sinh. Lời Phật dạy không lỗi thời.  Từ hơn hai ngàn năm trăm năm tới giờ, những lời Phật dạy đều là chân lý, là sự thật. Ví dụ Phật dạy các pháp do nhân duyên sinh, ngày nay có ai bác được lý này không? Mọi sự thành công thất bại đều do nhân và quả. Nhân tốt sẽ được quả tốt là thành công, nhân xấu bị quả xấu là thất bại. Đó là lẽ thật không chối cãi được. Như có hai hạt đỗ, một hạt để trên bàn, một hạt vùi xuống đất ẩm.

Do có duyên đất ẩm, hạt đỗ nảy mầm, rồi do duyên vun trồng chăm sóc của người nông dân, do có duyên gặp nước và ánh nắng mặt trời, hạt đỗ trưởng thành thành cây, ra hoa kết quả. Còn hạt đỗ để trên bàn không có đủ duyên như đất ẩm, nước, ánh nắng mặt trời và công chăm sóc thì không trở thành cây và ra hoa kết quả được. Mọi vật trên đời đều do duyên tạo nên: Một quyển vở mà ta viết cũng là do nhiều duyên tạo thành như phải có các cây có chất sợi được bàn tay con người đưa về, gia công bằng công nghệ gồm tri thức của người sáng tạo, máy móc, điện, nước, sức nóng mới thành bột giấy rồi seo ra giấy, tiếp theo là đóng thành quyển vở. Nếu không có những duyên trên thì không thành quyển vở. Ngôi nhà cũng vậy, nếu tách bỏ các duyên hợp thành ngôi nhà như gạch, cát, đá, thép, gỗ, xi măng, công thợ và người thiết kế thì không thành ngôi nhà được. Con người cũng vậy, con người là do các duyên như tinh cha huyết mẹ và thần thức hợp lại nên thành thai và được nuôi dưỡng bằng tứ đại qua thức ăn, nước uống, hơi thở và sức ấm của người mẹ. Đến khi lớn lên, già bệnh rồi chết, thân tứ đại rã rời, không còn con người ta nữa. Như vậy, tất cả cái gì mà ta thấy hiện hữu đều không có tự thể, nghĩa là tự nó không có, mà đều do các duyên hợp lại mà thành, khi không còn duyên nữa thì nó không còn tồn tại nữa.
Tất cả những ví dụ trên mới chỉ là lớp nhân duyên thứ nhất. Lớp thứ hai, ví dụ người ta hỏi người thợ mộc làm nhà rằng gỗ, bào, đục, đinh từ đâu có? Nếu hỏi nguyên liệu để làm giấy từ đâu mà có, thì phải xét đến nhiều duyên mới hợp thành các loại cây có sơ sợi, phải có nhiều duyên mới hình thành cỗ máy làm giấy. Và nếu xét đến cùng thì sự liên hệ đó trùng trùng điệp điệp, không thể nào nói một hai chặng mà hết được. Vì vậy mà gọi là trùng trùng duyên khởi. Đã là trùng trùng duyên khởi thì giữa chúng ta và mọi người, mọi sự vật đều có liên hệ với nhau.
Con người ta có áo mặc, có cơm ăn, có xe cộ đi lại, thì phải liên hệ với biết bao nhiêu người làm ra những thứ ấy. Trên thế gian này vạn vật đều tương quan, con người hay nói chung là chúng sinh đều tương quan, vì vậy người ta ai cũng đều mang nợ nhau hết, ai cũng có công đóng góp cho mình. Do đó mọi người không tách rời nhau được. Vì thấy được sự liên hệ trùng trùng duyên khởi, nên với tâm Bồ Tát, mọi người đều là ân nhân của mình.
 
3. Vô ngã (không có cái ta):
Chính vì mọi sự vật là do duyên khởi, kể cả con người, nên không có những cái duyên ấy kết hợp thì không còn cái ta (ngã) nữa. Vì vậy tất cả là vô ngã (không có cái ta). Vô ngã ở đây không chỉ biểu hiện ở con người, ở chúng sinh mà ở tất cả các sự vật và các pháp. Đối với hữu tình thì là nhân vô ngã, đối với sự vật và các pháp là pháp vô ngã.
Con người hay nói rộng hơn là chúng sinh nói chung, không có biết bao nhiêu duyên hợp lại mới hình thành con người. Con người được sinh ra, lớn lên, bệnh tật rồi chết, không tồn tại nữa. Bản thân con người không tự nó sinh ra, không có tự thể mà phải do tinh cha huyết mẹ và thần thức hợp lại và được nuôi dưỡng lớn lên rồi chết đi, khi chết thì không còn tồn tại cái ta nữa. Nên nói con người hay chúng sinh là vô ngã. Đó là nhân vô ngã.
Ta nhìn một cái bát ăn cơm, nó là không có tự thể, nghĩa là nếu không có đủ duyên như đất sét, kỹ thuật của con người, máy móc, bàn tay khéo nặn và khéo vẽ, lửa trong lò nung v.v… thì không thể thành cái bát. Bản thân cái bát không tự nó có và không tồn tại lâu dài vĩnh cửu, do đó nó không có tự thể, đó là pháp vô ngã. Bất cứ vật gì trong cuộc sống mà ta có thể sờ mó được đều là vô ngã vì vật đó bản thân nó không tự có mà phải do các duyên khác tạo thành. Vậy thế giới sự vật và chúng sinh cũng không có tự thể, nghĩa là đều vô ngã.
4. Vô thường:
Ngoài ra sự vật và con người hay nói rộng ra thế giới và chúng sinh còn chịu sự thay đổi liên tục theo thời gian theo từng sát na, mỗi giờ một khác, mỗi ngày một khác, không bao giờ đứng yên một chỗ, không bao giờ không thay đổi. Đó là lẽ vô thường.
Cái hiện thực của lát giây trước, không phải là cái hiện thực của lát giây sau. Con người của bản thân ta hôm nay không phải là ta của ngày hôm qua mà cũng không phải là ta của ngày mai. Một con người cách đây mấy năm vốn là một đứa trẻ, lớn lên được nuôi dưỡng, được theo học, được truyền bá kiến thức trở thành nhà bác học, về già thì bệnh tật, chân chậm, mắt mờ, nghĩa là luôn luôn thay đổi theo lẽ vô thường. Nghĩa là con người cụ thể ấy đều có biến đổi liên tục theo thời gian theo luật sinh lão bệnh tử. Hôm nay và ngày mai đã khác nhau, thậm chí con người ấy khác nhau theo từng sát na một. Đó là lẽ vô thường, về con người gọi là nhân vô thường.
Mọi sự vật trong thế giới này cũng thế, cũng phải chịu biến đổi theo thời gian. Những công trình kiến trúc lịch sử nguy nga từ nhiều thế kỷ trước cũng phải chịu biến đổi theo năm tháng, bản thân nó hoặc sẽ bị đổ vỡ hoặc bị chiến tranh tàn phá hoặc bị chôn vùi dưới đất sâu. Những đồ vật ta dùng hàng ngày từ quần áo mặc, cái bàn để ngồi viết, cái bát để ăn cơm cũng chịu biến đổi theo quy luật thành trụ hoại không nghĩa là biến đổi và không tồn tại vĩnh viễn. Tất cả đều chịu sự chi phối của lẽ vô thường về các sự vật hay các pháp gọi là pháp vô thường.
Do vậy thế giới và chúng sinh đều chịu sự chi phối của quy luật biến đổi gọi là lẽ vô thường
5. Học thuyết Tính Không trong Bát Nhã Tâm kinh:
Nói rõ ra, tất cả mọi sự vật trong đó gồm cả thế giới, chúng sinh, con người, đều là vô ngã, tức là không có tự thể, không tự có và không tồn tại mãi mãi. Nó là không, không đây không phải là không khác với có. Trường phái Bát nhã triển khai lý luận về hai thứ vô ngã ấy, tức vô ngã về con người, vô ngã về sự vật, và lý lẽ vô thường mà thành lập thuyết tính không. Đó là tư tưởng chủ đạo trong Bát Nhã Tâm Kinh.
Vì đã do nhân duyên sinh, nên cả thế giới và chúng sinh hay con người đều không có thực thể, hay nói khác đi là không có tự thể, không tự mình mà có, thảy đều giả hữu, đều vô ngã, hết thảy đều không và đều chịu sự chi phối của luật biến đổi tức vô thường. Không ở đây phải hiểu là không có tự thể, là tính không có tự thể của mọi sự vật hiện tượng, không đây không phải là không ngược với có. Mà với cái không của tính không ấy, nó vẳng lặng trong xuốt. Thuật ngữ Phật giáo gọi cái không ấy là Thuấn nhã đa, tức phiên âm chữ Sùnyatà, dịch và gọi là Tính không.
Hiểu rõ giáo nghĩa tính không thì may ra mới tạm có một khái niệm tương đối rõ ràng về Bát nhã. Chỉ khái niệm mà thôi, còn thực chất ra sao, thì phải tu mới chứng được..
Phật giáo sở dĩ khác với các thần giáo ở một điểm này. Và ai đã thừa nhận luật duyên khởi hay nhân duyên thì không thể nào thừa nhận một đấng tạo hóa sáng thế nữa. Người đó trên hình thức, dù có theo đạo Phật hay không theo đạo Phật, cũng đã là Phật tử trên bình diện tư tưởng rồi. Ngược lại, dù là tăng sĩ, nhưng không thông suốt duyên khởi, luật luân hồi thì đó cũng chỉ là ngoại đạo trá hình. Nói thế, cốt để nhấn mạnh vai trò chủ đạo, vai trò tiên quyết của lý nhân duyên, hay duyên khởi, luật luân hồi trong toàn bộ giáo pháp Phật. Không có duyên khởi, không có Phật giáo, cũng như không có Bát nhã thì không có Ðại thừa, như đã khẳng định ngay trong câu mở đầu.
Khi đã thừa nhận duyên khởi thì đương nhiên phải thừa nhận hai hệ luận gắn liền với duyên khởi, đó là vô ngãvô thường. Ðã là vô thường thì tác dụng do nó gây ra là khổ. Còn vô ngã thì đương nhiên các sự kiện tự nó là không. Không, đây cần nhắc lại, là không có tự thể. Từ những cái mắt thấy tai nghe, cho đến những cái ý thức suy nghĩ, hết thảy đều không có tự thể dù chúng đang hiện hữu trước mặt.Ví dụ làm gì có mây nếu không có hơi nước bốc hơi lên, làm gì có mưa nếu những đám mây không có duyên gặp lạnh, hoặc làm gì có sóng nếu trong sông hồ ao biển không có nước và trong không trung không có gió. Tất cả những cái đó tự nó không có tự thể mà phải do các duyên hợp lại mà thành. Như vậy tính nó là không, không có tự thể.
Đó là vấn đề tính không trong Phật giáo. Giáo nghĩa tính không bắt nguồn từ đâu? Vị trí nó trong giáo lý Phật như thế nào?  Ðó là những điều cần nghiên cứu thì may ra mới tạm có một khái niệm tương đối rõ ràng về Bát nhã. Chỉ khái niệm mà thôi, Còn thực chất ra sao, thì phải tu mới chứng được.
Bát Nhã Tâm Kinh đã sử dụng học thuyết tính không để phủ định tất cả sự vật và hiện tượng hay nói khác đi là cả thế giới và chúng sinh. Tính không này được vận dụng như thế nào, phần luận giải về Bát Nhã Tâm Kinh trong các phần dưới sẽ diễn giải cụ thể.
Nhưng cần phải nói thêm, phần trên đây chỉ trình bày những giáo lý cơ bản của đạo Phật để minh chứng cho phần luận giải Bát Nhã Tâm Kinh, chứ không thể nào để cập đến hết mọi giáo lý của đạo Phật. Để đi sâu vào một số giáo lý khác, rất có thể sẽ được trình bày trong phần tìm hiểu nội dung của Bát Nhã Tâm Kinh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét